Đức Thế Tôn đến thành Ba-liên-phất (Pataliputra) đang được xây cất trên bờ sông Hằng (Gange). Ngài cúi đầu thi lễ những bức tường vừa nhô lên khỏi mặt đất và tán thán:
"Ngày kia thành này sẽ là nơi lừng danh cao quí; một quốc vương kiệt xuất sẽ cai trị thành này và nhiều vị anh hùng cái thế sẽ ra đời tại đây. Hỡi Ba-liên-phất, ngươi sẽ là kinh thành trù mật phú cường, thế nhân sẽ ca tụng tên ngươi qua bao thời đại."
Ngài băng qua sông. Ngài nhắm đến thành Tỳ-xá-li, nhưng mới đến thành Bai-va (Bailva) thì Ngài lâm trọng bệnh. Ngài đau ê ẩm cả người. A-nan khóc sướt mướt, thầy nghĩ là Ngài sắp tịch diệt. Nhưng Đức Thế Tôn nhớ đến nhiều môn đệ mà Ngài phải viếng thăm; Ngài chưa muốn vào niết bàn, Ngài muốn trao truyền giáo pháp cho họ lần cuối. Nhờ ý chí vững mạnh, Ngài đã khắc phục được con bịnh, sự sống chưa từ bỏ Ngài. Ngài bình phục trở lại.
Đến lúc khỏe hẳn, Ngài ra khỏi nhà và ngồi cạnh cửa ra vào. A-nan đến ngồi bên Ngài và bạch rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, con thấy Ngài đã hồi phục sức khỏe. Hôm Ngài bịnh nặng, con mất cả nghị lực; con cũng bịnh theo Ngài. Có lúc con nhận thấy Đức Thế Tôn không thể nào bịnh được. Con vững tin là Ngài còn nhớ đến giáo hội. Con biết Ngài không thể vào niết bàn mà trước tiên không bày tỏ ý định với giáo hội."
Đức Thế Tôn nói:
"Này A-nan, giáo hội còn đòi hỏi ở ta điều gì?" Ta đã khai thị chánh pháp, ta đã truyền đạt chánh pháp; không còn một điểm nhỏ nào ta chưa giảng giải! Ai nghĩ rằng: "Ta muốn lãnh đạo giáo hội" thì hãy bày tỏ ý định với giáo hội. Này A-nan, Đức Thế Tôn không bao giờ nghĩ "Ta muốn lãnh đạo giáo hội" thì tại sao Ngài phải bày tỏ ý định với giáo hội? Này A-nan, ta già rồi; tóc ta bạc, thân ta yếu. Ta đã tám mươi tuổi, ta đã đi đến cuối đoạn đường. Bây giờ mỗi thầy hãy tự mình là một ngọn đuốc soi đường; không ai có thể mang ánh sáng đến cho các thầy. Sau khi ta giã từ dương thế, thầy nào tự mình thắp lên ngọn đuốc cho chính mình thì rõ ràng là thầy ấy đã hiểu được ý nghĩa lời dạy của ta; này A-nan, thầy ấy sẽ là đệ tử chân chính của ta; thầy ấy sẽ biết sống theo chánh nghiệp."
Ngài lại lên đường, sau đó Ngài đến Tỳ-xá-li. Ngài khất thực từng nhà qua kinh thành. Bỗng nhiên Ngài thấy Ma-vương đứng trước Ngài.
Tên ác quỉ nói: "Bạch Đức Thế Tôn, đã đến giờ rồi; người hãy vào niết bàn!"
Đức Thế Tôn nói: "Không! ta biết khi nào ta phải vào niết bàn; này ác quỉ, ta biết rõ hơn ngươi. Còn một vài tháng nữa. Ba tháng nữa Đức Thế Tôn sẽ vào niết bàn."
Đức Thế Tôn nói xong, cả trái đất rung chuyển, sấm rền vang bầu trời: Đức Thế Tôn đã từ bỏ ý chí lưu lại trần thế; Ngài đã ấn định thời hạn vào niết bàn. Cả trái đất rung chuyển, sấm rền vang bầu trời.
Đêm đó, Ngài tập họp tăng đoàn ở Tỳ-xá-li lại. Ngài dạy:
"Này các thầy tỳ kheo, hãy cẩn thận giữ gìn tri kiến mà ta đã chứng đắc và trao truyền cho các thầy, hãy theo chánh đạo cho nếp sống thánh thiện được trường tồn, vì sự an lạc và giải thoát cho đời, vì sự an lạc và giải thoát cho chư thiên, vì sự an lạc và giải thoát cho nhân thế: một vài tháng nữa ta sẽ vào niết bàn. Ta ra đi và các thầy ở lại. Nhưng, này các thầy tỳ kheo, đừng bao giờ ngừng tinh tiến. Thầy nào vững bước trên đường chân chính, thầy ấy sẽ thoát khỏi sanh tử, thầy ấy sẽ vĩnh viễn giải thoát khổ đau."
Ngày hôm sau, Ngài lại vào thành khất thực; rồi cùng với một vài đệ tử, Ngài lên đường đến Câu-thi-na (Kusinagara), Ngài quyết định nhập niết bàn tại đó.