Đề-bà Đạt Đa nóng lòng muốn thay Phật cầm đầu giáo hội. Một hôm, y nói với A-xà-thế:
"Tâu bệ hạ, Đức Phật khinh miệt bệ hạ lắm. Hắn oán ghét bệ hạ lắm. Vì tiền đồ xán lạn của bệ hạ, bệ hạ hãy trừ hắn đi. Bệ hạ hãy lệnh cho một số vệ binh đến Trúc-lâm giết quách hắn; bần đạo sẽ dẫn đường."
A-xà-thế bị thuyết phục dễ dàng. Những tay sát nhân đến Trúc-lâm, nhưng khi thấy Đức Thế Tôn, chúng sụp lạy tôn thờ dưới chân Ngài. Sự kiện đó làm cho Đề-bà Đạt Đa càng giận thêm. Y thẳng đến tàu voi của hoàng gia, tìm một con voi hung bạo nhất, rồi mua chuộc đám vệ binh thả voi khi Phật đi qua để nó vung vòi quật Ngài hoặc dùng chân chà đạp Ngài. Nhưng khi nhìn thấy Đức Thế Tôn, con voi trở nên ngoan ngoãn, nó đi đến trước Ngài, đưa vòi phủi những vết bụi bám trên vạt áo cà sa của Ngài. Đức Thế Tôn vui cười hoan hỷ nói:
"Đây là lần thứ hai, nhờ Đề-bà Đạt Đa, mà một con voi đã biết kính lễ ta."
Sau đó, chính Đề-bà Đạt Đa quyết tâm hãm hại Đức Thế Tôn. Thấy Ngài đang nhập định dưới bóng cây, y bạo gan ném Ngài một cục đá nhọn, cục đá va vào chân Ngài; vết thương từ từ rỉ máu. Đức Thế Tôn nói:
"Đề bà Đạt Đa, ngươi đã phạm một trọng tội; nghiệp báo rồi đây sẽ ghê gớm lắm. Những nổ lực hãm hại thân mạng Đức Thế Tôn đầy tội ác của ngươi đều vô ích; Ngài sẽ không qua đời non yếu đâu. Ngài sẽ ra đi theo hạnh nguyện của Ngài, Ngài sẽ viên tịch theo giờ giấc Ngài chọn."
Đề-bà Đạt Đa bỏ đi. Y dứt khoát không theo qui luật của giáo hội nữa, y dốc lòng tìm kiếm môn đệ riêng của y.
Trong khi đó, vua Tần-bà-sa-la đang chết dần chết mòn vì đói khát. Nhưng ngài không chết hẳn. Một năng lực huyền nhiệm nào đó đã duy trì mạng sống của ngài. Cuối cùng, con của Ngài quyết định hạ thủ ngài, chàng ra lệnh đốt hai lòng bàn chân của ngài, rạch hai chân ngài rồi đổ dầu muối lên trên vết thương. Tên đao phủ y lệnh, nhưng hắn cũng rơi lệ khi thấy cụ già bị hành hạ như vậy.
Ngày A-xà-thế hạ lệnh giết phụ hoàng cũng là ngày chàng có một bé trai ra đời. Nhìn con, chàng cảm thấy vô vàn sung sướng; bớt đi tính khắc nghiệt phần nào, chàng vội phái vệ binh đến ngục ngăn cuộc hành hình. Nhưng họ đến trễ quá; vua Tần-bà-sa-la đã chết trong cảnh thống khổ kinh hồn.
A-xà-thế bắt đầu ân hận. Một hôm, chàng nghe hoàng hậu Vi Đề-hi bế hoàng tử tí hon tỉ tê:
"Nguyện cầu cha cháu thương cháu như cha của cha cháu thương cha cháu. Xưa kia, khi cha cháu còn bé, cha cháu bị một cái nhọt trên đầu ngón tay, nó hành hạ cha cháu đau đớn khóc hoài; không có một loại thuốc nào chữa khỏi; vì thế, hoàng thượng Tần-bà-sa-la phải dùng môi ngậm đầu ngón tay mà hút mủ ra, A-xà-thế nhờ vậy mà ăn chơi vui đùa trở lại. Ồ, cháu ơi, hãy yêu quí cha cháu; đừng đem lòng độc ác hành hạ cha cháu như cha cháu đã đem lòng độc ác hành hạ cựu hoàng Tần-bà-sa-la."
A-xà-thế xót xa rơi lệ. Chàng hối hận vô vàn. Đêm đêm, trong giấc ngủ, chàng thường thấy phụ hoàng bị thương đổ máu, và nghe tiếng ngài than oán rợn người. Chàng bị sốt nặng, ngự y Kỳ-bà (Jivaka) được triệu đến hoàng cung để chữa trị chàng.
Kỳ-bà nói: "Hạ thần không thể làm gì được cho bệ hạ. Thân bệ hạ không bệnh. Hãy đến gặp Đấng Đại Giác, Đức Thế Tôn, Đức Phật; chỉ có Phật mới an ủi và hồi phục sức khỏe cho ngài."
A-xà-thế theo lời khuyên của Kỳ-bà. Chàng đến gặp Đức Thế Tôn; chàng bộc lộ hết mọi hành vi thâm độc của chàng, chàng thấy an tâm trở lại.
Đức Phật nói: "Phụ hoàng của bệ hạ đã được sanh lên cõi trời Đạo-lợi, người đã hiểu lòng ân hận của bệ hạ và đã tha thứ cho bệ hạ tất cả. Hỡi vua A-xà-thế, hãy nghe ta; hãy đạt ngộ giáo pháp và đoạn diệt khổ đau."
A-xà-thế ban hành một quyết định trục xuất Đề-bà Đạt Đa ra khỏi nước, lệnh dân chúng đóng cửa tống khứ y nếu thấy y đến xin tá túc.
Bấy giờ Đề-bà Đạt Đa ở gần thành Xá-vệ, y hy vọng được vua Ba-tư-nặc đón tiếp, nhưng y cũng bị khinh miệt khước từ và buộc phải rời khỏi nước. Không thể khuyên dụ tín đồ, y cuối cùng phải trở về thành Ca-tỳ-la-vệ.
Y vào thành lúc màn đêm buông xuống. Đường phố tối nhem, kinh thành vắng ngắt; hầu như không ai nhận ra y khi y đi qua, vì làm sao người ta có thể nhận ra một sa môn gầy gò khốn khổ, men men theo bóng vách tường, với Đề-bà Đạt Đa huênh hoang kiêu mạn? Y đi thẳng đến cung điện của công chúa Da Du, nơi bà sống một mình trong cô đơn hiu quạnh.
Y được mời vào.
Da Du nói: "Thưa thầy, thầy muốn gặp tôi có chuyện chi? Thầy mang tin vui đến cho tôi phải không? Thầy vâng lệnh chồng tôi sai đến phải không?"
"Chồng của công chúa à! Ngài ít khi lo cho công chúa! Hãy nghĩ lại lúc Ngài tàn nhẫn bỏ công chúa!".
"Ngài đã bỏ tôi để giải thoát cho nhân thế".
"Công chúa còn yêu Ngài chứ?"
"Tình yêu của tôi sẽ làm hoen ố sự trong sạch của đời Ngài."
"Thế thì hận Ngài muôn đời là phải."
"Tôi hết lòng tôn kính Ngài."
"Này bà, Ngài đã khinh bỉ ruồng bỏ bà, bà phải báo thù Ngài mới được."
"Này sa môn, hãy im đi! Lời lẽ của ngươi thô ác quá"
"Em không nhận ra anh sao? Anh là Đề-bà Đạt Đa, người yêu em tha thiết đó!"
"Đề-bà Đạt Đa, Đề-bà Đạt Đa, ta biết ngươi là người điêu ngoa độc ác; ta biết ngươi là một sa môn bất tín lọc lừa, nhưng ta không bao giờ nghi ngờ những mưu sâu hèn hạ của ngươi".
"Da Du, Da Du, anh yêu em! Chồng em khinh miệt em; hắn tàn nhẫn lắm! Hãy thù hắn. Hãy yêu anh!"
Da Du giận đỏ mặt. Đôi mắt dịu hiền của bà bỗng dưng tràn ra những giọt lệ Ô nhục.
"Chính ngươi khinh miệt ta! Tình yêu của ngươi sẽ là một sỉ nhục nếu nó chân tình, nhưng ngươi lại láo khoét bảo rằng ngươi yêu ta. Ngươi ít khi để ý đến ta trong những ngày ta còn son trẻ, trong những ngày ta còn xinh đẹp nõn nà! Nay ngươi gặp ta, một cụ bà héo gầy chuyên tu khổ hạnh thì ngươi lại bày chuyện yêu đương, lại tỏ tình ái ân tội lỗi! Đề-bà Đạt Đa, ngươi là người đáng nguyền rủa nhất! Hãy cút đi! Cút đi!"
Đề-bà Đạt Đa nỗi giận nhào đến bà. Bà đưa tay ra đỡ, y ngã nhào xuống đất, lăn tròn mấy vòng, máu trong miệng y vọt ra xối xả.
Y lặng lẽ bỏ đi. Cả dòng tộc Thích-ca nghe y về thành Ca-tỳ-la-vệ, họ ra lệnh vệ binh tống khứ y ra khỏi thành, đưa y đến yết kiến Phật để Ngài quyết định số phận của y. Y giả vờ hối hận, nhưng y đã tẩm thuốc độc vào móng tay, và khi y sụp lạy dưới chân Đức Thế Tôn, y cố tình cào vào mắt cá của Ngài. Đức Thế Tôn đưa ngón chân cái đẩy nhẹ y, mặt đất như nứt ra; lửa dữ vọt lên, phủ kín tên Đề-bà Đạt Đa hèn hạ.