Ma-ha Ba-xà-ba Đề mãi trầm tư suy nghĩ. Bà nhận thấy sự vô vị trống rỗng của cõi đời này. Bà muốn thoát khỏi hoàng cung, thoát khỏi kinh thành Ca-tỳ-la-vệ, và sống một cuộc đời thánh thiện.
Bà nghĩ: "Đức Thế Tôn hạnh phúc biết bao! Đồ chúng của Ngài hạnh phúc biết bao! Tại sao không thể làm như họ? Tại sao ta không thể sống như họ? Nhưng họ lại khước từ phụ nữ. Chúng ta không được chấp nhận vào giáo hội, ta phải lưu lại kinh thành ảm đạm này, ta phải lưu lại hoàng cung thê lương này; ta bơ vơ lạc lõng, dưới mắt ta, tất cả đều trống rỗng!".
Bà đau khổ. Bà vất hết xiêm y sang trọng; bà phân phát châu báu ngọc ngà cho các thị nữ, bà khiêm tốn giản dị trước mặt mọi loài.
Một hôm, bà tự nhủ:
"Đức Thế Tôn từ bi lắm, Ngài sẽ thương xót tạ Ta sẽ đến gặp Ngài, và biết đâu Ngài sẽ tiếp nhận ta vào giáo hội".
Đức Thế Tôn đang trú tại một cánh rừng gần thành Ca-tỳ-la-vệ. Ma-ha-ba-xà-ba Đề đến gặp Ngài, bà rụt rè thưa:
"Bạch Đức Thế Tôn, chỉ có Ngài và môn đệ của Ngài là thật sự hạnh phúc. Còn con, giống như Ngài và mọi người theo Ngài, con muốn đi trên con đường giải thoát. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho con được vào giáo hội."
Đức Thế Tôn im lặng. Bà tiếp:
"Làm sao con có thể an vui hạnh phúc trong một thế giới mà con ngao ngán ê chề? Con đã thấy rõ những hoan lạc hào nhoáng của nó. Con muốn đi trên con đường giải thoát. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho con được vào giáo hội. Con biết có nhiều phụ nữ cũng muốn theo gương con. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho chúng con được vào giáo hội."
Đức Thế tôn vẫn im lặng. Bà tiếp:
"Hoàng cung của con nay tẻ nhạt u buồn lắm. Kinh thành bị bao trùm trong một màn đen tối. Những tấm vải thêu sặc sỡ chỉ đè nặng lên vầng trán con; vương miện, vòng kiềng chỉ làm con thêm đau nhói. Con phải đi trên con đường giải thoát. Biết bao phụ nữ nhiệt tình, biết bao phụ nữ thuần thành đang sẵn sàng nối gót con. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho phụ nữ được vào giáo hôi."
Đến lần thứ ba, Đức Thế Tôn vẫn im lặng.
Ma-ha-ba-xà-ba Đề trở về hoàng cung u tối với hai hàng nước mắt ròng ròng.
Nhưng bà không bỏ cuộc. Bà quyết tâm đến gặp Đức Thế Tôn một lần nữa để van xin Ngài.
Bấy giờ Ngài an trú trong một khu rừng rộng bao la gần thành Tỳ-xá-lỵ Ma-ha-ba-xà-ba Đề tự cắt tóc, khoác lên mình một chiếc y thô sơ màu ngà, bà lên đường đến thành Tỳ-xá-lỵ.
Bà làm cuộc hành trình bằng chân không; bà không hề than phiền mỏi mệt. Bụi bám đầy người, cuối cùng bà đến ngay tịnh xá Đức Thế tôn đang nhập định. Bà không dám vào; bà đúng khóc sướt mướt ngoài ngõ. A-nan chợt đi ngang qua, nhìn thấy bà và hỏi:
"Thưa hoàng hậu, vì sao hoàng hậu đến đây; lại ăn mặc như thế này? Tại sao hoàng hậu lại đứng trước của tịnh xá của Đức Thế Tôn?"
"Ta không dám vào diện kiến Ngài. Đã ba lần Ngài từ chối lời thỉnh nguyện của ta, hôm nay ta đến cầu xin Ngài một lần nữa: Xin Ngài hoan hỷ cho ta, cho giới phụ nữ được vào giáo hội."
A-nan vào tịnh xá, gặp Đức Thế Tôn, bạch rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, Ma-ha-ba-xà-ba Đề, hoàng hậu kính yêu của chúng ta, đang đứng trước cổng tịnh xá của Ngài. Bà không dám gặp Ngài, bà sợ Ngài sẽ khước từ lời thỉnh nguyện của bà một lần nữa. Bạch Đức Thế Tôn, đó đâu phải là lời thỉnh nguyện của một phụ nữ điên rồ, bà không đáng cho Ngài ban ân huệ sao? Hoàng hậu đã một thời là di mẫu của Ngài; lúc nào bà cũng thương yêu chăm sóc Ngài; bà thật xứng đáng được Ngài chiếu cố. Vì sao Ngài dứt khoát không chấp nhận phụ nữ vào giáo hội? Có nhiều phụ nữ rất mực thuần thành, có nhiều phụ nữ can đảm nghiêm trì đường hướng thánh thiện lắm chứ."
Đức Thế Tôn nói: "Này A-nan, đừng cầu xin ta cho phép phụ nữ vào giáo hội."
A-nan cáo lui. Hoàng hậu đang mong gặp A-nan.
Bà lo lắng hỏi: "Đức Thế Tôn nói sao?"
"Ngài khước từ lời thỉnh nguyện của hoàng hậu. Nhưng đừng thất vọng."
Ngày hôm sau, đến gặp Đức Thế Tôn, A-nan thưa:
"Ma-ha-ba-xà-ba Đề không chịu ra về. Bà đang nghĩ đến những ngày dài hạnh phúc của thời bà còn son trẻ. Lúc đó Ma Da còn sống; Ma Da, người phụ nữ diễm kiều nhất; Ma Da, người đã hạ sanh một bé trai. Em gái của Ma Da là người rất cao thượng; bà không hề ganh tị: bà yêu thương ngay cả trước khi bé mở mắt chào đời. Đến khi bé ra đời, mang nguồn vui đến cho tất cả chúng sanh thì hoàng hậu khuất núi. Ma-ha-ba-xà-ba Đề đã sớm hôm chăm sóc đứa bé mồ côi mẹ đó: bé hình như non nớt lắm. Bà đùm bọc che chở bé; bà tận tụy nuôi dưỡng bé, bà bồng bế bảo hộ bé khỏi bị ảnh hưởng của bọn tỳ nữ ác tâm; bà hết lòng trông nom chiều chuộng bé. Đến khi bé lớn lên, bà vẫn không rời bé. Bà đoán biết những sở thích vụn vặt nhất của bé; bà tôn thờ bé, người đã đạt đến nguồn hạnh phúc tối thượng. Người là cây đại thọ che mát các bậc hiền đức cao minh; và giờ đây, khi bà muốn tìm một nơi an trú khiêm tốn dưới bóng cây đại thọ của người thì ước vọng bình dị an lành đó lại bị từ chối. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài độ lượng, xin Ngài hoan hỷ thâu nhận Ma-ha-ba-xà-ba Đề vào giáo hội."
Đức Thế Tôn đắn đo suy nghĩ, rồi trịnh trọng phán rằng:
"Này A-nan, hãy lắng nghe. Hãy đi gặp Ma-ha-ba-xà-ba Đề và nói với bà rằng ta sẵn lòng đón nhận bà vào giáo hội, nhưng với điều kiện là bà phải chấp nhận một số giới luật nghiêm khắc. Đây là giới luật mà ta buộc giới phụ nữ phải vâng giữ khi vào giáo hội; một tỳ kheo ni, dù đã trải qua trăm hạ, cũng phải đứng dậy cung kính trước sự hiện diện của một tỳ kheo tăng, dù cho vị ấy mới vào đạo được một ngày; tỳ kheo ni phải đến gặp tỳ kheo tăng để phát lồ sám hối những điều lỗi lầm và để cầu xin giáo thọ; tỳ kheo ni phạm trọng tội, trước mặt đại chúng tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni, phải được xử phạt thích đáng trong vòng mười lăm ngày; trước khi tỳ kheo ni được nhận vào giáo hội, đức hạnh và chí hướng của họ phải được thử thách trong một giai đoạn là hai năm; tỳ kheo ni không được khích động tỳ kheo tăng. Đây là giới luật buộc tỳ kheo ni phải giữ cùng với những giới luật đã được áp dụng cho tỳ kheo tăng."
Ma-ha-ba-xà-ba Đề sung sướng tuyên hứa nghiêm giữ giới luật. Bà gia nhập giáo hội, và chỉ trong vài tháng sau, nhiều phụ nữ đã nối tiếp theo gương bà.
Nhưng rồi, một hôm, Đức Thế Tôn nói với A-nan:
"Này A-nan, nếu không chấp nhận phụ nữ vào giáo hội, chúng ta có thể duy trì sự tinh khiết trong một thời gian dài, và chánh tín có thể tồn tại, vững mạnh, thanh tịnh cả ngàn năm. Nhưng, này A-nan, nay chấp nhận phụ nữ vào giáo hội, sự tinh khiết đó rồi sẽ bị hoen ố và chánh tín, dù vững mạnh tới đâu, cũng sẽ chỉ tồn tại trong khoảng 500 năm."