- Tôi báo với bố rằng mình có rất nhiều bài tập cần phải làm, và rằng tôi không muốn bỏ vào bụng bất cứ thứ gì vào lúc này.
Tất nhiên là bố đồng ý cái rụp... Trận đấu bóng rổ kia đang chiếm hết tất cả tâm hồn của bố... Chẳng hiểu nó có gì đặc biệt mà bố thích thú đến thế, bố mê mẩn đến độ chẳng nhận ra vẻ mặt hay giọng nói bất thường của tôi.
Mỗi khi đặt chân vô phòng là tôi khóa ngay cửa lại. Bước đến chỗ bàn học, tôi lục tung nó lên cho đến khi tìm ra một cái tai nghe cũ kỹ và gắn nó vào chiếc máy nghe đĩa cá nhân. Tôi chọn lấy một đĩa nhạc do dượng Phil tặng hồi Giáng sinh. Đây là một trong những ban nhạc mà dượng yêu thích, tuy nhiên, họ chơi nhạc trầm và hò hét dữ quá... nên không hợp với gu của tôi. Vậy mà không hiểu sao, tôi vẫn quyết định bỏ nó vào máy nghe đĩa rồi nằm xoài ra giường. Tôi đeo tai nghe vào, nhấn nút Play, rồi chỉnh âm thanh lên đến mức làm cho hai tai muốn nổ tung. Tôi nhắm mắt lại. Ôi, sao vẫn cảm nhận được ánh sáng. Khó chịu... tôi quơ tay với lấy cái gối, úp lên mặt... Thế là xong.
Hết sức tập trung tất cả mọi giác quan vào các bài hát, tôi cố hiểu mấy ca từ và lọc bỏ tiếng trống đệm thùng thùng thình thình inh ỏi kia. Cuối cùng, sau ba lần nghe đi nghe lại đĩa nhạc, tôi mới nhận ra được hết tất cả các từ cũng như phần hợp xướng... Và tôi không khỏi ngạc nhiên khi phát giác ra rằng tôi đã thực sự thích ban nhạc (Ấy là khi tập trung vào lời ca và bỏ ngoài tai phần kèn trống đinh tai nhức óc). Vậy là phải cảm ơn dượng Phil lần nữa rồi.
Và tôi đã thành công. Tiếng nhạc xập xình đã làm đầu óc tôi không thể suy nghĩ vẩn vơ gì được nữa... Đó cũng chính là mục đích của tôi. Tôi nghe tới nghe lui mãi cái đĩa CD, mỗi khi nghe xong một lượt, tôi bật lại từ đầu, vừa nghe vừa lẩm nhẩm hát theo đến thuộc... Cứ thế, cứ thế... tôi mê mẩn chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Mở choàng đôi mắt, tôi nhận ra mình đang ở nơi quen thuộc. Một phần ý thức của tôi đấy, nó đã len lỏi vào được trong giấc mơ của tôi... Nơi ấy, khu rừng vẫn hiện ra mờ mờ trong thứ ánh sáng màu xanh lục. Vẫn là tiếng sóng rì rào vỗ vào bờ đá đâu đó không xa. Tôi hiểu nếu mình tìm được đường ra tới biển, chắc chắn sẽ thấy được mặt trời. Tôi cố đi theo tiếng sóng, nhưng rồi nhận ra Jacob Black đang đứng sừng sững trước mặt, cậu bé giật tay tôi, kéo tôi trở lại khoảng rừng tối tăm nhất.
- Jacob? Có chuyện gì vậy? - Tôi hỏi như hét lên. Gương mặt cậu bé rõ là đang hãi sợ tột cùng, cậu bé dùng hết sức để kéo tôi đi, kéo cả sức chống cự của tôi nữa... tôi không muốn dấn bước vào nơi tăm tối.
- Chạy đi, Bella, chị phải chạy đi! - Jacob thì thào tiếng được tiếng mất, nỗi sợ hãi như đã thít chặt cuống họng cậu bé.
- Lối này, Bella! - Tôi nhận ra giọng nói của Mike văng vẳng đâu đó trong khoảng rừng u ám, um tùm nhất; chỉ nghe được tiếng thôi mà không thể thấy người đâu cả.
- Sao vậy? - Tôi hỏi lại, cố giằng mình ra khỏi cánh tay níu kéo của Jacob, hòng chạy đi tìm ánh sáng ấm áp của mặt trời.
Bất chợt, Jacob buông tay tôi ra, cậu bé tru lên những tiếng kêu hoang dại, rồi toàn thân bắt đầu run rẩy, càng lúc càng nhanh, càng dữ dội đến độ cậu bé ngã lăn ra đất, tay chân thoắt một cái, co rút lại... Tôi chứng kiến cảnh đó mà mặt trắng bệch không còn một hột máu... Tôi quá khiếp đảm.
- Jacob - Tôi thét lên. Nhưng Jacob đã biến mất. Thay vào chỗ của cậu là một con sói lớn có đôi mắt đen và một bộ lông màu nâu đỏ. Con sói nhìn trừng trừng về phía xa, phía có bãi biển, phần lông trên vai và lưng của nó bắt đầu dựng đứng, hai hàm nanh nhọn hoắt nhe ra cùng với những tiếng kêu gầm gừ đầy đe dọa...
- Bella, chạy đi! - Mike hét lên sau lưng tôi. Nhưng tôi chẳng buồn quay lại. Đôi mắt tôi như bị thôi miên bởi một quầng sáng đang từ bãi biển tiến về phía mình.
Và rồi từ giữa những tàn cây, Edward bước ra, làn da hắn ta hơi phát sáng, đôi mắt đen kịt nham hiểm như chứa đựng hết thảy mọi điều xấu xa. Edward đưa tay lên ra hiệu cho tôi đến gần... Con sói bắt đầu gầm ghè dưới chân tôi.
Tôi tiến lên một bước... về phía Edward. Hắn ta khẽ mỉm cười... Tôi thấy lấp loáng những cái răng sắc lẻm, nhọn hoắt...
- Hãy tin anh - Edward lên tiếng.
Tôi tiến thêm một bước nữa.
Con sói bất ngờ phóng tới, cả thân người nó lao vào khoảng cách giữa tôi và gã ma-cà-rồng... những cái răng nanh cắn phập vào cổ...
- Không! - Tôi thét lên và ngồi bật dậy ở giữa giường.
Động tác bất ngờ của tôi khiến cái tai nghe bị kéo mạnh, lôi theo cả chiếc máy nghe đĩa cá nhân ra khỏi cái bàn bên cạnh, nó rơi đánh cạch một tiếng xuống sàn gỗ.
Đèn phòng tôi vẫn sáng, trên người tôi vẫn còn nguyên bộ quần áo đã mặc lúc ban tối, vẫn còn nguyên cả giày lẫn vớ, và tôi đang ngồi chễm chệ trên giường. Tôi nhìn khắp lượt gian phòng, thẫn thờ, rồi đưa mắt dò tìm chiếc đồng hồ đặt trên nóc tủ đầu giường. Đã năm giờ ba mươi phút sáng rồi ư...
Tôi rên lên rồi lại nằm phịch xuống giường, lăn nửa vòng để úp mặt xuống gối cho thuận đà đá phăng đôi giày ống ra khỏi chân. Trong lòng tràn đầy nỗi bực bội nên tôi không muốn rời cái giường lấy nửa bước. Tôi lại lăn người trở lại để mở khuy chiếc quần jean, xong, tôi lấy đà xoay ngang, ném nó đi. Hình như sau đầu tôi vẫn còn sợi dây tết vướng víu một cách khó chịu. Tôi lại trở người nằm nghiêng, gỡ dải băng cao su đó ra, nhanh chóng sửa tóc cho gọn gàng rồi tết nó lại. Đâu vào đó, tôi kéo chiếc gối lên che lấy mặt.
Dĩ nhiên là chẳng có tác dụng gì. Tiềm thức của tôi lại kéo những hình ảnh quái gở kia trở về, dù tôi đã cố gắng xua đuổi chúng. Được rồi, mình sẽ phải đối mặt thôi, tôi nhủ thầm trong bụng như vậy.
Nghĩ rồi tôi ngồi dậy, đầu óc xây xẩm lấy cả phút khi máu bắt đầu lưu thông đi xuống. Ừm, điều trước tiên cần làm là mình phải tự khiến mình vui vẻ, thoải mái cái đã... Tôi quờ tay chụp lấy cái túi đựng đồ dùng cá nhân.
Lối đến phòng tắm tự dựng trở nên kéo dài ra. Ngoài việc sấy tóc cho khô, tôi còn phải thực hiện hàng khối việc khác nữa. Sau khi đã làm xong tất tần tật mọi việc, tôi quấn vội tấm khăn bông, lạch bạch trở về phòng. Chẳng biết bố có còn đang ngủ hay không, hay đã ra khỏi nhà rồi cũng nên. Tôi hé mắt ra ngoài cửa sổ, không còn thấy chiếc xe tuần tra đâu cả. Bố lại đi “đánh bắt” rồi.
Tôi chậm rãi mặc bộ quần áo yêu thích may bằng vải bông rồi sắp xếp lại chăn gối - một trong những việc trước đây tôi chẳng bao giờ mó tay vào. Ừm, giờ thì đã thật sự hết cách làm cho đầu óc tươi tỉnh được rồi. Tôi tiến đến bàn, mở chiếc máy vi tính cũ mèm lên.
Tôi ghét phải sử dụng Internet ở đây lắm. Bộ biến hoàn của tôi đã lỗi thời lắm rồi... là hàng miễn phí dành cho tôi đấy; nội có cái việc kết nối thôi mà nó cũng chậm như rùa, trong lúc phải chờ đợi khiến phát bực lên như thế này, tôi quyết định bỏ đi làm một tô ngũ cốc cho... hạ hỏa.
Tôi ăn một cách từ tốn, nhai từng muỗng ngũ cốc thật kỹ trước khi nuốt vào bụng. Cứ thế, từng muỗng, từng muỗng được đưa lên miệng tôi thì cái tô cứ thế vơi dần, vơi dần cho đến khi hết nhẵn. Tôi đứng dậy, rửa ráy các thứ, lau khô rồi cất đi. Hai chân trở nên nặng trĩu khi tôi bước lên cầu thang. Chưa cần ngó qua cái màn hình của máy vi tính, tôi bước đến chỗ cái máy nghe đĩa trước, nhặt nó lên rồi đặt một cách cẩn thận ngay chính giữa bàn học. Tôi rút tai nghe ra, cất vào ngăn kéo bàn. Sau đó, vẫn là đĩa hát cũ, tôi bật máy lên, hạ âm lượng xuống đến mức chỉ còn nghe thấy tiếng nhạc nền nho nhỏ.
Không nén được tiếng thở dài, tôi quay lại chiếc máy vi tính. Như thường lệ, trên màn hình của chiếc máy hiện đầy các trang quảng cáo. Tôi ngồi ngay xuống chiếc ghế nệm cứng ngắc và bắt đầu đóng những trang quảng cáo kia lại. Cuối cùng, tôi mở bộ máy tìm kiếm quen thuộc của mình lên, tắt thêm vài cửa sổ không liên quan khác, rồi gõ vào đó ba từ duy nhất:
Ma-cà-rồng.
Lại mất thêm một khoảng thời gian chờ đợi nữa, muốn phát điên lên được. Và kết quả hiện lên là một mớ dữ kiện dài ngoằng như cái sớ táo quân chứa đựng tất cả những gì liên quan đến Ma-cà-rồng, từ phim ảnh, các chương trình tivi, cho đến các trò chơi sắm vai này nọ, những đường ray bí mật trong lòng đất, và cả những công ty mỹ phẩm nữa.
Tôi tìm đến một trang xem ra có triển vọng nhất - “Ma-cà-rồng từ A đến Z”... rồi vừa nhấp nhổm chờ đợi nó hiện lên bằng hết nội dung, vừa nhanh tay tắt từng trang quảng cáo liên tục hiện ra trên màn hình. Cuối cùng thì màn hình cũng sạch trơn, chỉ còn lại cái phông nền màu trắng, trên đó hiện lên những dòng chữ màu đen... trông có vẻ chững chạc. Trang chủ chào đón tôi bằng hai đoạn trích như thế này:
Trong thế giới của bóng đêm rộng lớn, nơi chỉ tồn tại những linh hồn vất vưởng và lũ ma quỷ xấu xa, không có một nhân vật nào đáng sợ, không có một nhân vật nào khủng khiếp khiến cho người ta kinh tởm, nhưng lại mang một ma lực quyến rũ như ma-cà-rồng... một kẻ không đứng vào hàng ngũ của linh hồn hay quỷ dữ nhưng lại sống nhờ bóng đêm, và mang đặc tính của hai loài này... Đó là vừa huyền bí, vừa khủng khiếp. - Cha Montague Summers.
Trên đời này, nếu có một nhân vật nào đó khiến cho người ta phải lao tâm khổ tứ tìm hiểu nhiều nhất để chứng nhận là có tồn tại, thì đó chính là ma-cà-rồng. Không thiếu một thứ gì cả: từ các bản báo cáo, thống kê, cho đến các bản khai có tuyên thệ của những người nổi tiếng, của các bác sĩ, linh mục, quan tòa; cả những bằng chứng có giá trị pháp lý nữa... Nhưng rồi mấy ai tin là có ma-cà-rồng? - Rousseau.
Phần còn lại của trang là danh sách được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái của tất cả các truyện kể khác nhau về ma-cà-rồng, được tập hợp lại từ khắp nơi trên thế giới. Tôi bấm chọn truyện đầu tiên, truyện Danag, một ma-cà-rồng Philíppin, người chuyên trồng khoai sọ trên các đảo từ nhiều đời trước. Truyện kể là Danag đã làm việc chung với mọi người nhiều năm, nhưng sự cộng tác đó đột ngột kết thúc khi một ngày nọ, có một người phụ nữ cắt phải tay và Danag đã mút lấy vết thương đó. Càng mút càng cảm thấy ngon miệng, Danag đã mút lấy mút để cho đến lúc người phụ nữ ấy chỉ còn là một cái xác tái nhợt mới chịu buông.
Tôi cẩn thận đọc những đoạn miêu tả tỉ mỉ, cố tìm kiếm các tình tiết có thể chấp nhận được và bỏ qua những chi tiết hoang đường. Xem ra, hầu hết các truyện kể về ma-cà-rồng đều xoay quanh những ác quỷ hóa thân là những phụ nữ xinh đẹp, và nạn nhân của chúng là các trẻ em. Tôi có cảm giác như mình đang đọc những lời lý giải vì sao tỷ lệ tử vong ở trẻ em lại cao, hoặc giả như tôi đang đọc những lời bào chữa cho thói lăng nhăng của đàn ông vậy. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn có nhiều truyện kể về những oan hồn không thể siêu thoát để cảnh báo về việc chôn cất không đúng phong thủy. Nhìn chung, chẳng có nhiều truyện chứa đựng nội dung tương tự như những bộ phim tôi đã xem; chỉ rất ít truyện là mang nội dung na ná như vậy, chẳng hạn như Estrie - người Do Thái, và Upier - người Ba Lan, là hai kẻ luôn bị ám ảnh về việc uống máu người khác mà thôi.
Sau khi đảo mắt hết một lượt từ A đến Z các truyện kể về ma-cà-rồng, tôi đặc biệt chú ý đến ba truyện: thứ nhất là Varacolaci - người thành Rôm, một gã đàn ông da trắng điển trai, bất tử và là người có vị trí cao trong xã hội. Thứ hai là Nelapsi - người Xlôvác, một kẻ tàn bạo và cực kỳ nhanh nhẹn: vào thời khắc nửa đêm, chỉ trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ thôi là hắn đã có thể thảm sát cả một làng. Và thứ ba là truyện về một nhân vật khác, một kẻ có biệt danh là Stregoni benefici.
Với thiên truyện cuối cùng này, tôi chỉ đọc thấy có một câu vắn tắt:
Stregoni benefici: ma-cà-rồng – người Ý, được xem là người tốt, là kẻ thù không đội trời chung của ma-cà-rồng xấu.
Tất cả chỉ có bấy nhiêu... Đây đúng là một huyền thoại quá ngắn ngủi giữa hàng trăm câu chuyện đòi hỏi phải có nhiều ma-cà-rồng tốt.
Vậy là theo như trang tin này thì ma-cà-rồng chỉ có vài đặc điểm trùng hợp với truyện của Jacob hay trùng hợp với sự quan sát của tôi mà thôi. Khi đọc cẩn thận từng huyền thoại một, tôi đều có ý thức so sánh kỹ càng nên đã lọc ra được một số chi tiết đáng chú ý như sau: tốc độ, khỏe, đẹp, da trắng, mắt hay đổi màu; còn theo Jacob thì ma-cà-rồng là một kẻ chuyên uống máu, là kẻ thù của người sói, có làn da rất lạnh và bất tử. Chỉ có một số ít truyện là đề cập đến những chi tiết này mà thôi.
Bất chợt trong đầu tôi lại nảy ra một vấn đề khác, tôi bỗng nhớ ra một đặc điểm thường được khắc họa trong những bộ phim mà tôi đã từng xem và đã được các huyền thoại nói tới: ma-cà-rồng không thể ra ngoài vào ban ngày, vì mặt trời sẽ thiêu đốt họ thành tro. Suốt ngày, ma-cà-rồng chỉ ngủ trong quan tài, đến đêm mới mò ra ngoài để kiếm ăn.
Trong lòng tôi đầy ắp nỗi bực bội. Tôi đưa tay tắt ngang công tắc nguồn chứ không chịu đóng từng thứ theo qui trình hợp lệ. Nỗi tức giận đã át hẳn sự lúng túng, ngượng nghịu bấy lâu nay của tôi, và tôi hoàn toàn cảm nhận được điều đó. Toàn bộ chuyện này thật ngớ ngẩn hết sức. Tôi ngồi thừ ra trong phòng mà tìm hiểu về ma-cà-rồng. Mình bị làm sao vậy kìa? Và sau một hồi suy đi tính lại, tôi tự thấy rằng... tôi chẳng bị làm sao cả, mọi vấn đề đều nằm ở cái ngưỡng cửa bước vào thị trấn Forks cùng toàn bộ cái bán đảo Olympic kỳ quái này.
Tôi cần phải ra khỏi nhà (Không thì điên lên mất!), dù thật ra, tôi chẳng muốn đi đâu mà không phải lái xe suốt ba ngày đường cả. Mặc kệ, tôi xỏ chân vào đôi giày ống, với cái đầu trống rỗng, tôi cứ thế bước xuống cầu thang. Có cần kiểm tra thời tiết không nhỉ? Tôi nhún vai một cách bất cần đời trong chiếc áo mưa rồi nặng nề bước ra khỏi cửa.
Bầu trời thật u ám nhưng vẫn chưa mưa. Tôi quyết định không đụng tới chiếc xe tải mà đi bộ về phía đông, rẽ ngoặt ra khỏi khoảnh sân trước nhà, hướng thẳng vào khu rừng quanh năm rậm rạp. Cũng chẳng phải đi xa lắm để khuất tầm mắt khỏi căn nhà và con đường quốc lộ, giờ đây quanh tôi chỉ còn mỗi tiếng thở dài “lóc bóc” não nề của đất nhão... khi bị tôi dẫm lên, hòa lẫn với tiếng kêu ríu rít của lũ chim giẻ cùi.
Tôi cứ bước theo con đường mòn nhỏ hẹp chạy xuyên qua cánh rừng, không dám tự ý rẽ ngang rẽ dọc vì tự biết như thế sẽ bị lạc như chơi. Xưa nay, việc định hướng đường sá của tôi chẳng có chút tiến bộ nào, hay nói chính xác hơn là càng lúc càng tệ. Nếu không có sự chỉ dẫn rõ ràng, cụ thể, thì thể nào số phận của tôi cũng sẽ như con kiến leo phải cành đa, mà lại trúng ngay vào cành đa cụt... Con đường mòn ngoằn ngoèo càng lúc càng dẫn sâu vào rừng, và chủ yếu là dẫn tới phía đông. Nó uốn lượn quanh những cây vân sam, cây độc cần, cây thủy tùng và cây thích. Đấy chỉ là sự ngờ ngợ đoán chừng vậy thôi chứ chẳng phải tôi biết rành rẽ gì những cái tên thảo mộc ấy. Tất cả chẳng qua là nhờ có bố đã từng chỉ cho, khi hai bố con vi vút trên chiếc xe tuần tra vào những ngày đầu tiên tôi còn chân ướt chân ráo đến thăm bố. Lúc ấy, có nhiều cây tôi không biết tên, cũng có những cái cây tôi không biết chắc tên chúng lắm, vì trên thân chúng phủ đầy loài tầm gửi đang độ xanh tươi mơn mởn.
Cơn phẫn nộ vẫn thúc đẩy đôi chân của tôi tiến về phía trước, và cứ thế, tôi mải miết đi men theo con đường mòn... Mãi cho đến khi trong lòng tôi đã cảm thấy nguôi ngoai thì đôi chân mới chịu chậm lại. Vài giọt nước từ những tán lá trên cao bắt đầu rơi xuống, không rõ là do mưa hay do nước từ hôm qua đọng lại trên kẽ lá, giờ mới chịu buông mình để trở về với cội nguồn là các mạch nước ở tận dưới lòng đất sâu. Một cái cây mới đổ gần đây - tôi biết nó mới đổ vì rêu vẫn chưa kịp phủ kín hoàn toàn - đang tựa mình vào một trong những chị em khác mọc quanh nó, vô tình tạo thành một chiếc ghế kín gió mưa cho tôi có thể ngồi nghỉ chân trong chốc lát. Tôi khẽ khàng bước qua những cây dương xỉ, ngồi lên “chiếc ghế” một cách thận trọng, cố ý để cho cái đuôi áo mưa lót lên chỗ ngồi hơi âm ẩm để giữ khô được bộ y phục tôi đang mặc trên người, và nhẹ nhàng ngả cái đầu đang đội mũ trùm lên một thân cây gần đó, thư giãn...
Lẽ ra tôi không nên đến đây. Tôi biết thế, nhưng liệu còn chỗ nào khác để đi nữa? Khu rừng xanh ngăn ngắt, xanh đến nao lòng và giống hệt như khung cảnh trong giấc mơ đêm rồi của tôi... vậy mà tôi đã chọn nó để làm nơi yên tĩnh cho tâm hồn. Giờ thì không còn tiếng nhoèn nhoẹt của đôi chân khi bước đi trên đất nhão nữa, tất cả đều chìm trong một sự im lặng não nề. Ngay cả đến những con chim cũng thôi không còn hót, chỉ còn những giọt nước cứ rơi rơi, vậy là mưa... Những cây dương sỉ quanh đây đều cao hơn tôi, vậy là nghiễm nhiên tôi trở thành “cái ghế bất đắc dĩ” của chúng... Trên con đường mòn hình như có người, người ấy chỉ cách tôi có một mét, nhưng có lẽ y không hề biết có sự tồn tại của tôi trong khu rừng này.
Ở đây, giữa muôn trùng cây cỏ, tôi bỗng đâm tin vào những điều mà tôi cho là vô căn cứ, những điều đã tạo nên nỗi bực dọc trong lòng tôi khi tôi còn ru rú ở trong nhà. Cả ngàn năm qua, cánh rừng vẫn còn đây. Trong cái không gian xanh thẳm, mịt mù hư ảo này, tất cả những huyền thoại, những truyền thuyết của trăm ngàn vùng đất khác nhau, có vẻ đã trở thành sự thật, cảm giác này hoàn toàn khác hẳn khi tôi ở trong căn phòng ngủ.
Tôi buộc mình phải tập trung vào hai vấn đề lớn nhất mà tôi chẳng lấy gì làm vui vẻ để tiếp nhận.
Thứ nhất, tôi phải quyết định xem điều Jacob nói về gia đình nhà Cullen liệu có khả năng là sự thật hay không.
Ngay lập tức, trong đầu tôi vang lên một câu trả lời rền rĩ: “khôôông!”. Thật ngớ ngẩn và lố bịch thay cho những suy nghĩ lạ lùng kia. Nhưng như vậy thì tất cả chuyện này là như thế nào? Tôi tự hỏi mình. Thực sự là không có một lời giải thích nào hợp lý đối với việc tôi đang còn có thể sống được mà ngồi thẫn thờ giữa chốn rừng thẳm như thế này. Tôi sắp xếp lại một cách có trật tự những gì mình đã tận mắt chứng kiến: tốc độ và một sức mạnh siêu phàm - có nằm mơ cũng không thấy nổi, màu mắt cứ liên tục đổi từ đen sang vàng rồi lại từ vàng sang đen một cách thất thường, còn vẻ đẹp hoang dại, nước da quá trắng và rất lạnh nữa. Ừm, gì nữa nhỉ - một cách chậm rãi, những chi tiết vụn vặt từ đâu bỗng hiện về lấp đầy bảng danh sách “những điều kỳ lạ” mà tôi thu thập được: vì sao không lúc nào thấy được họ đang ăn uống, vì sao dáng đi của họ lại nhanh và mạnh mẽ đến như vậy? Còn cái lối nói của hắn ta nữa, thỉnh thoảng lại lên bổng xuống trầm, rất du dương, cùng với cách diễn đạt kiểu cách thích hợp với thời đại của những quyển tiểu thuyết kinh điển hơn là với lớp học ở thế kỷ hai mươi mốt. Hắn ta đã trốn học vào đúng cái ngày chúng tôi được kiểm tra nhóm máu. Hắn ta đã không từ chối chuyến ra biển cho tới lúc biết được là chúng tôi sẽ đi đâu. Ngoại trừ tôi ra, hắn ta có vẻ như đoán biết được suy nghĩ của tất cả mọi người xung quanh mình... Hắn ta còn nói với tôi rằng hắn ta không phải là người đơn giản, rằng hắn ta rất nguy hiểm...