Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Trinh Thám, Hình Sự >> Sherlock Holmes mất tích

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 15892 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Sherlock Holmes mất tích
Jamyang Norbu

Chương 23

Lúc mở mắt tôi thấy những con chim chiền chiện đang nhởn nhơ bay liệng trên bầu trời trong sáng, xanh thắm giữa mùa hè.

“Hurree. Ông dậy rồi đấy” giọng nói có sức an ủi lớn lao của Sherlock Holmes vang lên bên tôi. Ông đang ngồi cạnh chỗ tôi nằm, trên một thảm cỏ nơi sườn đồi tràn ngập nắng sớm mà hút tẩu thuốc với vẻ đầy mãn nguyện. Đầu óc tôi vẫn còn hơi mông lung, nhưng thật lạ lùng, tôi chẳng thấy trong lòng có chút vướng bận nào. Chỉ cảm nhận rõ một điều: thật là kỳ diệu khi ta vẫn còn được sống. Tôi sờ tay lên ngực, chẳng hề có vết thương nào, cả đến vết tích của nó cũng không. Có thể nào đây chỉ là mộc giấc mơ Nhưng khi ấn bàn tay phải lên ngực, tôi cảm thảy đau nhói ở bàn tay - nơi một bàn chân đã đạp lên nó.

“Moriarty!" Tôi kêu lên.

“Hắn đã chuyển tiếp sang một sự tồn tại khác rồi, Hurree ạ. Ông không nhớ là mình đã ngáng chân hắn khi hắn chuẩn bị tung ra phát súng kết liễu hay sao? Nếu người ta cần một thứ gì đó như là viện bảo tàng công cọng ở đất nước này thì cái dù của ông cần phải nằm ở đó”.

Nghe tiếng trò chuyện của chúng tôi, Đạt Lai Lạt Ma, Lạt Ma Yonten, Tsering và Kintup từ địa điểm cắm trại nhỏ bên dưới bước tới gần. Đạt Lai Lạt Ma đến, quàng chiếc khăn màu trắng quanh cổ tôi để cám ơn tôi vì đã cứu mạng cậu. Lạt Ma Yonten, trông như không bị hề hấn gì bởi cuộc thử thách vừa rồi, trìu mến nắm tay tôi mà lắc mãi. Tsering và Kintup rất vui khi thấy tôi tỉnh dậy và lành lặn, đồng thời biểu lộ lòng kính sợ tôi vô kể, chắc là bởi họ đã nghe Lạt Ma Yonten tán dương về công trạng của tôi trong hang động một cách cường điệu, thổi phồng câu chuyện lên quá mức. Tất cả nỗ lực của tôi hòng đính chính lại sự hiểu lầm không những chẳng dẫn đến đâu mà thậm chí còn bất lợi, vì hai chàng trai lại xem sự phản đối của tôi chứng tỏ đức khiêm tốn tự nhiên của một nhân cách lớn và cộng nó vào danh sách những ưu điểm khác của tôi.

Chúng tôi cắm trại trên một sườn đồi cách sông băng vài dặm, đứng từ đây có thể nhìn thấy nó từ hướng Bắc. Lối vào ngôi đền một lần nữa lại bị chôn vùi dưới băng, cho tôi khi Đạt Lai Lạt Ma đời tiếp theo lên ngôi. Ở một bên khu trại của chúng tôi là một đám tù binh - chừng ba mươi tên lính Trung Quốc ăn mặc kỳ cục đang rúm lại với nhau một cách thảm hại. Những người lính của Đạt Lai Lạt Ma, dưới sự chỉ huy sáng suốt của Tsering dũng cảm, không chỉ đã đẩy lùi được đám lính Trung Quốc tại cây càu băng mà sau đó, khi đang nắm thế chủ động đã bất ngờ đột kích và đánh cho chúng thất bại hoàn toàn.

Ngày hôm sau, chúng tôi lên đường quay lại Lhassa. Trên đường đi tôi đã hỏi Sherlock Holmes về những sự kiện phi thường trong hang và cố moi ra một số lời giải thích có cơ sở khoa học về chúng. Ông không trả lời ngay mà chỉ im lặng cưỡi ngựa đi cạnh tôi. Sau khi châm tẩu và rít vài hơi, ông quay sang nói với tôi:

“Tôi đánh giá rất cao tình bạn của ông, Hurree ạ, và không muốn ông nghĩ rằng tôi không đáp lại tấm chân tình của ông. Tôi đã có một lời thề trang trọng rằng sẽ không bao giờ tiết lộ những bí mật này cho bất cứ ai không phải là chúng ta - dù đó là người bạn đáng tin cậy nhất và là đại ân nhân. Tôi đã thảo luận vấn đề này với Lạt Ma Yonten và ông ấy cũng nhất trí rằng có thể cho ông một lời giải thích chung chung mà không để lộ những thông tin đặc biệt, vì như vậy sẽ bị coi như là vi phạm lời thề giừ bí mật”.

Dù đang trên mình ngựa, Sherlock Holmes vẫn mang dáng điệu mô phạm mà bao giờ ông cũng có khi giảng giải về một vấn đề nào đó.

“Đức Phật từng có lần nói rằng có nhiều thế giới và hệ thống vũ trụ trong vũ trụ hiện hữu, cũng nhiều như cát bên bờ sông Hằng. Giáo lý nhà Phật tin rằng “thời luân ưu việt nhất" được vận hành trong nhiều thế giới này bởi những Đức Phật khác nhau của quá khứ, hiện tại, tương lai và thậm chí bởi chính Thích Ca Mâu Ni. Nhiều trong số những thế giới này đi trước chúng ta, đặc biệt có một thế giới - cai quản một nghìn thế giới khác trong hệ thống của nó - tiên tiến hơn quá nhiều so với cái hành tinh nguyên thuỷ tầm thường của chúng ta trong nhưng vấn đề về khoa học và tâm linh, vì thế không thể giải thích tính ưu việt của nó cho một người hiện đại hiểu được, cũng như không thể nào giải thích cách vận hành của động cơ hơi nước cho những thổ dân mông muội đầo Andaman hiểu. Đối với người trần mắt thịt chúng ta, những sinh thể của thế giới ấy cũng tựa như thần thánh vậy, không chỉ vì những khả năng siêu phàm mà họ sở hữu mà còn vì tuổi thọ phi thường. Nhưng dầu tài trí và sống lâu đến mấy một ngày nào đó họ cũng phải chết. Đúng như Đức Phật đã dạy phàm những gì được sinh ra tất có ngày chết đi - cả các vị thần trong Thiên đường của Indra cũng không tránh khỏi vòng sinh tử".

"Người ta tin rằng cách đây nhiều niên kỷ trong cuộc tìm kiếm chân lý phổ biến, những người của thế giới này đã đốn ngộ được “Chánh Pháp” và từ đó về sau, họ cũng cố tìm cách bảo vệ Chánh Pháp, ở bất cứ nơi nào nó có thể bị đe doạ. Bao giờ họ cũng để mắt canh chừng thế giới chúng ta và, thông qua cộng đồng nhỏ của những hành giả tinh tấn ở nóc nhà thế giới, trên cao nguyên Tây Tạng xa xôi này họ đã duy trì một mối quan hệ với con người.

"Ông đã biết lời tiên tri của các Lạt Ma rồi đấy, khi con người còn làm nô lệ cho lòng tham ái chìm trong vô minh mà gây nên hoang tàn, huỷ diệt ở kháp nơi trên mặt đất, trên biển cả và trong không trung; khi các thế lực đen tối xấu xa vời những dụng cụ chết chóc và huỷ diệt cuối cùng đã nô dịch được con người, thì các vị vua của Shambala sẽ cử những đạo quân vĩ đại băng ngang vũ trụ tới đây và trong một trận quyết chiến vĩ đại sẽ đánh bại quý dữ, đem lại cho hành tinh này một thời đại minh triết và an bình mới".

"Ông có tin vào câu chuyện đó không, thưa ông?”

"Không nhất thiết phải ủng hộ một niềm tin như thế mới chất sự thờ phụng - một cách mù quáng, u mê - tiền bạc và quyền lực rốt cuộc sẽ dẫn con người đến đâu. Khi vùng đất xanh tươi màu mỡ bị huỷ hoại để xây nên những nhà máy tối tăm độc địa, nơi trẻ em bị lạm dụng, thiếu ăn còn phụ nữ ho lao thì bị bắt làm nô lệ; khi những bộ tộc nguyên thuở, chân chất chỉ được trang bị bằng cung tên giáo mác đã bị chúng ta cái đạo bằng những ý tưởng kinh doanh đổi chác và cái gọi là nền văn minh thông qua hàng thùng súng đạn; và thậm chí khi tinh thần thượng võ trở nên nghèo nàn, nông cạn còn tất cả các quốc gia châu Âu đang nhanh chóng trở thành những trại lính luôn trong trạng thái sẵn sàng tấn công nước khác - vậy thì điều mà một con người biết phân biệt đúng sai có thể làm được chỉ là run lên trước tương lai đáng sợ của nhân loại.

“Không, ông bạn thân mến, tôi không nghĩ sẽ là quá ngày thơ khi quan tâm nhiều đến lời tiên tri cổ xưa này và cũng là để nhận được chút an ủi từ kết luận đầy hy vọng ấy. Phải, Hurree ạ, vào một đêm đẹp trời nào đó, khi bầu trời trên đầu ông trong vắt và sáng rực ánh sao, thậm chí một nhà khoa học như ông cũng có thể ngước mắt lên dõi tìm một đám sáng nhỏ màu xanh lá mạ nằm bất động ở xa xa cuối chân trời phương Bắc mà hy vọng rằng vị cứu tinh của chúng ta sẽ có thể từ đó đến!”

Lê đăng quang của Đạt Lai Lạt Ma, hoặc nói cho chính xác hơn là "sự đảm nhận quyền lực thế tục và tâm linh" diễn ra đúng một tháng sau khi chúng tôi quay về kinh đô. Cái chết của Moriarty rõ ràng là đã vô hiệu hoá mọi âm mưu của Trung quốc đối với Tây Tạng. Ngoài ra, bằng chứng sống là đám lính Trung quốc bị bắt làm tù binh đã khiến cả Hoàng đế(1) cũng khó xử, đành phải nhanh chóng triệu hồi Amban O-erh-t’ai về Bắc Kinh và ngay lập tức ra lệnh chém đầu ông ta như một lời cảnh báo nghiêm khắc đối với bất cứ kẻ nào dám manh động gây ra mối hiểu lầm giữa Hoàng đế Trung Hoa “chính trực" và Đức Đạt Lai Lạt Ma đáng kính của Tây Tạng. Mất đi sự ủng hộ của Amban, quyền lực của quan Nhiếp chính cũng suy sụp dần, sau đó ông ta bị bắt, bị đem ra xét xử trước quốc hội và giam giữ suốt dời.

Thủ đô Lhassa, trên thực tế là cả đất nước Tây Tạng đã tổ chức ăn mừng sự kiện vui này.

Trong Đại sảnh đường của cung điện Potala, trước một đám đông cử toạ gồm các bộ trưởng, quan chức cao cấp, các vị Lạt Ma, tu viện trưởng của nhiều trường đại học tôn giáo lớn và các vị đại sứ đến từ các nước láng giềng như Nepaul, Sikh, Ladakh, Bhootan, Trung quốc, Turkestan, Mông Cổ cùng một số tiểu quốc khác của Ấn Độ… vị Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi đã ngồi lên Ngai sư tử, được trao tặng bảy Báu vật Hoàng tộc và tám Biểu tượng Chiến thắng, chứng thực ngài là Ngawang Lobsang Thupten Gyatso(2), Bậc Toàn tri, phù hợp với lời giáo huấn của Phật tổ Đại dương thông tuệ, Bất biến, Người nắm giữ sấm sét, quốc trượng Vinh quang Thứ Mười ba thuộc Dòng dõi Vinh quang Chiến thắng và quyền lực và là Người cai trị về mặt Tinh thần và Thế tục của đất nước Tây Tạng.

Sau buổi đại lễ, nơi Sherlock Holmes và tôi được dành cho vị trí trang trọng nhất, hai chúng tôi lại được tặng những phần thưởng đặc biệt trong một buổi lễ ít thủ tục phức tạp hơn nhưng không kém phần trang trọng. Một bộ áo choàng tu sĩ được ban tặng cho Sherlock Holmes, cùng một chiếc mũ công nhận ông thuộc đẳng cấp Huthoktu, hàng cao quý thứ ba sau Đạt Lai Lạt Ma trong hệ thống cấp bậc của Phật giáo Tây Tạng. Đích thân Đạt Lai Lạt Ma trao cho tôi một bức tượng Atisha bằng đồng thiếc rất quý hiếm từ thế kỷ 15, đó là tượng vị đại sư cao quý của đạo Phật đến từ Bengal. Tôi sẽ ghi nhớ suốt dời, với lòng kính trọng và xúc động, những lời nói đi kèm theo món quà vinh dự này.

“Lần thứ hai trong lịch sử của đất nước,” vị Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi nói, “Tây Tạng cần cảm ơn một người đến từ vùng đất thánh Vangala".

Đạt Lai Lạt Ma không còn là một cậu bé ốm yếu mà chúng tôi đã gặp lần đầu nữa, mà là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ và khôn ngoan của cả dân tộc Tây Tạng. Rõ ràng, dù gặp bất cứ chướng ngại và nguy hiểm nào trong suốt thời gian cầm quyền, ngài cũng sẽ chiến thắng bằng cách này hay cách khác(3).

Sau lễ hội mừng đăng quang, Sherlock Holmes lên đường đi đến Thung lũng Trăng Rằm (Dawa Rong) ở Nam Tây Tạng. Tu viện nhỏ của ông, lâu dài pháp sư có tên Bạch Phượng Hoàng toạ lạc ở vùng này. Một đoàn tuỳ tùng đông đảo gồm các nhà sư và tuỳ sư cùng đi với ông. Tại đó, trong một buổi lê khác, ông trở về với vị trí của mình như một Lạt Ma tái sinh và tu viện trưởng.

Trong vòng nhiều tháng, ông trải qua các buổi thiền định, puias và các buổi hành trì với các vị sư phụ.

Được cấp một giấy thông hành đi khắp Tây Tạng, Kintup và tôi, cùng Gaffuru và Jamspel, đã đi du lịch đến vùng biển nội địa ở Chang Nam-so, nơi nước biển có hàm lượng muối cao nhất thế giới để nghiên cứu về hiện tượng thuỷ triều bất thường của nó và để tìm hiểu các khu vực lân cận. (Xin đọc bài báo, Ghi chép về hoạt động thuỷ triều của biển Tây Tạng, Vol.xxv No. 1 Jan/Feb”, Tạp chí địa lý xã hội Bengal). Chúng tôi cũng đã đến nhiều hồ khác nhau và tiến hành vô số nghiên cứu về địa lý và dân tộc học mà không cần thiết phải nêu ra ở đây. Cuối cùng, sau khi nhận được công văn giao nhiệm vụ với lời lẽ khó chịu của Đại tá Creighton, ra lệnh tôi phải quay về, tôi miễn cưỡng đi đến quyết định rằng không thể nào ở lại và duy trì công việc nghiên cứu ở vùng đất bị cấm đoán này lâu hơn nữa. Sau cuộc chia tay buồn bã đầy bịn rịn với Đạt Lai Lạt Ma, Lạt Ma Yonten và Tsering, tôi rời khỏi Lhassa vào ngày 10 tháng Mười một năm 1892.

Tôi đi về hướng Nam, men theo tuyến đường sông Bramhaputra vốn chảy qua Thung lũng trăng rằm xinh đẹp, tranh thu ghé thăm tu viện của Sherlock Holmes nằm trên một sườn dồi đẹp như tranh vẽ giữa rừng cây bách xù thơm ngát. Tôi ở lại với ông một tuần, học được rất nhiều điều về… ồ, có thể là rất nhiều thứ. Ông quyết định ở lại Tây Tạng thêm một năm nữa để hoàn thiện việc nghiên cứu và thực hành. Sau đó, ông sẽ quay lại Anh(4) hoàn tất nhiệm vụ tiêu diệt đế chế tội ác của Moriarty và xoá bỏ ảnh hưởng xấu xa của hắn ở các thành phố châu Âu. Chỉ khi nào nhiệm vụ này được hoàn thành, ông mới quay lại Tây Tạng.

"Tôi đã nhận được lệnh," Holmes nói, “Và tôi phải tuân theo” Ông không nói thêm gì về người đã ra cái lệnh này mà tôi cũng chẳng hỏi.

Hình ảnh cuối cùng về người bạn thân thiết và cao quý ấy sẽ sống mũi trong ký ức tôi. Trong bộ áo choàng màu vang đỏ, cao lớn và oai nghiêm, ông đứng trước một bãi thông nhỏ gần cổng tu viện, cùng với các môn đệ, tất cả bọn họ cúi đầu chào rất thấp khi tôi nhảy lên mình ngựa phóng đi. Sherlock Holmes giơ bàn tay phải lên chào tạm biệt và chúc phúc cho tôi. Từ đấy tôi không bao giờ gặp lại ông nữa.

Đối với tôi, bao giờ cũng là một nỗi buồn khó mà chịu nổi khi phải rời xa vùng núi yên bình, cô quạnh và trong lành này để quay lại thế giới thực của mình, mặc dù lần này, những phát hiện độc nhất vô nhị của tôi đảm bảo rằng thế giới sẽ chào đón tôi với những mề đay phần thưởng, sự bổ nhiệm và tất cả những lễ phục khác trong sự tôn vinh và vinh quang. Thậm chí cho tới nay trong cuộc sống thành công và được nhiều người biết đến, tôi chưa bao giờ quên những lời thông tuệ của Sherlock Holmes - chắc chắn chúng đã khắc sâu trong tâm khảm tôi như bạn khắc chữ trên đá granite - nhắc tôi nhớ đến nhửng nỗi bất hạnh và sự vô minh của thế giới này, cả sự tàn nhân giữa người với người.

Và mới tối hỏm qua thôi, vì không muốn dùng xe ngựa của mình mà tôi đi bộ về nhà từ khách sạn Lớn Phương Đông, sau bữa ăn tối thường lệ của Hội Hoàng gia châu Á, nơi tôi đã được mời đến để nói chuyện về cuộc thám hiểm Himalaya cho một nhóm các quý ông bệ vệ, phương phi cùng những bà vợ diện ngất trời nhưng đáng chán của họ. Ra khỏi khách sạn, tôi gặp một lũ trẻ con đói khát đang tranh giành thức ăn thửa từ trong mày thùng rác của khách sạn. Tôi dốc hết tiền trong túi phân phát cho chúng. Sau đó tôi bỏ đi, lầm lũi qua những con đường tối tăm phía sau khách sạn.

Đó là một đêm trời không trăng, nhưng không có một gợn mây. Một lần nữa tôi thấy mình đang dõi mắt về phương Bắc, hướng về dãy Himalaya xa xa, bầu trời đêm lấp lánh những vì sao… sic itur amons ad astra(5) trích lời của Virgil…

Nhưng vậy là đủ. Có lẽ tôi sẽ chỉ khiến bạn chán ngán với vòi những lời đàm luận dông dài của mình. Hãy kết thúc câu chuyện ở đây.

Chú thích:

(1) Quyền lực chính trị tối cao ở Trung Hoa vào lúc này nằm trong tay Từ Hy Thái hậu, bà dì tàn nhẫn, khao khát quyền lực, xảo quyệt và bất trung của hoàng đế Quang Tự, người bị bà hoàng này ra lệnh giam lỏng suốt đời tại Trung Nam Hải.

(2) Ngawang Lobsang Thupten Gyatso: tên đầy đủ của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13

(3) Ở đây, Hurree đã tỏ ra rất có tài tiên đoán. Đạt Lai Lạt Ma không chỉ đứng vững sau nhiều mưu đồ chính trị i xảy ra sau đó, mà thậm chí sau một lần lưu vong đến Mông Cổ và lần khác ở Ấn Độ, ông đã dần dần thành công trong việc thoát khỏi ảnh hưởng và quyền lực của Trung quốc đối với Tây Tạng. Ông đã tuyên bố nền độc lập của quốc gia này vào ngày mùa 8 tháng Giêng năm Quý sửu 1913. Bên cạnh những cải cách quan trọng trong chính quyền và trong tôn giáo, ông còn xảy dựng được một đội quân hiện đại, một thời gian sau đã lập thành tích đánh bại quân đội Trung quốc ở biên giới phía Đông Tây Tạng, và dần dần khôi phục lại những khu vực lãnh thổ bi mất của Đế quốc Tây Tạng xưa. Đặc biệt đầy đủ hơn về cuộc đời của ông, xin xem Chân dung của Đạt Lai Lạt Ma, London, 1946, được viết bởi một người bạn của ông là nam tước Charles Bell.

(4) Sherlock Holmes quay lại Anh vào cuối xuân năm 1894 Chẳng bao lâu sau khi quay về ông đã thanh công trong việc bắt được tên Đai tá Moran giảo hoạt bằng một chiếc bẫy tinh vi, cùng lúc đó ông giải quyết vụ án mạng kỳ lạ Hon. Ronald Adair, một kẻ rời bỏ thế giới hào nhoáng của London và hoàn toàn mất tinh thần (Xem Bí mật trong ngôi nhà trống).

(5) sic itur amons ad astra (tiếng Latinh) đi từ đỉnh núi tới vì tinh tú (thơ của thi sĩ La Mã vĩ đại Virgil)

<< Chương 22 | Chương 24 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 217

Return to top