Khi mắt đã quen với cái cảnh lờ mờ tranh tối tranh sáng bên trong, tôi nhận thấy với đôi chút thất vọng, rằng ngôi đền thật ra chỉ là một căn phòng vuông vức nhưng khá nhỏ, mỗi chiều khoảng mười ba hoặc mười bốn mét. Những bức tường được chạm khắc nhiều hình ảnh và các mẫu tự, gợi nhớ chữ tượng hình của người Ai cập, nhưng trừu tượng và kỳ dị hơn. Căn phòng lạnh thấu xương với nhiều dải băng rủ xuống từ góc nhà che lấp từng mảng tường. Một tấm thảm tuyết hơi mịn như bột rải trên sàn, kêu lạo xạo mỗi khi có bước chân ai đạp lên.
Lạt Ma Yonten đang giúp Đạt Lai Lạt Ma ngồi nghỉ ở một góc đền và nhanh nhẹn trải áo choàng của ông ra cho cậu nằm.
Cậu bé, nên nhớ chỉ vừa hồi phục sau một cơn bệnh thập cứ nhất sinh, và cuộc chạy đua liều mạng vượt qua cầu khi nãy đã vượt quá sức chịu đựng của thân hình gầy gò yếu đuổi tuổi thiếu niên. Tôi rút ra một chai Brandy nhỏ (mà tôi mang theo chỉ để dành cho những trường hợp cấp cứu, vì tôi là một người chủ trương bài rượu), mở nút, đổ một ít chất lỏng vào miệng cậu bé.
Cậu ho lên vài tiếng và thở gấp, tuy vậy màu hồng đã bắt đầu ửng lên trên đôi má tái nhợt.
Sherlock Holmes cố dành diêm thắp lửa cho ngọn đèn lồng đặc biệt của chúng tôi, nhưng mâi không được. Chẳng là diêm của ông bị ẩm không bắt lửa, vì thế tôi lại gần, chìa cho ông một hộp diêm khô mà tôi may mắn mang theo người. Ông vội vã thắp đèn. Sau khi ông thận trọng điều chỉnh một chúc, ngọn đèn phóng ra một chùm tia sáng rực rỡ về phía bức tưởng đối diện.
Ông giơ cao đèn lên, lia ánh sáng ra khắp nơi trong phòng, soi rõ nhưng bức tường hoàn toàn trơ trụi trừ những hình khắc nhỏ trên tường, nhưng khi đi đến giữa phòng, ánh sáng rực rỡ chiếu lên một cấu trúc nhiều tầng, lạ kỳ, nằm trên một bệ đá. Những lớp bột tuyệt trắng ngần che phủ lên toàn bộ vật này làm cho nó giống như một cái bánh cưới cực lớn.
“Đó là mandala vĩ đại,” Lạt Ma Yonten giải thích. "Chính là cái đã qua bàn tay sử dụng của Sứ giả Shambala khi ông ta làm lễ nhập môn đầu tiên cho Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất”
Sherlock Holmes đi quanh mandala và bắt đầu phủi tuyết khỏi bề mặt của nó bằng một chiếc găng tay. Tôi cũng phụ một tay và chẳng mấy chốc chúng tôi đã phủi sạch lớp tuyết. Mandala cao khoảng hai mét, trong khi chân đế của nó, một phiến đá hình đĩa, dày khoảng 30 phân, lại có đường kính tới gần 2,5 mét”.
Những chiếc đĩa đá nhỏ hơn, hình vuông và tam giác, được sắp xếp một cách thứ tự trên bề mặt, cái này chồng lên trên cái kia, tạo nên một thể trung gian kỳ lạ giữa hình nón thấp tè và hình kim tự tháp. Nằm ở vị trí trên cùng là mô hình một ngôi chùa nhỏ bé tinh xảo với cái mái cong cong thanh nhã. Mặc dù những đường thẳng và các vòng tròn cơ bản của mandala này gần như tương tự với mandala trong bức tranh cuộn, nhưng mandala bằng đá thiếu những gam màu và hoạ tiết trang trí của bức tranh. Nó như bị mất đi cái hồn, trông khá ảm đạm và trần trụi. Giống một biểu đồ hiển chị hoá một công thức toán học phức tạp hơn là một vật biểu trưng tôn giáo.
Trong khi tôi giơ ngọn đèn lên cao, chiếu luồng ánh sáng vào bất cứ nơi nào được yêu cầu, Sherlock Holmes cúi xuống kiểm tra mẫu vật lạ lùng này với chiếc kính lúp phóng đại. Năm phút là đủ làm ông thoả mãn trí tò mò, vì ông đã đứng dậy cất kính lúp đi. Sau đó, đặt hai tay một cách cả quyết vào hai bên cạnh chiếc đĩa đá dày ông bắt đầu người hơi nghiêng về một phía, vận hết sức bình sinh - đẩy vào cái vật nặng đó. Tôi không phát hiện có gì khác, nhưng hẳn có một điều gì đó đã xảy ra với Holmes, vì ông dừng lại và làu bàu một cách thoả mãn.
“Nó dịch chuyển," ông nói, giọng đắc thắng.
“Điều đó có ý nghĩa gì chứ?” tôi hỏi.
“Nó có nghĩa là bí mật nhỏ của chúng ta - câu đố trong bài thơ với những lời lẽ kỳ bí kia - gần như đã được giải quyết xong".
"Tôi không hiểu, ông Holmes à".
"Ông còn nhớ chúng ta đã đồng ý với nhau rằng bài thơ là một kiểu chỉ dẫn, chắc chắn là để khai quật cái gì đó đã được giấu kín - mà phải là một cái gì thật quý báu. Vì tính tượng trưng của cấu trúc mandala đã được dùng trong bài thơ, sẽ lô-gíc hơn nếu ta đi tới kết luận rằng lời chỉ dẫn ám chỉ về một mandala thật sự - nhưng là một cái mà ta có thể sờ mó được và theo chiều thẳng đứng”.
“Nhờ vậy mà chúng ta có thể đi quanh nó theo những vòng tròn nhất định, giống như lời chỉ dẫn đã nói sao tôi hỏi không khỏi hoang mang. “Nhưng…"
"Không, không, Hurree thân mến. Không phải đi quanh nó mà là dí chuyển nó. Cuộc kiểm tra sơ bộ của tôi cho biết mẫu vật này không phải được đẽo từ một tảng đá duy nhất mà đã được lắp ráp lại - theo từng tầng bậc - từ những mảnh được gia công riêng biệt, có thể di chuyển được, hay đúng hơn là xoay quanh một trục trung tâm”.
“Giống như cái lẫy trong ổ khoá?”
"Chính xác. Ông đã đưa ra một so sánh rất khéo về sự giống nhau giữa hai vật, vì mandala này - nếu lý giải của tôi là đúng - là một ổ khoá, mặc dù đó là một ổ khoá không bình thường và đáng quan tâm".
"Nhưng như vậy thì chìa khoá đâu, ông Holmes? Chúng ta đâu có chìa khoá".
"Ồ, chắc chắc, ông bạn. Không nên hiểu theo nghĩa đen như vậy Có thể nói bài thơ kia chính là chìa khoá".
"Tôi thật là kẻ chậm hiểu…” tôi lúng túng, nhưng Holmes không dành thời gian để tôi có thể tự trách mình mà sốt sắng bắt tay ngay vào việc kiểm tra giả thuyết vừa nêu.
"Nào, Hurree, nếu ông có thể giúp một tay ở đây, và… xin lỗi, thưa Lạt Ma đáng kính," ông quay sang Lạt Ma Yonten, "ngài vui lòng đọc lại bài thơ cho chúng tôi nghe, được không?”
Đạt Lai Lạt Ma lúc này đã khỏe lại, muốn tự tay cầm chiếc đèn chiếu sáng cho chúng tôi, trong khi Lạt Ma Yonten mở bức vẽ mandala và đọc những dòng chữ ghi phía sau.
"Om Svasti. Xin dâng lòng tôn kính lên người…"
“Chúng ta có thể bỏ qua những dòng chúc tụng," Holmes ngắt lời, "mà bắt đầu với những lời chỉ dẫn thực sự”.
"Sẽ làm theo ý ông, ông Holmes," Lạt Ma trả lời, nhanh chóng lướt qua những dòng thơ và gạch dưới những từ ngữ quan trọng hằng ngón tay trỏ xương xẩu. “Để tôi xem nào. Hừm… A, đúng… nhưng lời chỉ dẫn nằm ở đây. “Hãy hướng mặt về hướng thiêng liêng…”.
"Tức là hướng nào?”
"Hướng Bắc, ông Holmes. Shambala được nói tới như là Shambala ở Bắc Ấn"
"Như vậy, chúng ta cần phải quay lưng lại lối vào và nhìn thẳng vào mandala từ hướng đó. Để tôi xem nào…"
"Tôi biết rồi, ông Holmes?" tôi hớn hở kêu lên, phủi đi lớp tuyết tại chân đế mandala hướng thẳng về lối đi vào. "Có một vajra hình chữ thập được khắc trên chân đế ở đây. Cái này chắc chắn là để đánh dấu hướng mà chúng ta phải bắt đầu".