Ra khỏi cổng khách sạn, tôi nhảy xuống xe ngựa, tên đánh xe lưu manh đòi gấp đôi tiền xe thông thường với lý do trên xe có một quý ông người Anh. Tôi chửi hắn thậm tệ vì hành đọng bất lương đó rồi nhanh chóng tìm cách len đến phía sau khách sạn Taj Mahal. Trời đã tối hẳn. Tôi di chuyển thận trọng, chọn những chỗ tối nhất trong con hẻm mà đi. Tôi phải chờ mất một lúc, nép sau một đống thùng rỗng, trong lúc hai người khuân vác nặng nhọc khênh những cây nước đá đi qua lối đi tiếp phẩm của khách sạn. Khi họ đi khỏi, tôi nhanh nhẹn băng qua con hẻm và len vào toà nhà. Tôi mò mẫm leo lên những bậc thang nội bộ tối om, chật hẹp và vội vã bước tới hành lang tranh tối tranh sáng. Xung quanh không có một bóng người. Tôi gõ mạnh ba tiếng vào cánh cửa phòng 289. Anh chàng Strickland tính nóng như lửa mở phắt cánh cửa và gần như lôi tuột tôi vào trong.
"Muốn làm cho cả làng biết hay sao mà gõ mạnh thế! Vào nhanh lên, ông bạn. Hắn ta sẽ đến đây trong ít phút nữa thôi".
Chúng tôi náu mình sau một tấm bình phong bằng đá cẩm thạch có lưới sắt ngăn giữa phòng ngủ với ban công trông ra cửa sổ Tôi tò mò muốn biết tại sao thám tử Sherlock Holmes lại cử Strickland bảo vệ phòng, cũng hồi hộp muốn biết nhân dạng của kẻ không mời mà đến và đang được chờ đợi hồi hộp như thế này; nhưng nhiều năm làm việc trong Bộ đã dạy tôi mọi thứ, chẳng hạn dạy tôi cách cầm ly nước đầy làm sao không để sánh ra ngoài một giọt trong khi bản thân đang bị chế ngự bởi một cảm xúc tiêu cực nào đó, mong rằng lối diễn đạt của tôi có thể chấp nhận được.
Chúng tôi đứng im như thóc trong bồ phía sau tấm vách ngăn của tấm lưới sắt, dần dần tôi cũng có thể phân biệt được hình dáng lờ mờ của các đồ vật trong phòng. Strickland khịt mũi một cách đầy nghi ngờ.
"Khiếp cái mùi đến kinh," anh ta thì thầm với âm điệu cáu bẳn. "Ông không bao giờ có cơ hội dùng loại nước hoa nào có đẳng cấp hơn phải không, ông Hurree?"
"Chắc chắn là không, Strickkand ạ" tôi thủng thẳng tiếng một, trong lúc tìm cách "chơi" lại kẻ không biết người biết ta kia.
"Mùi thơm này bắt nguồn từ một loại mỹ phẩm dành cho tóc mà hàng ngày tôi vẫn xức lên da đầu. Đó là loại mỹ phẩm thượng hạng và đắt tiền, giá bán lẻ là một ru-pi và bốn anna một chai, sần phẩm chính hiệu của Hãng Armitage và Astruthers tại nhà máy hiện đại của họ ở Liverpool. Tôi xin mách nhỏ với anh, Strickland ạ, rằng nó có thể đem lại nhiều phép lạ cho kiểu tóc của anh đấy.
Anh ta thở dài chịu đòn. Chúng tôi lại tiếp tục canh chừng trong sự im lặng đầy ấn tượng. Đột nhiên Strickland nắm chặt lấy cánh tay tôi. Có tiếng lách cách nhẹ nhàng của một chiếc chìa khoá đang tra vào ổ. Cánh cửa được mở ra êm ru, không gây nên một tiếng động nào và kia, trong phút chốc hiện lên cái bóng rõ ràng là của một người đàn ông, nhờ ánh đèn khí hắt từ ngoài hành lang vào. Cánh cửa nhanh chóng được đóng lại. Cái người kia lén lút băng ngang qua gian phòng đến gần chiếc giường ngủ.
Một que diêm được đánh lên. Ngọn lửa nhỏ xíu trên đầu que diêm cũng đủ soi cho tôi thấy khuôn mặt núc ních đầy căng thẳng của tay thư ký người Bồ Đào Nha. Hắn thắp một ngọn nến nhỏ rồi đặt lên bàn trang điểm gần đầu giường, rồi nhanh chóng di chuyển cái bàn từ một góc phòng (cũng chính là cái bàn mà ông Holmes đã bình luận ngày hôm qua) đến bên giường.
Một tay cầm ngọn nến, hắn nặng nề leo lên trên giường rồi đứng hẳn lên ban. Hắn với tay tóm lấy con voi bằng đồng thau vãn được treo toòng teng phía trên giường, kéo nó lại gần và thực hiện một loạt động tác lén lút ám muội mà từ chỗ đang nấp chúng tôi không thể nhìn rõ.
Thật khó cho hắn trong khi vừa phải cầm ngọn nến lại vừa phải nắm sợi dây của con voi đồng những giọt mồ hôi to tướng rịn ra trên khuôn mặt bóng nhãy của hắn, cả các cơ trên mặt cũng như giật giật vì lo lắng, căng thẳng. Hắn rút một vật - trông như một cái hộp nhỏ - ra khỏi túi áo khoác và trút thứ gì đó từ trong hộp vào chiếc đèn. Cuối cùng, hắn thắp ngọn đèn trên bàn của con voi hằng đồng thau và để nó đung đưa nhẹ nhàng trên đầu.
Sau đó, hắn nhảy xuống, kê cái bàn về cho cũ, rồi lau mồ hôi túa trên mặt bằng một chiếc khăn tay rộng khổ. Đoạn hắn lén lút rời khỏi phòng, khoá cửa đằng sau lại. Strickland và tôi vẫn đứng im không nhúc nhích phía sau bức bình phong trong vòng mười phút cho tới khi có ba tiếng gõ cửa khác vang lên.
Strickland mở cửa bằng một chiếc chìa khoá lấy từ trong túi.
Sherlock Holmes đi vào, nhìn ngay lên ngọn đèn hình con voi đang cháy và bây giờ chỉ còn đung đưa nhè nhẹ.
"A ha ha! Tôi nhận thấy chúng ta đã có khách. Thật tuyệt vời tuyệt vời," ông nhận xét, xoa xoa hai bàn tay vào với nhau.
"Làm ơn bật ngọn đèn khí lên giùm tôi. Có lẽ chúng ta sẽ có một màn giải trí nữa vào tối nay, nhưng lần này không phải là dành cho người bạn của chúng ta để xem kết qua hành động của hấn chỉ với ánh sáng của ngọn đèn kỳ lạ nào".
Sự vui nhộn của ông Holmes không xua tan được nỗi sợ hãi trong tôi. Ngọn đèn hình con voi rõ ràng không phải là món đồ thủ công mỹ nghệ bình thường trong nhà bạn và vì vậy, việc ở trong cùng một phòng với nó quả có khiến cho tôi lo ngại ít nhiều.
"Tôi hy vọng hoạt động của nó không làm hại người khác," tôi nói, giọng nói không giấu được những băn khoăn lo lắng.
"Chắc chưa phải ngay lúc này nhưng chúng ta sẽ sớm biết thôi" Holmes nói tránh xa ngọn đèn một chút và nhìn vào Strickland. "Nào, Strickland xin hãy cho tôi biết từng chi tiết?"
Ông ngồi xuống, ngả người duỗi dài trên sofa trong lúc Strickland thông báo tất cả những việc đã xảy ra trong phòng.
"Tôi đã làm theo những chỉ dẫn mà ông viết trong thư, ông Holmes ạ. Vào lúc năm giờ, ngay trước khi mặt trời lặn, tôi vào khách sạn mà không để ai nhìn thấy tất nhiên là từ phía sau, bằng lối đi nội bộ và lấy chìa khoá để dưới tấm thảm dừa ở trước cửa phòng. Từ lúc ấy đến giờ tôi chỉ việc chờ đợi, và đó là một cuộc chờ đợi dài dằng dặc nhưng kết cục tốt đẹp".
"Phải, phải, nó đạt được một kết quả mỹ mãn," Sherlock Holmes cười lớn, "Vì những sự cố mà anh quan sát cách đây ít lâu đều đã được dự báo từ trước. Chúng ta đã lường trước được mọi chuyện. Giờ thì hay kiểm tra tất cả các dữ liệu trước khi bắt đầu. Báo cáo của người khám nghiệm tử thi như thế nào?"
"À, thưa ông Holmes, bác sĩ Patterson ấy, ông ta hoàn toàn bó tay. Patterson nói chưa bao giờ gặp một vụ bất thường như thế này. Không có dấu hiệu của việc sử dụng bất cứ loại độc được nào, cũng không hề có bất cứ vết thương nghiêm trọng nào gây ra việc chảy máu nhiều đến thế, ngoài một vài vết thâm tím, cho nên cái chết gần như được quy cho việc ngã cầu thang. Thực tế, nhân viên điều tra đã lau sạch xác chết để kiểm tra và phát hiện gần như không còn một chút máu nào ở tất cả các mạch máu. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một người ban xứ nào tái dại đến thế trong suốt quãng đời làm việc của mình".
"Anh đoan chắc là xác chết không có một vết thương nào chứ?" Holmes hỏi đi hỏi lại. "Tuyệt không có một vết thương nhỏ nào ư? Cả đến một vết thương đáng lưu ý nào đó trên da, quanh gáy hay cổ, cũng không có ư?"
"Ông Sherlock Holmes, nếu ông nghĩ người đàn ông kia chết vì một vết rắn cắn thì tôi có thể đảm bảo là không phải. Không có bò sát, tuy vậy thuốc độc thì có thể có…"
"Có bất cứ vết lõm nào không?" Holmes cắt ngang, giọng ông như đã mất hết kiên nhẫn.
"Có một vài vết xây xước nhẹ sau cổ, nhưng ông không thể gọi đó là những vết lõm hay lỗ thủng. Tôi đã nhìn thấy tất cả các kiểu rắn cắn ở nước này và nhiều dấu vết mà chúng để lại trên da. Nhưng dấu này nông hơn, chỉ là những vết khía và…"
"Vết xây xước đó có cái hình như thế này phải không?"
Holmes hỏi, chìa ra một mình giấy mà ông đã vạch sẵn một vài ký hiệu.