Với một cái vẫy tay ra hiệu của Asterman, một người Tây Tạng trẻ tuổi có dáng vẻ nho nhã lịch sự tiến lại gần và sau khi thi lễ bằng cách cúi đầu rất thấp, đưa cho ông ta bằng hai tay một tài liệu được quấn quanh một mũi tên. Đây là cái mà người Tây Tạng gọi là một da-ìyg hay “mũi tên-công văn", dấu hiệu cho biết rằng nó là công văn chính thức của cấp chỉnh quyền.
Asterman trang trọng cúi chào và trao "mũi tên-công văn” cho Sherlock Holmes. Ông bóc lớp xi niêm phong, tháo sợi dây và mở hộ chiếu. Nó được viết bằng kiểu chữ umay tao nhã, tức là kiểu chữ thảo bay bướm mà dến nay ông Holmes vẫn chưa nắm được nên ông trao cho tôi đọc hộ. Sau đây là bản sao lại tài liệu nguyên bản và một bản dịch ra tiếng Anh để bạn có thể đọc qua cho biết.
Hỡi tất cả các thống đốc, công chức quan huyên, trưởng thôn và công dôn trên lộ trình từ Tholing đến Lhassa - hãy nghe và tuân theo!
Môt người ngoại quốc, Si-ga sahib (ngài Sigerson) và người tuỳ tùng của người là nhà học giả Ấn Độ mang cái tên thần thánh - Hari Chanda - đang thực hiện một cuộc hành trình danh dự đến nơi ở của các vị thần (Lhassa). Trong cuộc hành trình, ta yêu cầu tất cả chức sắc trong các hạt cung cấp cho họ bốn con ngựa cuỡi và bất cứ con vật thồ nhỏ cùng với yên cương và vật dụng cấn thiết. Chi phí thanh toán thông thường sẽ được trả cho chủ của những con vật được thuê cùng với biên nhận hợp lệ. Tại tất cả các nơi họ dừng chân, cỏ khô phải được cung cấp miễn phí cho súc vật của những người mang hộ chiếu này. Ngoài ra, phải cung cấp nhiên liệu cho họ, và khi cần phải nhường đường nơi bến phà, thuyền và con đường leo dây cho họ. Tất cả phải được cung cấp đày đủ cho quý ông trong cuộc hành trình này. Tuyệt đối không để xảy ra bất cứ sự chậm trễ hay cản trở nhỏ.
Ngay đầu tiên của tháng thứ hai trong năm Nhâm Thìn.
Ấn của Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng.
Phụ lục: Hộ chiếu nay đi kèrn với hai "chiếc áo choàng của các vị thần" thuộc cỡ trung bình để chào mừng những vị du khách đáng kính.
Chàng trai Tây Tạng có nhiệm vụ mang “mũi tên-công văn”, và dường như là một viên chức chính quyền, lấy từ trong áo choàng ra hai chiếc khăn quàng cổ trắng bằng lụa, đó là "áo choàng của các vị thần" như đã được nhắc đến trong hộ chiếu.
Những chiếc khăn quàng cổ - có lên là khatag - được người Tây Tạng và người Tarta sử dụng cho thêm phần long trọng trong những dịp lễ lạt hay sự kiện đặc biệt nào đó trong dời. Chúng cũng được dùng để chào mừng khách, chia tay khách, thỉnh cầu các vị vua, thờ cúng phật, xoa dịu các vị thần, tổ chức hôn lễ và để than khóc trong tang lễ. Màu trắng của khăn quàng tượng trưng cho thiện ý và động cơ trong sáng của người tặng.
Người Tây Tạng mở khăn quàng ra, cúi chào thật thấp lần nữa rồi trao cho Sherlock Holmes và tôi mỗi người một cái.
"Xin cám ơn!”, Holmes nói khi nhạn lấy chiếc khăn quàng với một vẻ khả ái và khẽ nghiêng mình đáp lễ. Mọi việc xoay ra bất ngờ quá, kỳ lạ quá. “Ông khuyên tôi nên làm gì đây, Hurree?”
“Trời ơi, thưa ngài, chắc phải có một cơn say đầy máu me đây. Nhưng đầu óc tôi không biết có còn dùng được nữa không, nó đang rối tung cả lên, mặc dù tôi phải nói rằng cái hộ chiếu xem ra là thật”.
"Ồ nhưng nó là thật mà," Asterman vội nói, giọng thất kinh.
"Chính ngài chưởng lý của Đạt Lai Lạt Ma đã thảo ra nó và đích thân ra lệnh chuyển đến cho ông. “Đây này”, ông ta chỉ vào dấu triện đỏ vuông vắn trong đó có khắc những ký tự nhỏ tiếng Phạn, "đó là con dấu của Đạt Lai Lạt Ma, không một ai có bất cứ cái gì giống như thế cả ở Tây Tạng lẫn vùng Đại Tarta này".
Nhận thấy vẻ nghi nghi hoặc hoặc trên nét mặt chúng tôi, ông ta vội vã nói thêm, “À! Tôi thay rằng các vị cần một sự giải thích rõ ràng hơn nữa. Được thôi. Chúng ta hãy đi đến chỗ cắm trại của tôi ở bên kia sông, ở đấy các vị sẽ được ăn uống, nghỉ ngơi và có câu trả lời thoả dáng. Người và súc vật của các ông hiện giờ đã ở đó, tất cả đều an toàn và khoẻ mạnh".
Chúng tôi băng qua cầu và sau khi đi qua khoảng hơn 100 mét trên con đường độc đạo thì đến một vùng đất rộng. Hai căn lều vải cùng một lều bạt rất lớn đã được dựng lên quây thành vòng tròn quanh một đống lửa nhó. Kintup và mấy người khác đang ngồi chồm hổm quanh đống lửa, vừa thoáng thấy chúng tôi thì chạy bổ đến vui mừng tíu tít. Liếc sang bên cạnh, tôi thấy Sherlock Holmes tỏ vẻ xúc động khi chứng kiến niềm vui chân thật, lồ lộ của các chàng trai người dân tộc khi thấy hai chúng tôi còn sống và không bị tổn thương gì. Kintup nhắc đi nhắc lại rằng họ cứ tưởng đâu chúng tôi đã bị giết, nhất là sau khi nghe loạt súng rền vang như sấm nổ lần cuối. Bản thân họ cũng nghĩ chính mình đã bị bắt làm tù binh trong tay một đám cướp còn đông hơn nữa. Để làm họ yên lòng, tôi đoan chắc với họ bằng mọi việc không phải như vậy và Asterman cùng người của ông ta là những vị cứu tinh chứ không phải kẻ thù của chúng tôi.
Vị cứu tinh mời chúng tôi đến ngồi ở một vài chiếc ghế dài, thấp kê dưới mái hiên. Kỳ lạ thay việc thành kiến có thể làm thay đổi diện mạo của một người trong mắt ta đến đường nào.
Giờ đây Asterman hoàn toàn là một quý ông lịch lãm, đáng mến không có gì chung với "kẻ mặt chồn sương" hung ác mà trước đây tôi vẫn gán cho ông ta. Tuy nhiên, Asterman có phần hơi khoa trương, lắm lời.
“Tốt lắm, thưa các ông nếu các ông có chút quan tâm nào đến chuyện này tôi xin kể hầu các ông chuyện của tôi từ đầu đến cuối,” Asterman bỏ chiếc mũ cát két cáu ghét ra để lộ một cái đầu hồng hào khá to với một vài chõm tóc xám lơ thơ. Khuôn mặt xương xương của ông ta trông linh hoạt và sôi nổi hắn lên khi bắt đầu câu chuyện. "Như các ông có thể đoán biết tôi là người Do Thái, một đứa con bất hạnh của Shem, người mà vì lai lịch và toàn cảnh xuất thân đã phải cho đi nhiều hơn là nhận được trong cuộc đời khốn khổ này.
"Gia đình tôi vốn quê ở Alexandria, cha tôi là con trai thứ ba của David Asterman, một trong những thương nhân xuất sắc nhất thành phó. Nhưng cha tôi muốn chọn con đường riêng nên sau khi được chia tài sản đã cùng mẹ tôi lên đường đến Calcutta, nơi ông bắt đầu sự nghiệp của một nhà buôn bán hương liệu.
Nhưng cha tôi không phải là người biết lo xa, thưa các ông, nên mặc dù ông ấy chí sảy chân một lần duy nhất - trong chuyện ngựa nghẽo - nhưng cũng đủ khiến gia đình tôi tán gia bại sản còn ông thì sớm qua đời với một trái tim tan vỡ. Cầu cho linh hồn ông được nên nghỉ nơi chín suối. Để nuôi mẹ già cùng các anh chị em khác, tôi thử điều hành kabari - một cửa hàng bán đồ cũ - tại chợ Bow ở Calcutta, nhưng đó là một cuộc đầu tư đáng nản. Thiếu cả vốn liếng lẫn kỹ năng nên dù đã cố hết sức tôi vẫn không bao giờ kiếm đủ tiền để đưa gia đình thoát khỏi cảnh chạy ăn từng bữa. Nhưng chúng tôi là một gia đình ngoan đạo, bao giờ cũng tin tưởng vào những điều răn của Chúa. Mặc dù đã đến gần ranh giới tuyệt vọng nhưng chúng tôi vẫn không mất hết niềm tin vào Thượng Đế. Ngài đã khiến cho những con quạ kiếm thức ăn nuôi Elijah trong hoang địa thì chắc chắn Ngài sẽ không để cả nhà chúng tôi phải bỏ mạng cùng nhau. Rồi một hôm có một khách hàng rất dị thường tìm đến tiệm.
"Đó là một chàng trai trẻ vóc người tầm thước, khuôn mặt mang những đường nét phương Đông không lẫn vào đâu được. Anh ta khoác trên người một chiếc áo choàng chẳng giống ai, nhưng chắc chắn là được may bằng loại lụa đắt tiền; cùng đi với anh ta là một kayeth, người chuyên viết thuê ở chợ và hình như anh ta đến chỗ chúng tôi với tư cách người thông dịch.
"Kayeth giải thích với tôi rằng quý ông trẻ tuổi này đến từ Bhotiyal, hay Tây Tạng. người viết thuê này cách đây nhiều năm đã từng làm việc chăm chỉ ở thành phố nhỏ Kalimpong, biên giới Tây Tạng và đã học được ít nhiều tiếng Tây Tạng trong thời gian đó. Quý ông người Tây Tạng này muốn mua một món hàng đặc biệt, đã tìm đến nhiều cửa hàng trong thành phố, nhưng chỉ bị chủ cửa hàng xua đuổi với thái độ nghi ngờ và chế giễu. Cuối cùng anh ta quyết định bỏ cuộc. Kayeth khuyên anh ta hãy tỏ ra nhẫn nại thêm một lần nữa và đã thuyết phục được người khách đến cửa hiệu tồi tàn của tôi. Khi biết chuyện, tôi cố làm cho vị khách phương Đông cảm thấy dễ chịu hơn và lịch sự hỏi về món đồ anh ta đang tìm kiếm. Người này trả lời một cách đơn giản rằng anh ta muốn có “một tiếng sét”!
"Này hỡi con trai của Jacob(1)”, tôi bèn bụng bảo dạ “Đây không phải là lúc tỏ vẻ ngạc nhiên hay bỡn cợt. Kẻ ngu ngốc không mặc áo lụa đắt tiền như thế (ông nội tôi từng bán lụa trong nhiều năm và tôi biết thế nào là một loại lụa quý mà cũng không có cả một người phiên dịch để dịch lại những lời nói ngu ngốc của họ. Có thể chú mày sẽ vớ bẫm trong chuyện này chưa biết chừng. chỉ cần biểu lộ một chút kiên nhẫn và lịch sự mà thôi”.
“Như vậy tôi xác định đó là một sự hiểu lầm," Asterman tiếp tục sau khi hớp một ngụm trà, “sự hiểu lầm chắc chắn sẽ trở nên trầm trọng hơn bởi khả năng ngôn ngữ kém cỏi của Kayeth. Tôi kiên nhẫn đặt ra nhiều câu hỏi cho quý ông Tây Tạng này về cái món anh ta muốn, chẳng hạn như về hình dạng, màu sắc và đặc tính, nhưng không biết thêm được gì cả. Rồi tôi nhớ rằng trong bộ sưu tập sách cũ trong tiệm có một cuốn từ điển Tây Tạng-Anh cũ mèm mà tôi đã mua từ đống đồ cũ của một nhà truyền giáo đã chết. Tôi lao ra sau tiệm, tìm thấy nó nằm lẫn trong một đống tạp chí Blackwood phủ đầy bụi bặm. Đúng cái lúc mà tôi đưa cuốn từ điển cho quý ông Tây Tạng thì tôi hiểu, vấn đề của chúng tôi đã được giải quyết. Rõ ràng anh ta là một người có học - theo cách của mình - vì anh ta hối hả lật các trang sách cho tới khi tìm thấy điều mình muốn. Với một tiếng kêu nhỏ đầy thoả mãn, anh ta chỉ cho tôi một chỗ trong một trang sách và thúc giục tôi, bằng những âm thanh lắp bắp lạ lùng, hãy nhìn vào đó.
Nói một cách công bằng, thì cái ông kayeth ấy đã dịch đúng nghĩa đen của từ đó và nó có nghĩa là “tiếng sét”, nhưng hiểu theo nghĩa bóng thì là những mẩu thiên thạch và đó mới đúng là cái mà quý ông Tây Tạng này tìm kiếm.
"Tôi đã cố gắng thu mua một lượng mẫu đá từ một nhà buôn chuyên cung cấp khoáng sản, mẫu vật địa chất cho các trường cao đẳng và đại học và đáp ứng nhu cầu cho người này”.
Anh ta trả cho tôi một khoản hoa hồng lớn và từ đó về sau thường thông qua tôi đặt mua nhiều món hàng kỳ lạ và hiếm thấy khác. Mãi sau này tôi mới được biết người này làm việc cho Đạt Lai Lạt Ma, có nhiệm vụ tìm kiếm những thứ như thế cho vị Phật sống của mình. Bản thân tôi không bao giờ hiểu rõ tại sao ông ấy lại muốn có những vật lạ lùng này, nhưng rồi tôi tặc lưỡi, "có phải là việc của chú mà đâu, có lẽ người ta dùng để làm ra những pháp thuật chăng”(2). Dù sao đi nữa, tôi cũng đã được đền đáp xứng đáng cho công lao khó nhọc của mình, mặc dù không phải lúc nào tôi cũng kiếm được những của đó. Cũng thật đáng ngạc nhiên khi một ngày nào đó các ông có dịp phát hiện ra một thực tế - bất kể nó kỳ lạ như thế nào - rằng mình được trả tiền rất nhiều tiền chỉ để tìm ra một món gì đó và nhất là được toàn quyền hành động mà không phải mà không phải lo lắng về phí tổn. Tôi có thể kể hầu các ông vô số câu chuyện ly kỳ trong việc truy lùng mấy món này. Thực vậy, có một lần tôi còn mặc cả mua một quả trứng Phượng hoàng từ kho báu của Đại pháp sư Kaflristan cơ đấy. Đó sẽ là một câu chuyện còn hấp dẫn và kích động hơn tất cả các tiểu thuyết của ông Haggard(3).
“Chắc chắn là rất thú vị, điều đó thì không còn gì phải hồ nghi nữa,” Sherlock Holmes nói, giọng khô khan, "nhưng có những điều còn thú vị hơn với chúng tôi vào lúc này, xin ông cảm phiền kể cho chúng tôi nghe làm thế nào ông biết được sự hiện diện của chúng tôi trên những ngọn đồi này. Và vì lý do gì mà chúng tôi lại có được một vinh dự quá khác thường khi nhận được một tấm hộ chiếu đến Tây Tạng?”.
“Chắc chắn rồi, ông Sigerson, không có gì chắc chắn hơn thế," Asterman đáp, không khỏi bối rối. "Tôi cũng vừa định bắt đầu. Nhưng trước tiên phải uống thêm một chút trà nữa”, ông ta vỗ tay với dáng điệu chỉ huy và một người bước lại gần.
"Hãy châm thêm trà cho các quý khách nào. Tách của họ đã cạn nước rồi đấy. Đám người theo hầu của quý ông đây đã có đầy đủ thức ăn và nước uống chưa? Tốt lắm, anh lui được rồi đấy!”.
Sau đó ông ta quay lại, đối diện với chúng tôi với một vẻ mặt khá kỳ quặc.
"Vâng, như tôi đã thưa với các ông, hiện có ít nhiều điều quả vẫn còn khiến tôi hết sức kinh ngạc, nhưng thật tình mà nói, bất cứ cái gì liên quan đến ngài đây đối với tôi mà nói đều là một bài toán mẹo rất khó của người Trung quốc. Chuyện là thế này.
Cách đây bốn tháng, người của Đạt Lai Lạt Ma - cái người đến cửa hàng của tôi để mua "tiếng sét", cũng chính là người vừa dâng cho ngài và ông đây hai chiếc khăn quàng cổ trắng như món quà chào mừng các vị khách quý. Phải, người này đã trao cho tôi một chỉ thị kỳ cục, phải tìm cho được một chilingpa - tức là một người châu Âu - mà họ rất quan tâm. Đây là lần đầu tiên họ yêu cầu tôi tìm người và thú thật tôi cũng không hiểu rõ lắm về những việc mà mình đang dính vào. Nhưng họ hứa trả tôi rất hậu nếu tôi tìm được người này. Họ không chỉ cung cấp cho tôi tên của ông, ông Sigerson ạ, mà còn cung cấp một bản miêu ta đầy đủ và chính xác về bản thân ông, bao gồm cả ngày giờ con tàu của ông cập bến tại cảng Bombay”
Một cảm giác khó chịu nhói lên ở sau gáy khi tôi nghe nói tới điều này.
"Nhưng làm thế nào họ biết được chứ?”, Sherlock Holmes lẩm bẩm, vầng trán cau lại bối rối.
"Ồ, họ biết rõ điều đó, thưa ông," Asterman cả quyết “Chúa sẽ trừng phạt tôi nêu tôi dám nói sai một lời. Thậm chí, họ còn miêu ta cả tẩu thuốc và hộp đàn violon của ông nữa".
"Và ông đã bám theo ông Sigerson tử cảng đến khách sạn,” tôi hỏi ngay “Phải thế không nào?”
“Phải, tôi đã làm thế, thưa ông," ông ta toét miệng cười lộ ra hàm răng vàng khè, lởm chởm. "Đừng nghĩ là tôi không biết ông bám theo tôi trên chiếc xe ngựa từ bến cảng đến khách sạn nhé. Mặc dù tôi phải công nhận rằng cho mai tới sau này tôi mới biết rõ, chứ lúc ấy tôi không thể đoán ra ông có mối liên hệ gì với ông Sigerson.Vụ án mạng trong khách sạn làm tôi hiểu rằng vô hình trung tôi đã để bản thân mình lún quá sâu vào những việc mà tôi không kiểm soát được". Ông ta hơi rùng mình. "Tôi vẫn bị những cơn ác mộng đáng sợ về cái thân hình đẫm máu lảo đảo tiến về phía tôi trong hành lang khách sạn. Tôi chạy khỏi nơi đó trong sự kinh hoàng tột độ. May sao tôi đã kịp phòng ngừa bằng cách để cỗ xe của mình ở phía sau khách sạn. Nhờ thế tôi cố gắng thoát đi thật nhanh, chỉ vừa kịp lúc, vì hai cảnh sát đã đuổi theo tôi từ lối đi của người phục vụ”.
Như vậy là Asterman đã không nhận ra chúng tôi trong con hẻm tối.
“Vâng, thưa các ngài,” Asterman tiếp tục, “Tối hôm đó, tôi quay lại nhà quyết định sẽ không dấn sâu vào công việc nguy hiểm chết người này nữa. Nhưng sau khi suy đi ngẫm lại suốt đêm, tôi đã đi đến chỗ nhận thức rõ ràng dù sao tôi đã có một cam kết với khách hàng, vậy thì điều ít nhất mà tôi phải làm là thông báo cho họ biết về nơi ở và kế hoạch của ông. Vì vậy ngày hôm sau tôi lại lảng vảng ở khu vực xung quanh khách sạn, canh chừng xem ông ra vào khách sạn như thế nào. Khi thấy ông rời khỏi khách sạn cùng hành lý vào đêm hôm đó, tôi đã đi theo ông đến ga tàu. Tôi cho tay bán vé một ít tiền, thế là hắn nói cho tôi biết ông mua vé đến Umballa. Vì vậy, tôi đoán rằng ông dự định đến Simla và tôi đã đúng. Tôi bèn đến Darjeeling để báo cáo mọi việc. Một nhân viên trẻ tuổi có tên là Tsering, còn có nghĩa là “Trường Thọ” cho rằng việc này hết sức quan trọng. Anh ta đặt ra nhiều câu hỏi về ông, ông Sigerson ạ. Ngoài ra, anh ta còn tỏ ra lo lắng về vụ án mạng ở khách sạn. Cuối cùng, tôi nói dù rất tiếc nhưng tôi không thể tiếp tục đảm trách nhiệm vụ nguy hiểm này nữa. Anh ta bảo tôi rằng việc này vô cùng quan trọng và họ hứa sẽ trả cho tôi bất cứ thứ gì tôi muốn để thực hiện việc này từ đầu đến cuối. Tôi đòi một khoản tiền lớn đến mức hoang đường, cốt để anh ta nản lòng, nhưng trước sự thất vọng của tôi, anh ta mau mắn đồng ý.
Suy cho cùng, nếu tôi may mắn sống sót qua vụ này, cả đại gia đình của tôi sẽ yên ổn và sung túc suốt đời. Sau đó, Tsering đưa ra cho tôi những chỉ thị cụ thể. Anh ta khẳng định rằng dù thế nào ông cũng sẽ cố đến Tây Tạng vào mùa xuân và rất có thể kẻ thù của ông sẽ cố thủ tiêu ông trên đường đi. Trách nhiệm của tôi là phải ứng cứu ông. Bản thân anh ta sẽ vượt qua biên giới từ mạn Thượng và chỉ cần băng qua đeo Shipki cùng một đội quân có vũ trang là có thể phối hợp với tôi để trợ giúp ông. Anh ta cũng làm sẵn một tấm hộ chiếu cho phép ông vào Tây Tạng.
"Tôi cho rằng chúng tôi đã dự liệu vừa khéo, ông Sigerson ạ. Đội quân Tây Tạng cũng chỉ mới đến đây trước một ngày và mặc dù đã lùng sục toàn bộ khu vực này cố tìm ra nơi ẩn náu của băng cướp, nhưng chúng tôi vẫn mất đi ba tay súng trường được cắt cử canh gác ở bên kia sông. Thật bất thường cái việc một toán cướp có vũ trang lảng vảng trong khu vực đèo heo hút gió này còn kỳ quặc hơn nữa khi chúng bày binh bố trận chỉ để chờ đợi một đoàn hành hương bé nhỏ của các ông. Trong khi ấy mới sáng nay thôi, có một đoàn la dài dằng dặc chở nhiều hàng hoá đi ngang con đường này nhưng chẳng thấy chúng có động tĩnh gì ông Sigerson ạ, ông cứ như một cục nam châm, luôn hút về mình bao nhiêu hiểm nguy: đầu tiên là vụ án mạng ở khách sạn, còn bây giờ là những tên cướp này. Thưa ông, thật ra có chuyện gì vậy?”.
Ông ta hỏi đặt một ngón tay lên môi với vẻ bí ẩn.
“Hẳn phải có chuyện gì đó quan trọng khủng khiếp đằng sau tất cả những chuyện này. Không phải ư? Ồ, xin lỗi, tôi đã hỏi qua nhiều… lẽ ra tôi chỉ nên quan tâm đến chuyện của mình thôi!”
“Tốt lắm, thưa ông Asterman," Sherlock Holmes nói và mỉm cười, “Rõ ràng tôi và người bạn đồng hành đã nợ ông mạng sống, cho nên thật là không phải đạo nếu tôi không thoả mãn trí tò mò chính đáng của ông. Rất tiếc là vào lúc này, tôi chưa thể cho ông biết mọi chuyện về tôi hay người bạn đồng hành này. Điều mà tôi có thể nói chỉ là có một tổ chức tội phạm rất nguy hiểm âm mưu thực hiện nhiều cuộc tấn công liều mạng nhằm tiêu diệt tôi, chẳng hạn như vụ vừa rồi. Vụ giết người trong khách sạn là một trong những cuộc tấn công đặc biệt đáng quan tâm. Ông có biết…”
Rồi không hề tiết lộ danh tính cũng như bán chất thật sự của tổ chức tội phạm đằng sau những tội ác trên, Sherlock Holmes kể lại câu chuyện về chiếc đèn hình con voi bằng đồng thau và con đỉa sát thủ khổng lồ. Dù với ít nhiều thay đổi trong các tình tiết đó cũng là một câu chuyện hồi hộp, gay cấn từ đầu đến cuối.
Asterman bị cuốn hút vào câu chuyện, còn tôi thì nhận thấy Sherlock Holmes đã thận trọng gắn mọi công lao cho cảnh sát trong việc tháo bỏ tấm màn bí ẩn của vụ án, bản thân mình thì đóng vai trò của một nạn nhân hoảng loạn.
“Chậc, chuyện thế mới là chuyện chứ, chà chà!" Asterman trầm trồ kêu lên. "Đúng là một câu chuyện ly kỳ từ đầu đến cuối! Nó khiến tôi phải rùng mình khiếp sợ khi nghĩ rằng tôi đã ở cận kề với cái chết như thế nào… chà chà, ngay trong hành lang khách sạn. Điều đáng tiếc là cảnh sát không thể tóm tên chủ mưu đứng đằng sau vụ này. Dù sao tôi cũng tự mình thoát khỏi nhiều rắc rối, còn nhưng tên cướp này tôi cho là hắn ta đã thuê chúng”.
"Rất có thể là như vậy,” Sherlock Holmes trả lời, nhồi đầy tẩu thuốc bằng thuốc lá lấy ra từ một chiếc bao đã màu xám.
“Đó là sai lầm đáng trách nhất về phía tôi thưa ngài," tôi nói, giọng hối lỗi, nhưng cứ lấy cuộc đời chết tiệt của mình ra mà thề, tôi không thể hiểu được làm thế nào chúng lại có được thông tin về cuộc hành trình của chúng ta. Tôi xin đảm bảo việc chuẩn bị không hề gợi lên mối quan tâm hay nghi ngờ của bất cứ ai cả".
“Chắc chắn là ông đã làm tốt, Huree ạ. Nhưng nên nhớ, chúng ta không đương đầu với những tên tội phạm thông thường, như có lần tôi đã nói rất rõ, đó là một tổ chức tội phạm nguy hiểm nhất trong biên niên sử của thế giới tội ác”.
Asterman gãi gãi cái đầu hồng hào lơ thơ vài nạm tóc và nhận xét, giọng vui vẻ:
"Nhưng mà ông Sigerson này ông không cần phải lo lắng về chúng một khi đã vào đến Tây Tạng. Tôi nghi ngờ khả năng những tên tội phạm này - dù chúng xuất quỷ nhập thần đến đâu chăng nữa - lại có thể thành công trong việc xâm nhập đất nước này, khi mà những nhà thám hiểm kiên cường nhất cũng phải bó tay. Phải, có một điều vẫn khiến tôi băn khoăn tại sao nhà cảm quyền Tây Tạng lại cho phép ông vào đây với việc biếu không một tờ hộ chiếu quý giá. Nhưng không sao chẳng chóng thì chầy Tsering sẽ giải thích cho các ông biết. Anh ta sẽ hộ tống các ông đến Lhassa".
“Ông nghĩ tại sao họ lại cho chúng ta hộ chiếu đi đường, ông Holmes?”, tối hôm đó, tôi hỏi ông, khi chỉ còn hai chúng tôi trong căn lều nhỏ. Tôi nằm đó, cuộn tròn ấm áp trong chiếc túi ngủ bằng da cừu, nhưng ký ức về các sự kiện và những tiết lộ trong một ngày đầy biến động này làm tôi tỉnh như sáo. Sherlock Holmes chỉ rúc nửa người vào túi ngủ thì đang tựa lưng vào cái poshteen(4) được cuộn tròn lại mà bình thản hút thuốc.
"Đó là một câu hỏi thú vị phải không nào?”, một làn khói xanh cuộn lên từ tẩu thuốc của ông. “Nhưng nó vẫn sẽ là một bí ẩn ít nhất cho tới khi chúng ta đến được Lhassa, vì tôi chưa cỏ bất cứ câu trả lời nào. Tuy nhiên, chúng ta hãy liều mạng một phen, đừng đếm xỉa đến bất cứ khía cạnh xấu nào có thể có trong ý định của họ, bởi nếu họ có ý đồ xấu với chúng ta thì việc quái gì phải làm một cách vòng vo phức tạp như vậy. Việc gì phải cử Asterman đến cứu chúng ta khỏi những tên giết thuê của Moran, rồi sau đó lại nhử chúng ta vào một cái bẫy nào khác. Không, không thể có chuyện đó được. Dù thế nào đi nữa, ta cũng chưa có đủ dữ liệu về vấn đề này để có thể đưa ra một giải pháp tức thì. Chúng ta cần phải tin vào lòng nhân từ của Thượng đế thôi, Hurree ạ! Khi chúng ta vượt qua giới hạn của chúng ta - ngọn đèo cuối cùng đó - vào ngày mai".
Sherlock Holmes cất tẩu thuốc đi và chồm tới thổi tắt nến.
“Chúc ngủ ngon!”
“Chúc ngủ ngon, ông Holmes". Tôi có thể thấy là chúng tôi sắp đi vào một nơi nguy hiểm nhất trước khi tất cả chuyện này qua đi. Tôi thở dài và kéo phần trên của túi ngủ trùm qua đầu.
Chú thích:
(1) Jacob ở đây chỉ tổ phụ của người Do Thái
(2) Chắc chắn là Asterman đã lầm. Những lễ hội của Mật giáo Tây Tạng đòi hỏi nhiều vật thể kỳ lạ để đạt được hiệu quả. Thiên thạch chắc chắn là được dùng để đúc những dụng cụ trong các nghi lễ tôn giáo như "dao găm ma thuật" (phurba), chuông (drilbu) và “quyền trượng kim cương" (dorjee).
(3) Henry Rider Haggard (1856-1925): sinh ở Norfolk (Anh) là một nhà văn chuyên viết những chuyện phiêu lưu mạo hiểm thời Victoria, truyện của ông thường lấy bối cảnh ở những vùng đất xa lạ huyền bí đối với đa số độc giả người Anh thời ấy.