Không nói một lời, Sherlock Holmes lao ra khỏi phòng. Strickland và tôi lập cập chạy theo, phóng ra ngoài khách sạn, chạy thẳng đến chỗ xe ngựa đậu thành dãy ngoài cổng chờ khách. Trong khi cỗ xe ngựa lọc cộc lăn bánh xuống đường Frere rồi đến sở cảnh sát Horniman, Holmes châm một điếu thuốc và hút trong tâm trạng dằn vặt, bực bõ.
"Thật là một sự bất cẩn tai hại, đó là vì tôi đã không lường trước được đường đi nước bước của Moran," ông nhấm nhẳn nói. "Giờ tôi sợ rằng cái sợi dây mỏng manh mà chúng ta vừa tìm được trong vụ án này đã bị cắt đứt”.
"Nhưng chúng ta vẫn còn bằng chứng về dấu tay cái kia mà, ông Holmes," tôi gợi ý “bọn nó không đủ, dù chỉ là ad interim(1) để bắt giam Đại tá Moran cho đến khi những tội ác ghê gớm hơn của hắn được phơi bày ra ánh sáng hay sao?”
"Hurree thân mến, bằng chứng về vân tay ngón cái sẽ là quá outré(2) đối với bất cứ vị quan toà nào để ký lệnh bắt một người có vai vế trong xã hội như Đại tá Moran. Chúng ta cũng không bao giờ được quên rằng gã thợ săn già đời kia là một kẻ quyền biến, giảo hoạt có tài xoay chuyển tình thế; hắn ta có thể phủi sạch bất cứ những chướng ngại nào - như cái trở ngại mà chúng ta vừa đặt trên lối đi của hắn - nhẹ nhàng như không".
"Tôi e là ông nói đúng, ông Holmes ạ," Strickiand nói, giọng chán nản. "Chúng ta cần có lời khai của tên thư ký trời đánh thánh vật đó, vậy mà giờ thì hắn đã đi đời nhà ma. Lẽ ra tôi nên cảnh báo cho MacLeod…"
"Lỗi hoàn toàn thuộc về tôi, Strickland ạ” Sherlock Holmes nói cộc lốc. "Anh làm sao lường trước được một việc như vậy. Nhưng thôi! Tôi thấy chúng ta đã tới nơi rồi. Không gì trên đời này có thể khiến thiên hạ chen vai thích cánh bên nhau nhìn ngó cho bằng một vụ án mạng, nếu như sự tò mò thiếu lành mạnh của người dân London là cái có thế dùng để đánh giá phần nhân loại còn lại".
Quả thật, đám đông hỗn loạn trước đồn cảnh sát Horniman là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc dòng xe lưu thông trên đường bị tắc nghẽn nghiêm trọng. Mặc cho những lời rầy la xối xả của tôi, nhưng thằng nhóc đường phố đi chân trần vẫn như những con khỉ con leo bám lên xe chúng tôi để nhìn cho rõ hơn.
Cuối cùng, Strickland và viên hạ sĩ phải xuống xe dùng cái mác cảnh sát của mình để mở đường đi qua đám đông. Sau khi trả tiền xe, tôi và Holmes đi theo họ.
"Tránh đường, đi chỗ khác nào!” Strickland la lên, át cả những tiếng huyên náo trên đường, “di đến chỗ kia kìa”. Vung vẩy chiếc roi chỉ huy một cách mạnh mẽ trước mặt, anh ta cố gắng mở một lối đi giữa đám người chật như nêm cối. Một số cảnh sát nhìn thấy chúng tôi bèn khua những cây gậy bịt sắt lên để giúp sức. Ngay khi lọt qua đám đông, tôi nhìn thấy một vũng máu lớn trên mặt đất. Cái xác đã được chuyển vào đồn. Bên trong sở cảnh sát, viên thanh tra MacLeod hoàn toàn quẫn trí chạy đến gặp chúng tôi, hàng ria xám xộc xệch rủ xuống, thiểu não hơn bao giờ hết.
“Tôi rất… rất thành thật xin lỗi về việc này thưa ngài," anh ta nói cà lăm, “Có đến chết tôi cũng không thế tưởng tượng được”
“MacLeod thân mến, " Strickland cắt ngang, "hãy cho chúng tôi biết chính xác chuyện gì đã xảy ra…"
"Vâng, thưa ngài,” viên thanh tra bắt đầu, "tôi… tôi áp giải phạm nhân ra khỏi khách sạn bằng chiếc xe ngựa bốn bánh của cảnh sát. Có hai cảnh sát khác đi cùng. Chiếc xe về đến đồn và tôi đang bước xuống xe thì có cái gì đó đánh vào phạm nhân, trúng ngay vào ngực, gây tổn thương nghiêm trọng. Căn cứ vào vết thương thì có thể hiểu đó là hậu quả của một phát súng, nhưng cũng có thể không phải như vậy, vì cả tôi lẫn mấy tay cảnh sát kia đều không nghe thấy tiếng súng nổ. Chúng tôi cố gắng đưa người bị thương vào bên trong và bác sĩ Patterson ngay lập tức có mặt để chăm sóc, nhưng không còn làm được gì nữa. Phạm nhân tắt thở vài phút sau đó".
Một ông người Anh dáng bệ vệ, tuổi cỡ trung niên, mặc áo choàng phẫu thuật trắng toát từ một căn phòng khác đi ra. Tôi đoán đó là bác sĩ Patterson.
"Xin chào ông Strickland… chào các ông”, ông gật đầu thật nhanh với chúng tôi và quay sang thanh tra MacLeod. "Phạm nhân của anh rõ ràng là bị bắn, MacLeod ạ, và đây là viên đạn đã gây ra chuyện này. Tôi vừa lấy ra viên đạn ra khỏi ngực nạn nhân".
Ông chìa ra một chiếc đĩa sứ men trắng trên đó có một viên đạn dính máu đang lăn qua lăn lại trong lòng đĩa, làm vang lên những tiếng lanh canh. Sherlock Holmes cúi xuống kiểm tra.
"Một viên đạn bay ra từ một khẩu súng lục có ở quay nhẹ," ông tuyên bố, như các vị sẽ thấy, nó đã nở rộng một cách bất thường sau khi bị bắn đi, vì thế mà gây nên tổn thương nghiêm trọng trong cơ thể nạn nhân như ông thanh tra MacLeod đã mô tả”.
"Nhưng nó không thể là một khẩu súng lục có ổ quay được,” viên thanh tra kêu lên bối rối, giật giật bộ râu tua tua một cách bứt rứt “Như tôi đã nói tuyệt không có một tiếng súng khai hoả nào cả. Vả lại vào thời điềm ấy trời đã tối, đường phố cũng đã yên ắng trở lại, không thể có chuyện có tiếng súng nổ mà đám cảnh sát chuyên nghiệp chúng tôi lại không nghe thấy được".
"Vậy thì anh hãy tự nhìn xem,” Sherlock Holmes nói, chl tay vào viên dạn lăn qua lăn lại trên đĩa.
"Tôi không phu định đó là một viên đạn, thưa ngài," viên thanh tra cương quyết bảo vệ quan điểm của mình, những thưa đại uý Strickland, hẳn ngài cũng biết rõ rằng sân trước của đồn cảnh sát được chiếu sáng rất tốt bằng đèn khí. Tôi sẵn sàng đánh cược cả khoản tiền hưu của mình rằng không có một ma nào lảng vang quanh tù nhân và tôi, ít nhất là trong tầm ngắm".
"Nhưng nếu xa hơn nữa thì sao nào,” Strickland gợi ý "chẳng hạn ở bên kia đường".
"Từ đó đến đây chắc cũng phải hai mươi lăm thước hoặc xa hơn nữa," viên thanh tra trả lời, "trong trường hợp này thì tôi không dám chắc".
"Vậy có bất cứ phương tiện giao thông nào trên đường, tỉ như một chiếc xe ngựa chạy ngang qua xe các anh lúc đó không?”
"Không, tôi đảm bảo điều đó mà… có một chiếc xe tải… một trong những chiếc xe giao hàng… đang đậu trước cửa một trong những cửa hàng ở bên kia đường. Nhưng thậm chí cả một xạ thủ cự phách nhất cũng không thể bắn trúng một người từ một khoảng cách xa như vậy bằng khẩu súng lục, nhất là lại vào ban đêm".
"Chẳng lẽ muộn thế mà người ta vẫn giao hàng hay sao?” Holmes nhận xét, tiến đến bên cánh cửa sổ hé mở và nhìn ra ngoài màn đêm. "Dù sao thì hiện giờ nó cũng không còn ở đó nữa”. Ông quay lưng lại cửa sổ, đứng đối mặt với chúng tôi.
"Than ôi! Than ôi! Đúng là một vấn đề đặc biệt nan giải".
Có một cái gì đó trong âm điệu của ông làm tôi chú ý. Đối với tôi, âm hưởng của giọng nói ấy không những không có chút gì bối rối mà lại gián tiếp ám chỉ một thông tin riêng biệt nào đó.
Strickland cũng có thể đã nhận ra, vì anh ta lập tức chấm dứt cuộc thảo luận và dẫn Sherlock Holmes ra khỏi sở cảnh sát.
"Tối nay chúng ta sẽ chẳng còn việc gì để làm nữa," Strickland nói, giọng có phần hơi quá nhấn mạnh khi tiến ra cửa.
"MacLeod, điều đầu tiên tôi muốn anh làm là hỏi tất cả các chủ tiệm và người dân quanh đây xem có bất ký hành động nào bất thường nào hay có kẻ khả nghi nào mà họ đã nhìn thấy vào thời gian xảy ra vụ bắn súng không”.
Đám đông tụ tập bên ngoài dồn cảnh sát lúc này đã giải tán. Ánh sáng rực rỡ của những ngọn đèn khí đốt soi rõ bóng một vài kẻ ăn xin đang nằm sấp mặt trên vỉa hè đá lát mà ngủ. Tiếng tưng tưng của một cây đàn xita vang lên dặt dìu lúc khoan lúc nhặt trong không khí tĩnh lặng của một đêm tối trời. Trong giây lát tôi nghĩ đến viên thư ký khách sạn người Bồ Đào Nha với thân hình phốp pháp hiện đang nằm bất động trên phiến bê tông lạnh lẽo trong nhà xác của sở cảnh sát trong khi linh hồn hắn đang bắt đầu cuộc hành trình đến "một đất nước chưa được phát hiện nơi mà du khách một khi đã đi qua thì không thể quay trở vê được nửa". Một viên cảnh sát vẫy xe ngựa cho chúng tôi và cả ba lại quay về khách sạn, thưởng thức cảm giác mát lạnh của không khí Bombay khi đêm về khuya.
Có vẻ như nhà thám tử tài ba của chúng ta cũng có lúc buồn phiền, gương mặt với những đường nét sắc cạnh dưới chiếc mũ săn của Sherlock Holmes gục xuống rầu rĩ. Ông hoàn toàn đắm chìm trong những suy nghĩ riêng tư nên đường như không nghe thấy câu hỏi của Strickland.
"Nó đã được thực hiện như thế nào, thưa ông Holmes?”
"Cái gì cơ?”
"Phát súng ấy, ông Holmes. Gã Bồ Đào Nha đã bị bắn như thế nào?”
"Ồ cái đó,” Holmes trả lời với giọng lanh đạm và từ từ ngẩng đầu lên, "chỉ là một khẩu súng hơi".
"Ông nói gì thế một khẩu súng hơi, Strickland thân mến. Hay đúng hơn là một khẩu súng trường hơi. Hay tin tôi, có một thứ như thế đã tồn tại(3). Một thứ vũ khí độc nhất vô nhị, không gây ra tiếng động, còn khả năng sát thương thì vô địch. Tôi biết rõ rằng Von Herder, tay thợ máy mù người Đức đã chế tạo ra nó theo lệnh của giáo sư Moriarty quá cố. Đạn mà nó bắn ra là đạn súng lục loại nhẹ. Đó là một kỳ tích, vì ai có thể chờ đợi một việc như vậy từ một khẩu súng trường hơi. Moran, hơn một lần, đã cố hạ gục tôi với món đồ chơi đó, nhưng số phận đã tử tế với tôi hơn là nhưng con cọp của Đại tá".
"Nhưng chắc chắn hắn ta sẽ thử lại lần nữa," tôi nhận xét, “nếu chúng ta không cố bắt giữ hoặc chặt bớt vây cánh của hắn ta. Tiếp tục ở lại đây sẽ vô cùng nguy hiểm cho tính mạng ông, Holmes ạ”.
"Xét về khía cạnh nào đó thì tôi cũng không phải là một kẻ yếu bóng vía, Hurree ạ, nhưng tôi hiểu quan điểm của ông. Vậy ông đề nghị ta sẽ hành động theo hướng nào đây?”
"Tránh voi không xấu mặt nào, biết người biết ta cũng là cái dũng của kẻ trí vậy, nếu có thể, tôi khuyên ông hãy nhanh chóng rút khỏi cái thành phố đã trở thành một nơi nguy hiểm nhất đối với ông,” tôi đề nghị.
"Hurree nói đúng đấy ông Holmes," Strickland nói, "tại Bombay này Đại tá Moran có rất nhiều lợi thế, có thể xem như hổ mọc thêm cánh vậy. Ngoài việc thành phố này có diện tích rất lớn, lại ở trong tình trạng, e hèm, có thể nói là rất lộn xộn, gây nhiều trở ngại cho việc thi hành công vụ của cảnh sát, còn có vô số tổ chức tội ác mà Moran có thể dễ dàng tuyển mộ cho những mục đích xấu xa của hắn".
"Tôi đề nghị một chỗ trú chân tạm thời ở Simia, ông Holmes ạ," tôi nói. “Vào thời điểm này trong năm, thời tiết cực kỳ dễ chịu và rất phù hợp với thể chất người châu Âu. Các vị có nhớ không “…những triền đồi xanh tươi, những dòng suối trong vắt như pha lê, làn gió vùng trung du mát mề mang hơi thở ngát hương của những loài thông bất diệt…” chúng ta có thể nhận được những thông tin tương tự như thế trong cuốn Sổ tay hướng dẫn du lịch Simla của tác giả Towell".
"Ông chớ để cho những câu văn vần của Hurree làm cho mất tinh thần, ông Holmes à," Strickland đáp. “Phải, Simla là nơi nghỉ xả hơi tốt nhất cho ông vào lúc này. Mặc dù nó là thủ phủ mùa hè của quan chức chính phủ, nhưng nó đủ nhỏ để chúng ta có thể theo dõi được bất cứ du khách nào tỏ vẻ bất thường, ngoài ra dân ở đây đều là những người dân miền núi rất chất phác, lương thiện. Với lại, một khi lên vùng cao thì ông Hurree đây sẽ giống như cá gặp nước, ông ta có thể bảo vệ ông một cách hiệu quả".
Tôi rất vui khi biết được rằng mình có thể trở thành bạn đồng hành cùng Holmes đến Simla. Chỉ sau hai ngày quen biết ông, tôi đã hoàn toàn tin chắc rằng được ở gần con người đặc biệt này không chỉ giúp người ta học hỏi thêm nhưng kiến thức nhiều mặt mà còn là cả một niềm vui lớn.
"Tàu chở thư đến Peshawar sẽ lăn bánh lúc một giờ đêm nay, ông Strickland ạ," tôi nhìn chiếc đồng hồ đeo tay lớn màu bạch có hình củ cải mà tôi thừa hưởng từ cha. “Nếu không có việc gì cần kíp đối với ông Holmes, chúng ta còn khoảng hai giờ nữa để đón chuyện tàu đó".
"Tốt lắm, tôi đã sống cuộc đời nay đây, mai đó quá lâu rồi," Sherlock Holmes trả lời, "và hai giờ là khoảng thời gian quá đủ để cho tôi lấy cái túi xách ở khách sạn”.
"Thế là ổn cả,” Strickland nói khi chiếc xe dừng lại trước cửa khách sạn. “Ông càng rời khỏi Bombay sớm thì càng ít có cơ hội cho Moran giở trò đối phó với ông. Này, ông Hurree,” anh ta quay sang tôi, ra lệnh, "hãy mau chóng về nhà lấy hành lý rồi đến gặp chúng tôi ở ga Victoria ngay tại quần bán sách bảo gần phòng đợi đầu tiên nhé".
Chú thích:
(1) ad interim (tiếng Latinh): tạm thời
(2) outré (tiếng Pháp): quá đáng, thái quá
(3) Mặc cho đặc điểm khá mới lạ của nó, súng trường hơi đã được sử dụng thậm chí còn sớm hơn nữa trong lịch sử. Louis XIV đã săn hươu với một khẩu như vậy. Thậm chí, quân dội Pháp đã sử dụng loai vũ khí này rất thành công để chống lại quân Áo trong cuộc chiến tranh của Napoleon. Lewi s và Clark từng dùng một khẩu súng trường hơi trong cuộc thám hiểm nổi tiếng của họ