Từ đó trở đi Long Uyên và Vân Tuệ ăn trái cây với cá và ở trong thạch thất luyện tập những võ công khắc ở bốn vách đá và thủ pháp dị dung.
Hai người ở cùng một phòng, tuy Long Uyên nằm ở trên cái thảm trải dưới đất, nhưng vì căn phòng ấy quá nhỏ khiến hai người được tiếp xúc luôn luôn nên tình cảm của hai người ngày càng khắng khít thêm.
Long Uyên lớn chóng lắm nên tình cảm của chàng thành thuộc cũng rất mau. Hai người ngày đêm gần nhau như vậy, Vân Tuệ lại đẹp như tiên nga nên Long Uyên đã đem lòng yêu nàng. Tuy chàng không nghĩ đến tình dục nhưng lúc nào chàng cũng muốn được ăn ở với nàng mãi mãi.
Tuy Vân Tuệ là người ngoại quốc, nhưng từ nhỏ đã sống theo tư tưởng của người Trung Hoa, nên tư tưởng và hành động của nàng cũng như những thiếu nữ người Hoa vậy, từ lúc mới gặp nàng đã đem lòng yêu Long Uyên nhưng lòng yêu lúc ấy khác với cảm giác yêu lúc bây giờ, vì lúc này nàng thấy Long Uyên đã như người lớn rồi nên nhất cử nhất động của chàng đều làm cho nàng yêu, dù nàng lớn tuổi hơn và hiểu biết hơn nhưng đàn bà bao giờ cũng thụ động nên nàng cứ chờ đợi Long Uyên tỏ lòng yêu trước mới dám thỏa thuận.
Ở trong động không có đêm ngày và cũng không có xuân hạ thu đông, Long Uyên phải lấy đá gạch vào vách để tính ngày tháng. Không bao lâu hai người đã ở trong động hơn hai năm rồi.
Long Uyên là người thông minh cái thế đã học thuộc lòng võ công và dị dung thuật khắc ở trên vách đá rồi. Vân Tuệ kém thông minh hơn chàng một chút nên mấy thế võ vẫn chưa học thuộc hẳn. Ngoài ra, trong hai năm đó Long Uyên đã cao hơn Vân Tuệ một cái đầu, về võ công cũng vậy. Giờ đây Vân Tuệ còn phải học chàng, đồng thời chàng còn dạy nàng những môn võ công ở trong “Đơn Thư Thiết Quyển”.
Dị dung thuật khắc trên vách đá là lợi dụng quần áo đồ trang sức và mấy thứ thuốc màu không phai để cải biến dung mạo chứ không phải là môn võ công thay đổi khuôn mặt, như phép tiên. Trên đó có ghi rõ những đơn thuốc.
Khi ở cù lao, Long Uyên đã nghiên cứu qua cuốn Thần Nông Y Giản, nên chàng hiểu biết hết tính chất của các vị thuốc lại thêm chàng rất thông minh, bất cứ học hỏi môn thuốc nào cũng vậy, chỉ đọc qua hai lượt là thuộc lòng liền, nên các đơn thuốc khắc ở trên vách đá, chàng cũng học thuộc lòng hết.
Chỉ có một điều khiến chàng buồn nhất, là không sao ra được bên ngoài để hái thuốc làm thử. Nhưng Vương Lâu, chủ nhân của hang động hình như biết trước điều này, nên đã để sẵn nhiều thứ thuốc ở trong tủ đá cho chàng. Vì thế hai người cứ lấy những thứ thuốc đó ra mà bào chế và thi nhau hóa trang xem ai hóa trang nhanh, giỏi mà không có sự sơ hở.
Long Uyên và Vân Tuệ đều là tiên đồng ngọc nữ, do vậy chàng chỉ thích hóa trang thành người tuổi trung niên rất xấu hay người già nua yếu đuối thôi; Vân Tuệ cũng thường hóa trang thành một cụ bà, tóc vàng của nàng cũng hóa thành tóc bạc. Vì vậy trong thạch thất thường thường xuất hiện rất nhiều hạng người: già, trẻ, đẹp, xấu.
Không chỉ khuôn mặt, cả giọng nói cũng thay đổi.
Sở dĩ hai người thay đổi được giọng nói là nhờ trên vách đá có khắc môn “Ảo Vân Phục Ma Âm”, môn này cần phải có nội công luyện tới mức thượng thặng mới học được để vận chân khí lên cổ họng, điều khiển thanh quan tùy theo ý muốn của mình. Mon đó khi luyện tới mức thật cao siêu có thể dùng chân khí đưa tiếng nói vào tai những người ở cách xa mình mấy trượng làm cho những người đó mất hết thần trí hoặc chết.
Nhưng môn này có một khuyết điểm là nếu dùng để giết người, thì chân khí trong người sẽ tiêu hao hơn nửa. Trong bốn mươi chín ngày, phải kiếm chỗ tịnh tu trong hai mươi bốn ngày, mới có thể trở lại bình thường. Bằng không, sau bốn mươi chín ngày, nội tạng sẽ bị thương tổn nặng, thổ huyết mà chết.
Đồng thời trong bốn mươi chín ngày đó, không những không thể xử dụng được lần thứ hai, mà thậm chí nếu đấu với người, chỉ dùng hơi sức hơi mạnh một chút, cũng nguy hiểm đến tính mạng. Vì thế, bất đắc dĩ lắm mới phải dùng tới nó để giết người.
Cho nên, hai người tuy đã luyện đến mức có thể giết người nhưng không dám vận dụng. Hai người chỉ dùng để thay đổi giọng nói.
Cũng nhờ có môn dị dung này, những ngày sống trong hang động của hai người mới khỏi khô khan buồn tẻ.
Trên vách còn khắc một võ thuật tên là “Phục Ma Kiếm Pháp”, Vương Lâu đặc biệt chỉ rõ pho kiếm pháp này là một môn bí học của đạo gia huyền môn, oai lực rất mạnh, và phải có ngộ tính cao mới có thể lãnh hội được sự huyền diệu ở bên trong.
Bề ngoài pho kiếm pháp chỉ có năm thứ, tuy học rất dễ, nhưng rất khó tinh xảo.
Uyên nhi thông minh như thế mà cũng phải luyện tập hàng tháng mới thành công. Vì kiếm pháp ấy biến hóa rất nhiều, nên thể thức nào cũng có oai lực khôn tả, đối thủ càng lợi hại bao nhiêu, kiếm thức càng biến ảo khó lường bấy nhiêu.
Điều cốt yếu của pho kiếm pháp này là khi xử dụng là thiên thần và kiếm phải hợp nhất, tâm trí thống nhát, bằng không, không sao giở hết được sự huyền diệu của pho kiếm ấy ra.
Cái gọi thần, kiếm hợp nhất? Nghĩa là lấy lòng mình thay lòng trời, lấy kím mình thay kiếm trời. Người xử dụng pho kiếm này phỉa chính tâm thành ý, hoàn toàn giữ tôn chỉ “thay trời hành đạo” chứ trong lòng không được nghĩ đến chút tà niệm nào.
Long Uyên từ nhỏ đã không nhuốm bụi trần, rất lương thiện, nên lúc luyện pho kiếm đễ dàng đi đến cái tinh túy của pho kiếm. Vân Tuệ, vì bị ảnh hưởng của Cô Độc Khách, tính tình còn cố chấp, trong lòng nàng lúc nào cũng có ý muốn trả thù cho sư phụ, nên học tới pho kiếm đó, không tài nào tinh xảo bằng Long Uyên được.
Vì vậy, khi luyện Phục ma kiếm tốn công gấp đôi mà kết quả chỉ được một nửa, không sao phát huy được oai lực của pho kiếm. Long Uyên đã giải thích rõ cho nàng, mà nàng vẫn không sao quên được chuyện đó.
Thời gian của một năm sắp hết, chỉ còn một ngày nữa là hai người đã ở trong thạch động được ba năm rồi. Cả hai phấn khởi vô cùng, vì vậy mà cả hai không nghĩ ngợi, ngồi đợi cánh cửa thạch thất mở ra.
Vân Tuệ dùng vải khâu thành ba cái túi lớn, hai túi nhỏ. Túi dùng dùng đựng những trái cây kì lạ, còn túi lớn chàng để không.
Trong lúc chờ đợi Long Uyên nhìn chung quanh, ánh mắt lộ vẻ luyến tiếc, dù sao chàng ở trong động cũng được ba năm rồi, nên bất cứ vật gì ở đâu cũng trở nên thân thương. Chàng biết võ công của hai người hiện giờ đã có hỏa hầu rất thâm hậu, chỉ rời khỏi nơi đây là hai người không thể nào gần gũi nhau suốt ngày như vậy nữa. Điều này càng làm cho chàng luyến tiếc thêm. Nhất là sau khi rời khỏi nơi đây, chàng phải về nhà thăm cha mẹ, còn Vân Tuệ thì thế nào cũng vào Trung Nguyên trả thù cho Cô Độc Khách, như vậy hai người làm sao mà gần nhau được.
Còn Vân Tuệ nghĩ khác, nàng nhận thấy tương lai của mình rất đẹp và cũng rất buồn vì việc thứ nhất của nàng là phải đi trả thù cho sư phụ, phải làm xong việc đó nàng mới hết trách nhiệm, mới được tự do tự tại. Lúc ấy nàng sẽ cùng Long Uyên ngao du sơn thủy, và sẽ ký thác thân mình cho chàng.
Nhưng việc trả thù cho sư phụ rất lớn lao và cũng rất nặng nề. Bảy đại trưởng môn của bảy đại phái ở Trung Nguyên đều là những người có võ công cao thâm, dù võ công của nàng có cao siêu đến đâu cũng khó lòng giết hết bọn họ cùng một lúc, nên nàng phải dụng kế tầm ăn dâu mà đánh chết từng người một, nhưng dùng cách ấy thì lâu lắm.
Ngoài ra nàng lại không muốn Long Uyên giúp mình, vò Cô Độc Khách chỉ là sư phụ của nàng, nàng muốn chính tay mình trả thù cho sư phụ chớ không muốn nhờ ai hết, hơn nữa Long Uyên là người nối dõi duy nhất của họ Long; khi nào nàng lại để cho chàng mạo hiểm như thế, nhỡ mệnh hệ nào có phải là nhà họ Long tuyệt tự không? Đồng thời người của bảy môn phái đông như vậy, nếu như chàng giúp sức thì thế nào chàng cũng kết oán với chúng rồi chúng kiếm người nhà họ Long báo thù thì sao? Vì thế nàng không muốn cho chàng biết, vì chàng biết thế nào cũng giúp mình chứ không khoanh tay đứng nhìn đâu. Những việc đó làm hco nàng khó xử hết sức, nên nàng mới rầu rĩ như vậy. Trước khi chưa hoàn thành công việc báo thù cho sư phụ; lỡ trả thù không xong, bị kẻ địch giết chết có phải là đau đớn biết bao không? Hai người vì vậy cứ lẳng lặng nhìn cánh cửa, mỗi người nghĩ đến một chuyện nên không ai nói với ai một lời.
Long Uyên liếc mắt nhìn trộm thấy đôi ngươi tia ra những luồng sáng chói lọi, chàng kinh hãi vô cùng, và nhận thấy sắc mặt của nàng đáng sợ lắm, vì trước kia Vân Tuệ đã kể cho chàng nghe khi sư phụ của nàng sắp chết đã có sắc mặt như thế nào, nên bây giờ chàng biết Vân Tuệ đang nghĩ đến mối thù của sư phụ.
Chàng là người hiền lành trung hậu, không ưa những chuyện lạm sát. Theo nhận thức của chàng thì người đời ai ai cũng có quyền sống một cách tự do, người khác không được can thiệp tới và càng không được làm nguy hại quyền sống của người khác. Vì thế chàng không muốn Vân Tuệ quá lo nghĩ đến việc trả thù cho Cô Độc Khách nhưng bây giờ chàng thấy sắc mặt của nàng, biết nàng đã quyết chí trả thù.
Chàng không những đội ơn cứu sống của nàng mà còn rất yêu nàng nữa. Lúc này chàng không biết nên làm như thế nào cho phải? Giúp nàng trả thù cho Cô Độc Khách ư? Hay là làm thinh để mặc nàng đi trả thù lấy? Chàng nhận thấy hai điều đó đều trái với tôn chỉ định tâm luyện võ của mình, chàng muốn tìm ra cách hoàn hảo nhất để hòa giải mối oán thù cho nàng, nhưng chàng nghĩ mãi mà không nghĩ ra được phương pháp nào thì cánh cửa đã đến giờ khai môn. Hai người mải nghĩ nên quên cả cửa đã mở, tới khi cánh cửa khổng lồ bắt đầu đóng lại mới giật mình kinh hãi thét lớn, vội phi thân nhảy ra giơi hai tay chống đỡ. Lúc ấy khe cửa chỉ còn rộng hơn thước thôi. Chàng vận hết mười thành công lực ra đẩy mạnh một cái chỉ nghe thấy kêu ầm một tiếng, cánh cửa ngưng đóng trong giây lát.
Nghe tiếng quát của chàng, Vân Tuệ giật mình thức tỉnh, lúc này nàng biết dịp may chỉ trong nháy mắt la mất, nên nàng không dám trì hoãn, vội xách mấy cái túi nhảy vọt qua đầu Long Uyên phi thân ra bên ngoài.
Long Uyên dùng sức cầm cự với cánh cửa không cho đóng lại mất rất nhiều hơi sức. Máy móc sau cửa càng lúc càng mạnh. Lúc ấy tiếng kêu ùm ùm càng ngày càng lớn, cánh cửa càng ngày càng mạnh, nếu chàng lơi tay, cánh cửa sẽ đóng lại ngay. Vân Tuệ vừa đáp chân xuống, ném chồng áo và mấy cái túi xuống, quay lại thấy Long Uyên mặt đỏ bừng, mồ hôi toát ra như tắm, vội tiến tới giúp chàng chống đỡ để chàng chui ra.
Thấy Vân Tuệ đã chống cánh cửa hộ mình Long Uyên nhún chân nhảy qua đầu nàng ra phòng bên ngoài.
Lúc ấy Vân Tuệ cũng buông tay, chỉ nghe thấy kêu ầm một tiếng, cánh cửa đá đã đóng kín. Hai người nhìn nhau cười và nghĩ thầm:
“Nguy hiểm thực.”
Vân Tuệ trông thấy mấy cái xác vẫn còn y nguyên liền cau mày lại nói với Long Uyên rằng:
-Long đệ mau bỏ hểt châu báu vào mấy cái túi lớn này, để tôi ra xem con Ngao biệt có còn đợi chúng ta ở bên ngoài không?
Lúc này Long Uyên mới biết Vân Tuệ khâu ba cái túi lớn mà không đựng gì, là dùng để đựng những châu báu ở ngoài này. Chàng vâng lời cầm mấy cái túi nhặt những hạt châu báu bỏ vào bên trong, mâm châu báu đó vừa chứa đầy ba túi.
Vân Tuệ đi ra một lúc đã quay trở vào, vui vẻ nói:
-Uyên đệ, con Ngao biệt vẫn đợi chúng ta ở bên ngoài, mau đi thôi.
Nói xong, nàng xách một túi châu báu với những túi nhỏ đựng trái cây, còn hai túi lớn để cho Long Uyên xách. Khi ra tới đường hầm, Long Uyên trông thấy hạt châu gắn ở trên đỉnh động liền nói với Vân Tuệ:
-Chị Tuệ, những hạt châu gần ở đỉnh động này đều là hạt châu kỵ thủy. Chúng ta lấy hai hạt xuống để dùng nhé!
Vân Tuệ gật đầu rồi nàng từ từ nhảy lên lấy hai hạt xuống. Ra đến cửa động Long Uyên đã thấy con Ngao biệt sáu chân bốn mắt đang bơi ở trong nước.
Nó vừa trông thấy hai người liền thò đầu vào trong động kêu ú ú hai tiếng tỏ vẻ vui mừng, nghênh đón.
Long Uyên không ngờ con vật này lại khôn ngoan đến thế. Chàng đoán chắc nó đã được chủ nhân dặn bảo bằng không nó biết sao được ngày giờ đến đây nghênh đón, hay nó đợi ở đây ba năm liền? Nhưng dù sao, chàng cũng cám ơn nó, nên chàng đưa tay vuốt đầu nó và hỏi:
-Sư phụ chủ nhân của cái động này đã dặn ngươi đưa chúng ta đến đây phải không?
Con Ngao biệt vui vẻ kêu ú một tiếng rồi gật đầu mấy cái.
Long Uyên hỏi tiếp:
-Nếu vậy, chúng ta phải cám ơn ngươi. Chị Tuệ, chúng mình phải cám ơn nó phải không?
Vân Tuệ cũng nghĩ như vậy, thấy Long Uyên nói thế vội mở cái túi nhỏ lấy mấy trái cây tươi ra và nói với con Ngao biệt:
-Ngao biệt ơi, chúng ta rất cám ơn ngươi, bây giờ ta mời ngươi ăn mấy trái cay tươi này để cảm tạ ngươi nhé!
Ngao biệt há mồm ra đớp, gật đầu cám ơn, rồi rụt đầu ra ngay.
Vân Tuệ cầm hạt châu kỵ thủy vừa lấy ở trên đỉnh động đưa cho Long Uyên một hạt, hai người cùng để hạt chau len bàn tay và đưa vào trong nước, quả nhiên nước biển liền rẽ ra tựa như trong hang động vậy.
Hai người thấy thế mừng rỡ vô cùng, Vân Tuệ đi nhẹ nhàng nhảy lên lưng con Ngao biệt. Long Uyên đi sau cũng nhảy theo lên. Hai người ngồi sát cạnh nhau. Hạt châu ở tay hai người tới đâu rẽ nước tới đó, tuy ở trong bể mà không ướt tí nào, hai người tựa như ngồi trong một quả cầu bên trong là không khí bên ngoài là nước.
Con Ngao biệt thấy hai người đã ngồi vững, liền bơi sáu chân như một mũi tên bắn thẳng lên mặt biển. Độ nửa tiếng đồng hồ sau đễ lên tới mặt nước, con Ngao biệt cỡi sóng mà đi. Hai người không trông thấy mặt trời đã ba năm, lúc này đã trông thấy mặt trời thì mặt trời đã bắt đầu lặn, sóng gió rất lớn.
Hai người nhờ có hạt kỵ thủy châu nên không bị ướt một chút nào. CẢ hai người đều sung sướng nhìn nhau cười. Tuy trời tối nhưng Long Uyên vẫn còn trông thấy cù lao ở phía Tây vẫn đen thùi thũi như xưa. Chàng liền giật cương con Ngao biệt đi về phía đó. Con Ngao bietj kêu ú một tiếng và nhanh như bay thẳng tiến về phía cù lao.
Không bao lâu hai người đã tới cù lao. Cả hai vô cùng mừng rỡ. Lúc gần tới thủy động Long Uyên ra hiệu cho con Ngao biệt bơi vào trong động nhưng nó kêu ú ú và lắc đầu cự tuyệt. Long Uyên cảm thấy nó định rời khỏi mình, tỏng lòng không nỡ, vì nó đã giúp hai người có được kỳ duyên, nên hai người đều muốn đền ơn nó, chàng hoảng sợ nhảy lên một tảng đá rầu rĩ hỏi:
-Ngươi định đi ư?
Ngao biệt lại kêu ú một tiếng, bốn mắt nó chớp nháy nhìn chàng, hình như nó cũng không muốn xa chàng vậy. Nhưng nhiệm vụ của nó đã xong, nó có nơi của nó, nó sẽ về với biển cả bao la, với đồng loại, nó sẽ thoải mái với không khí tự do.
Vân Tuệ cũng nhảy lên tảng đá ấy, trông thấy thái độ của con vật liền nói:
-Uyên đệ mau cởi những dây da ở trên người nó, nên để nó đi! Trên đời không có bữa tiệc nào là không có lúc tàn, chúng ta còn giữ nó lại ở trên này làm chi.
Nói tới đó nàng nhìn con Ngao biệt nói tiếp:
-Chúng ta rất cám ơn ngươi giúp đỡ, nhưng không bieets lấy gì cảm tạ ngươi, sau nầy chúng ta sẽ mãi cầu phúc cho ngươi. Nhưng mong ngươi đừng có làm những việc tàn hại sinh linh nữa. Khi nào ngươi đi ngang qua đây cứ kêu mấy tiếng, nếu chúng ta còn ở đây thể nào cũng ra gặp ngươi.
Trong khi nàng nói chuyện, Long Uyên đã cởi dây ở trên người nó ra nên nàng vừa nói xong, nó đã kêu U một tiếng rồi lặn xuống bể mất dạng.
Long Uyên không ngờ nó đi nhanh như thế, đứng ngẩn người ra như mất mát một vật gì vậy, Vân Tuệ thấy thế cười khanh khách nói:
-Uyên đệ, đi về nhà chứ? Nó đã về nhà nó sao chúng ta không về nhà chúng ta?
Thế rồi, hai người cùng đi nhanh như hai mũi tên phi lên đỉnh cù lao.
Long Uyên bỗng nổi hào khí ngửng mặt lên trời rú lên một tiếng thực dài rồi dụng thế Thần Long Thăng Không lướt như gió về trước.
Cảnh vật ở trong cù lao vẫn như xưa, và cũng như lúc hai người ra đi vày vì lúc ấy cũng là một đêm mùa hè, bây giờ cũng thế.
Hai người cũng về vào mùa hè cùng trong đêm tối. Nhưng cách biệt ba năm, khi trở về hai người cảm thấy mọi thứ ở cù lao trở nên thân thiết vô cùng. Một lát sau hai người đã về tới nhà cũ, trong ngoài không thay đổi chút nào, vẫn sạch sẽ như xưa, hiển nhiên vú Triệu không vì chủ nhân mất tích mà sao nhãng công việc.
Hai người lẳng lặng đi vào trong sảnh, lắng tai nghe thấy vú Triệu đang ngủ say, hai người nhìn nhau cười rồi lẳng lặng để túi xuống bàn về phòng ngủ một giấc ngon lành.
Trời sáng dần, vú Triệu ngủ dậy đi ra ngoài sảnh quét dọn, bỗng thấy trên mặt bàn có ba túi vải lớn, mồm lẩm bẩm tự hỏi:
-Những đồ này của ai thế?
Vú ta vừa quay đầu lại đã thấy Vân Tuệ đứng ở đằng sau, hai người vội chạy lại ôm choàng lấy nhau mừng mừng tủi tủi. Lúc ấy Long Uyên vừa bước ra, thấy vậy cảm động vô cùng. Vú Triệu đã già hơn trước nhiều, trên mặt đã có nhiều nếp nhăn hơn, còn mái tóc đã bạc trắng.
Vú Triệu trông thấy Long Uyên cao lớn như vậy suýt tí nữa không nhận ra chàng, lát sau vú mới chạy lại nắm tay chàng ngắm nhìn hỏi han luôn miệng. Theo lời của vú Triệu thì tối hôm hai người mất tích, những người ở trong cù lao đi thuyền ra tìm kiếm luôn mấy ngày, cha con Lý Thất nhờ hai người cứu cho thoát chết nhưng vì chiếc thuyền đã bị con cá kình phá vỡ, mãi nửa năm sau mới làm lại được chiếc thuyền khác vào Trung Nguyên mua dồ. Lúc ấy ai cũng tưởng hai người đã chết, cho nên đau lòng vô cùng. Nên những nông dân và người đánh cá ở trong cù lao này mỗi năm đã cử hành tế lễ hai người một lần.
Vú Triệu luôn đau đớn ứa nước mắt ra, vú nuôi và bồng bế Vân Tuệ từ hồi nhỏ đến lớn, tuy là người làm nhưng không khác gì mẹ vậy, nhưng vú vẫn tin tưởng thế nào cũng có ngày hai người trở lại, chứ hai người không thể chết yểu như thế đươc. Quả nhiên bây giờ hai người đã về, vú lại thấy hai người càng cao lớn xinh đẹp thêm làm sao mà không mừng rỡ. Sau khi nghe hai người kể cho biết ba năm qua ở đâu, vú Triệu vội ra ngoài báo cho dân làng hay.
Một lát sau, đã có mấy chục người lòng ôm con dắt trẻ đến đầy khách sảnh để thăm hai người và hỏi hai người trong ba năm đi đâu mà mãi bây giờ mới thấy về.
Long Uyên sợ mọi người nghĩ mình là thần tiên, nên chàng nói dối là lạc lên hoang đảo, gần đây mới có được một chiếc thuyền trở về.
Tất nhiên lời kể của chàng có nhiều mâu thuẫn nhưng mọi người thấy cả hai bình yên vô sự, cũng không hỏi lại nữa.
Những người đó chuyện trò một hồi rồi lần lượt cáo từ ra về. Lúc ấy Vân Tuệ với Long Uyên mới được nghỉ ngơi.
Từ đó trở đi hai người lại trở về cuộc sống yên bình như xưa.
Vân Tuệ một mặt may quần áo mới cho Long Uyên, một mặt ôn tập lại võ công.
Còn Long Uyên cũng ôn tập lại Đơn Thư Thiết Quyển và Thần Nông Y Giản. Lúc ấy Long Uyên đã trưởng thành, võ công cũng tự tin và có thể xông pha trên chốn giang hồ ở Trung Nguyên rồi. Chàng nhận thấy ở lại cù lao này, tuy ngày ngày có Vân Tuệ ở cạnh, nhưng trong lòng lúc nào cũng nhớ đến quê hương và cha mẹ.
Chàng nghĩ từ khi mình rời khỏi nhà đến giờ thấm thoát đã được mười năm, các bác và cha mẹ tuổi đã sấp sỉ bảy mươi chả sống được bao lâu nữa, nên chàng rất mong, chỉ muốn trở về thăm nhà ngay.
Vân Tuệ thấy sắc mặt của chàng biết chàng nhớ nhà, nên nàng liền lên tiếng hỏi, Long Uyên thành thực nói cho nàng hay và cũng muốn nàng cùng về với mình.
Vân Tuệ cũng muốn lắm, xong nghĩ mình đã quyết định làm dâu nhà họ Long rồi, dù sao cũng phải về chào cha mẹ chồng, lần này đi cùng chàng về thế nào cũng được lòng thương của các bác và cha mẹ chàng. Vì nàng là ân nhân cứu Long Uyên thoát chết và cũng như là sư phụ của chàng nữa, chỉ hai điểm đó gia đình của chàng cũng phải hoan nghênh nàng rồi, nhưng miệng nàng lại trả lời:
-Uyên đệ, tôi thiết nghĩ lần này hiền đệ nên về nhà một mình, vì ở đây tôi còn nhiều việc phải làm, nhưng tôi biết hiền đệ không thể ở nhà được lâu đâu, chắc thế nào chúng ta cũng gặp nhau trên giang hồ. Tôi định hai tháng sau đi Ninh Ba để hỏi thăm tin tức của cha mẹ tôi để xem cha mẹ tôi tên họ gì? Tuy tôi không nhớ ra được hình dáng của cha mẹ, nhưng làm con mà tên họ của cha mẹ cũng không biết thì còn gì đau đớn bằng?
Long Uyên nghe nàng nói vậy nghĩ thầm:
“Chị ấy đi hỏi thăm lai lịch và tên họ của cha mẹ, ta không có quyền gì khuyên ngăn hết, nhưng dù sao chị ấy cũng đi với ta về nhà một chuyến trước. Chắc chị ấy nói như thế để lấy cớ thoái thác thôi, chứ thực sự chị ấy không muốn như vậy có khác gì là không muốn ở đời với ta không?”
Nghĩ vậy, chàng cúi đầu rầu rĩ không nói một lời.
Vân Tuệ đoán được suy nghĩ của chàng, liền nói tiếp:
-Uyên đệ, nếu đệ có ý đi chơi Giang Nam thì một năm sau cháng ta gặp nhau ở núi Hoàng Sơn nhé. Tôi nghĩ hiền đệ nên ở nhà lâu một chút vì hiền đệ đã vắng mặt bá mẫu lâu thì cũng nên ở nhà một thời gian để cho bể trên vui một chút.
Long Uyên lẳng lặng gật đầu, nhưng trong lòng nghe đau thêm.
Sự thực Vân Tuệ có dụng ý riêng, nhất thời không muốn nói ra nên nàng nói sang việc khác:
-Uyên đệ, sau này hành đạo giang hồ phải cẩn thận lắm mơi được. Hiền đệ anh tuấn như vậy phải đề phòng những đàn bà xấu xa ở giang hồ. tôi còn nhớ lời của sư phụ nói những người giang hồ rất hiểm ác, khó mà đề phòng được, nhất là những người có vẻ mặt hiền hậu, nhưng có thủ đoạn xảo trá, ví dụ như những đàn bà dâm đãng chuyên mê hoặc đàn ông và ngấm ngầm hại người. Hiền đệ đẹp như vậy ai trông thấy mà chả yêu, hiền đề mới bước chân vào giang hồ kinh nghiệm non nớt nhất định sa ngã vào tròng của những người đàn bà ấy thì khó mà thoát thân được.
Vân Tuệ nói vậy là có dụng ý riêng, nhưng vì Long Uyên đã hiểu lầm nên không lãnh hội được ý nghĩa sâu sắc câu nói đó, thậm chí chàng còn hận là khác, nên chàng tưởng nàng có ý giễu cợt mình.
Vân Tuệ không thấy chàng nói gì thở dài nói tiếp:
-Hà, Uyên đệ, không phải tôi nói ngoa đâu, sự thật hiền đệ quá đẹp, bất cứ ai trông thấy cũng phải động lòng. Nhất là những thiếu nữ mới lớn, nếu hiền đệ không đề phòng chỉ hơi dễ dãi với họ một chút là họ lôi hiền đệ vào bẫy ái tình liền. Nếu đối phương là người hư thân mất nết, hiền đệ có thể bỏ mặc họ cũng không sao, nhưng nếu là con nhà tử tế, thử hỏi đến lúc đó hiền đệ xử trí ra sao… Tôi lo lắng nhất là vấn đề này…
Vân Tuệ đã thổ lộ hết tâm sự của mình cho chàng ta nghe, quả thực nàng lo nhất là Long Uyên gặp những thiếu nữ yêu chàng, chàng là người giàu tình cảm sẽ không sao bỏ rơi những thiếu nữ đó. Như vậy có phải là nàng xôi hỏng bỏng không không?
Long Uyên vẫn hiểu lầm, nên vẫn không nhận rõ được tâm sự của Vân Tuệ, vẫn tưởng nàng đang giễu mình, nên giọng ai oán:
-Chị Tuệ, tôi không đồng ý lời nói của chị, tôi chắc chị bị ảnh hưởng của Vương Lâu tiền bối cho người đời ai cũng trọng bộ mặt. Trái lại tôi cho ý kiến ấy không đúng, có bộ mặt anh tuấn tuy dễ gây được thiện cảm với người thực. Nhưng cốt yếu nhất vẫn là nhân phẩm và tâm tính mới được.
-Lời hiền đệ cũng có lý, nhưng người có ý nghĩ như hiền đệ quả thực ít ỏi, nếu hiền đệ không tin cứ thử hóa trang thành một người xấu xí xem. Tôi dám chắc không đầy một tháng hiền đệ thể nào cũng bị người trên giang hồ ghẻ lạnh, không một người bạn tri âm nào cả cho mà xem.
Long Uyên không phục cãi lại:
-Được, chúng ta đánh cuộc, khỳ hạn là một năm; đi lại trên giang hồ tôi sẽ hóa trang thành một thiếu niên xấu xí thử xem coi ai bằng lòng gần gũi tôi không?
Vân Tuệ nghe vậy mừng thầm, vì nàng biết Long Uyên rất trọng lời hứa, trong một năm xa cách nếu chàng cải trang thành một thanh niên xấu xí như vậy, chàng sẽ được biết lòng người như thế nào và mình cũng đỡ sợ thiếu nữ khác yêu chàng.
Như thế không khác gì đã mua bảo đảm một năm, tới khi gặp nhau ở Hoàng Sơn lúc ấy nàng đã trả thù xong cho sư phụ. Trong thời gian cách biệt đó thể nào Long Uyên cũng sẽ hiểu rõ tâm ý của nàng.
Ngay hôm sau Long Uyên vừa rầu rĩ, vừa quyến luyến mà rời khỏi cù lao. Cha con Lý thất đưa thuyền tiễn chàng ra khơi. Vân Tuệ tuy buồn rầu nhưng mặt vẫn gượng cười tiễn chàng ra đi, và bảo chàng đem theo hai túi châu báu và những quần áo thường dùng. Nàng đứng ở trên đỉnh cù lao nhìn theo chiếc thuyền của Long Uyên cho đến khi hút bóng mới thôi, rồi mới rầu rĩ trở về nhà.
Tất nhiên Vú Triệu cũng đau lòng vô cùng, vú ta thấy Vân cô nương như kẻ mất hồn, lại càng thương thêm. Vú vừa khuyên giải vừa nghĩ cách để ghép hai người thành vợ thành chồng.
Long Uyên cũng như Vân Tuệ, chàng đứng ở đằng lái nhìn về sau tới khi hút bóng nàng mới thôi. Chàng cảm thấy mình có hàng vạn lời muốn nói với nàng mà không sao nói ra được.
Tuy chàng rất yêu nàng nhưng trong lòng cũng còn sự hiểu lầm, chàng tự bảo:
“Ta hãy về nhà hưởng hạnh phúc gia đình một thời gian đã, rồi sẽ ra giang hồ như vậy ta sẽ khuây khỏa mà có thể tạm quên nàngd được.”
Chàng chuyện trò với cha con Lý Thất để gắng quên đi hình bóng Vân Tuệ.
Ngày hôm sau thuyền đã sắp cập bờ. Long Uyên đã trông thấy lầu các ẩn hiện, chàng mừng rỡ khôn tả, không chờ thuyền vào tới bờ đã dụng khinh công tuyệt đỉnh nhảy ngay lên trên bãi cát chạy thẳng lên trên sườn núi. Chàng thấy cỏ hoang mọc đầy trên núi, khi tới nhà lại thấy cửa lầu đóng kín, mạng nhện giăng đầy như đã lâu không có người ở vậy.
Chàng kinh ngạc vô cùng vội đi tới gian giữa, mở cửa vào trong đại sảnh. Trong đại sảnh bụi bám đầy và không có một bóng người nào hết, chàng vội lên lầu mở hết các cửa phòng ra xem. Đồ đạc trong phòng vẫn bày biện như xưa nhưng người thì không biết đi đâu hết?
Chàng đau lòng vô cùng, đi quanh quẩn trong phòng của mẹ một hồi, đầu óc thì hồi tưởng lại khuôn mặt hiền từ của cha mẹ, đang suy tư tiếng động từ cầu thang vang lên làm chàng giật mình trở lại với hiện tại, tiếng chân người, chàng mừng rỡ vô cùng chạy ra nghênh đón. Ngờ đâu đó lại là cha con Lý Thất đang khuân đồ đạc đến cho chàng.
Lý Thất cũng ngạc nhiên hết sức, vì không thấy có người nào cả, lại thấy chàng rầu rĩ, y cũng ái ngại vô cùng.
Long Uyên cảm ơn cha con Lý Thất và giữ hai người ở lại một đêm, nhưng họ từ chối và bảo phải trở lại thuyền, và hỏi y có nhắn gì cho Vân Tuệ không?
Chàng đang rối trí nên chỉ ầm ừ, không biết nói năng gì. Rồi chàng tiễn cha con Lý Thất ra tận cửa.
Cha con họ đi khỏi, chỉ còn lại một mình. Chàng lại lên trên phòng ngủ của cha mẹ, nước mặt đột nhiên lăn dài trên má, mãi một lúc sau chàng mới cầm được những giọt lệ thương cảm, rồi đi kiếm chổi quét dọn phòng ngủ cho sạch. Chàng đem hành lý của mình lên, trải chăn lên giường để ngủ. Nhưng không sao chợp mắt được, bao nhiêu suy nghĩ lởn vởn trong đầu chàng, chàng ngồi dậy nhìn quanh. Chàng thấy căn nhà nguyên lành không bị suy chuyển chút nào, như vậy không phải là tai nạn. Nhưng sao không còn một người nào ở lại? Chắc là dọn đi nơi khác, nhưng dọn đi đâu?
Chàng lại đi quanh nhà xem xét một lần nữa rồi mới quyết định, nhưng vẫn không có dấu vết gì cho chàng biết là cha mẹ và các bác đã dọn đi đâu cả. Sau chàng quyết định chờ đến sáng sẽ đi hỏi những người ở lân cận xem họ có biết gì không?
Sáng hôm sau chàng rửa mặt qua loa, ăn một chút lương khô, rồi lại cố tìm trong các phòng một lần nữa. Nhưng chỉ thấy phòng nào phòng nấy bụi bám đầy.
Sau cùng chàng đi đến một căn lầu, lầu xây ở nơi sau cùng, trước kia là phòng của bác bảy Chi Trí ở. Hôm qua, chỉ có nơi này là chàng chưa đặt chân tới.
Khi lên tới cửa lầu, chàng bỗng giật mình đánh thót, trong lầu rất sạch sẽ, hình như có người quét dọn thường xuyên. Chàng bỗng thấy có hy vọng, vậy là còn có người ở đây. Chàng vội vàng mở từng căn một ra xem, quả nhiên thấy trong một căn phòng ở cuối lầu vẫn còn chăn gối và đồ đạc bỏ xót lại. Nhưng không vẫn không có bóng người nào cả, chàng nghĩ thầm:
“Có lẽ người này đã rời khỏi nơi đây rồi, nhưng đồ đạc chưa dọn đi, thế nào y cũng quay trở lại.
Bất cứ người ấy là ai, đã ở đây, tất nhiên phải biết tin tức của người nhà mình cho nên chàng quyết định ở lại đó chờ đợi.