54. Thị trường không tin nước mắt Trong bản “Báo cáo điều tra” của Hà Khai Ấm gửi Trung ương, đã thẳng thắn nêu ra: “Khuyết điểm lớn nhất của phương án cải cách thuế phí lần này chính là không xây dựng cơ chế tăng thu nhập”.
Khi thực thi thí điểm, An Huy rõ ràng đã chú ý đến việc ra sức nâng đỡ nông nghiệp, tích cực thúc đẩy kinh doanh hóa ngành sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp, tăng cường sức cạnh tranh thị trường của nông nghiệp. Tóm lại, tìm mọi cách để cho đông đảo nông dân tăng sản lượng, tăng thu nhập, nhanh chóng giàu lên.
Họ không quên câu nói của Đặng Tiểu Bình: Phát triển mới là đạo lý cứng. Tất nhiên phát triển này phải là phát triển mang tính bền vững.
Lợi ích của việc điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp mang lại cho nông dân là điều trông thấy rõ ràng. Khi chúng ta bắt đầu tiếp xúc vấn đề này chính là lúc nông dân trồng dưa của ba huyện thuộc thành phố Hợp Phì “nói dưa đổi màu”. Một năm trước, các loại dưa hấu trên thị trường Hợp Phì đều bán được giá, vì thế những nông dân trồng dưa không nghiên cứu quy luật thị trường, đến lúc này vẫn chưa ra khỏi vòng ràng buộc của nông nghiệp truyền thống mù quáng đổ xô nhau đi trồng dưa, năm đó ruộng dưa khu vực Hợp Phì một lúc mở rộng ra đến 18 vạn mẫu, tổng sản lượng đạt 270.000 tấn, mà dân Hợp Phì mỗi ngày tiêu thụ dưa hấu chỉ 15 tấn, lại thêm những dưa hấu này cơ bản thuộc vào loại dưa chín giữa vụ thông thường, chất lượng bình thường, sản lượng rất lớn, thời gian lại quá tập trung, quả dưa vất vả mấy tháng mới trồng được, nay hai hào một ký cũng không bán nổi, xuất hiện chuyện lạ một quả dưa hấu to không bằng tiền nửa chai nước suối. Những người trồng dưa rơi nước mắt đau lòng.
Để cố hết sức giảm bớt thiệt hại của người trồng dưa, giới báo chí truyền thông tỉnh thành kêu gọi nhân dân thành phố ăn nhiều dưa hấu, chính quyền thành phố Hợp Phì cũng ra một quyết định bất thường, cho phép xe ba gác, máy kéo và các loại xe nông cụ chở số lượng lớn dưa hấu đi vào thành phố, cảnh sát giao thông còn thi hành chính sách đặc thù đối với nông dân trồng dưa: “Không chặn chường, không phạt một xu, bật đèn xanh”.
Một thời kỳ, thành phố này đi đầu cả nước trong hoạt động xây dựng thành phố văn minh, Chu Dung Cơ cũng ca ngợi thành phố Hợp Phì “môi trường sạch sẽ”, bây giờ loạn cả lên, đầu đường ngõ phố đâu đâu cũng thấy các loại xe chở dưa hấu tung bụi mù trời, đi lại như con thoi “chẳng kiêng nể ai”.
Xã hội kêu gọi dân thành thị ăn nhiều dưa hấu, thương hại người trồng dưa không mặc cả, thậm chí không tiếc hy sinh trật tự bình thường của thành phố để tạo thuận tiện cho nông dân trồng dưa, nghĩa cử này và cả hành vi từ thiện tự phát của nhân dân thành phố đều rất cảm kích, lòng đồng tình này tất nhiên phải đề cao, vào giờ phút khó khăn, giúp anh em nông dân một tay cũng là điều đáng làm. Vấn đề là nhân dân thành phố tin vào nước mắt, thị trường không tin vào nước mắt. Dựa vào lòng từ thiện không nâng đỡ nổi một loạt sản phẩm, dựa vào đạo đức càng không chấn hưng được một ngành nghề. Vấn đề của thị trường chung quy vẫn phải dựa vào thủ đoạn của thị trường để giải quyết.
Chính vào lúc đông đảo nông dân trồng dưa mặt ủ mày ê vì không bán được dưa, thì xã Thập Tam Cương ở ngoại ô biết làm ruộng khoa học, họ trồng ra các loại dưa hấu có chất lượng cao như “Kinh Hân số 1”, “Hồng ngọc đầu xuân” và “Tiểu lan” v.v… vừa ló mặt ra chợ trở thành món hàng tranh nhau mua, giá cứ tăng, bán được 7 NDT một kg, lại còn leo cao hơn, đi vào các siêu thị lớn của thành phố.
Cùng là dưa hấu, một đằng kinh doanh thê thảm, một đằng lại trở thành cái “bánh nướng thơm” mọi người tranh nhau mua. Điều đó hình thành một so sánh rất rõ nét ở Hợp Phì tháng 7 năm 2001.
Mao Trạch Đông nói: Nghèo thì nghỉ thay đổi. Thực ra thay đổi suy nghĩ chỉ là những “kẻ tiên tri”.
Xã Thập Tam Cương nằm ở vùng giáp ranh Giang Hoài, núi non thung lũng đan xen, vốn là một làng nghề nông hẻo lánh nghèo nàn. Lãnh đạo xã tỉnh táo nhìn thấy, mục tiêu hàng đầu của cải cách thuế phí nông thôn là giảm nhẹ đóng góp của nông dân, nhưng muốn nông dân giàu lên thì nông nghiệp cần phải hướng ra thị trường, đổi mới quan niệm của nông dân. Trong quá trình đổi mới quan niệm, tiến bộ khoa học kỹ thuật của nông dân lại là điều vô cùng quan trọng, chỉ có nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, nông sản phẩm thực sự trở thành hàng hóa, mới có sức cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, đảng ủy và chính quyền xã Thập Tam Cương đi đôi với thực thi cải cách thuế phí nông thôn, dắt dẫn cả làng đi lên con đường tăng hiệu quả nông nghiệp “đặc sắc + quy mô + đẳng cấp”. Được sự giúp đỡ của cơ quan nghiên cứu khoa học, họ không chỉ tạo ra được loại dưa hấu chất lượng cao, mà còn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa cho những loại dưa hấu đó. Theo đà không mừng mở rộng mặt hàng sản xuất, họ lần lượt tạo ra những thứ dâu tây tươi, hoa quả tươi, rau tươi và cả bí đỏ và ngô đặc sắc cũng đều có nhãn hiệu đăng ký được Cục Quản lý hành chính công thương nhà nước phê chuẩn.
Nông sản phẩm của một địa phương được nâng lên thành một thương hiệu nổi tiếng được luật pháp bảo hộ là một sự việc mới mẻ ở An Huy cũng như cả nước.
Trấn Nông Hưng dưới núi Tử Bồng huyện Phì Tây là một trấn điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi tương đối lớn trong thí điểm cải cách thuế phí nông thôn An Huy. Ở đây chúng tôi đã gặp Thái Gia Đức, trấn trưởng và Lưu Đại Sơn, chủ nhiệm văn phòng nông nghiệp huyện xuống chỉ đạo công tác.
Thái Gia Đức giới thiệu: Cái tên “Nông Hưng” xem ra phấn chấn lòng người, nhưng lâu nay nó chẳng qua là một giấc mơ của nông dân. Toàn trấn có 2/5 diện tích là đồi núi, tất cả có 94 quả núi lớn nhỏ, điều kiện sản xuất nông nghiệp rất lạc hậu, cơ bản vẫn là ăn cơm trời. Hai mươi bốn thôn hành chính thì có một nửa số người, đất, gia súc thiếu nước, không điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp, có thể nói không có một ngày ngóc đầu lên được. Ban lãnh đạo trấn điều tra nghiên cứu nhiều lần, cuối cùng làm rõ tư duy phát triển, đó là:
“Thu hẹp lương thực mở rộng kinh doanh, thu hẹp loại thường mở rộng loại chất lượng cao, thu hẹp thuần chủng mở rộng giống lai; điều chỉnh ngành trồng trọt giống tốt, điều chỉnh ngành chăn nuôi, điều chỉnh ngành trồng cây ăn quả, xây dựng ngành chế biến”.
Lưu Đại Sơn hứng thú kể cho chúng tôi nghe người Nông Hưng ngày nay, được sự giúp đỡ của Văn phòng nông nghiệp huyện, họ làm thế nào “chơi” được “đủ mầu sắc” mà trước đây không dám nghĩ tới, làm nên đủ thứ “sản phẩm rừng”: rau tể rừng, rau quyết rừng, rau răng ngựa rừng, rau dền rừng, rau cử mại rừng, còn nuôi cả vịt rừng, thỏ rừng, gà rừng.
Chúng tôi đến thăm Dư Thành Yến, hộ chuyên ươm cây giống ở thôn Thượng Đường thị trấn Nông Hưng. Dư Thành Yến tuổi Dậu, sinh năm 1945, nay đã 57 tuổi. Đất nhận khoán của gia đình ông trên sườn núi, bởi vì quá nửa không có nước, trước đây vẫn trồng bông xen kẽ lạc và khoai sọ v.v… mỗi mẫu chỉ thu được vài ba trăm kg, cuộc sống rất khó khăn. Mấy năm trước, theo đề xướng của trấn, ông thận trọng dè dặt ươm trồng cây giống hoa, ban đầu chỉ “vơ bèo, gạt tép làm cò con”. Sau cải cách thuế phí, đảng bộ, chính quyền huyện chọn ra mấy xã, trấn Thượng Phái, Đào Hoa, Sơn Nam và Cây Thị, trong đó có Nông Hưng tập trung phát triển ươm cây cảnh, thành phố còn mời chuyên gia, giáo sư trường đại học nông nghiệp bồi dưỡng miễn phí cho họ. Dư Thành Yến động lòng, dứt khoát đem toàn bộ đất khoán ươm cây cảnh. Kết quả, năm đầu bỡ ngỡ, năm sau thành thạo, anh nông dân chính cống nửa đời người trồng bông, lạc và khoai sọ này hiện nay đã trở thành “người tài ươm cây giống” nổi tiếng gần xa. Ông chỉ rừng cây xanh mượt, phủ kín sườn đồi, nói một cách tự hào: “Kia là một vạn năm nghìn cây long não, trên thị trường rất đắt khách, trồng một cây long não như thế này không có lấy một con ruồi, muỗi; một cây hơn 20 NDT, một vạn năm nghìn cây bán ba bốn mươi vạn không thành vấn đề. Cạnh long não là cây nhựa ruồi, cũng không dưới 2.000 cây”. Ông quay người chỉ về bãi đất rặt một màu tươi rói dưới ánh mặt trời, nói “Kia toàn là tử vi đỏ, 5.000 cây; bên cạnh là ô bá cũng 3.000 cây. Tôi bây giờ kinh doanh hơn 10 mẫu, người khác bỏ đất, bỏ sức, tôi bỏ tiền, bỏ kỹ thuật, nói theo lời của người thành phố, cái “bánh ga tô” của tôi càng ngày càng to, thực ra trong toàn huyện, tôi vẫn chưa được gọi là lớn nhất”.
Khi ông dẫn chúng tôi đi tham quan xung quanh, chiếc máy điện thoại di động trên thắt lưng ông luôn luôn reo lên, không phải để học hỏi kinh nghiệm của ông mà là liên hệ nghiệp vụ, dáng vẻ ung dung tự đắc.
Giá lương thực ngày càng xuống thấp, ngày nay trồng lương thực không thể nào làm cho nông dân trở nên giàu có, nông dân khát khao điều chỉnh cơ cấu cây trồng là điều rất bức thiết, nhưng họ bị rất nhiều nhân tố ràng buộc, không biết thế giới bên ngoài, càng không thể nào hiểu được nhu cầu của thị trường, đại đa số nông dân vẫn không nghĩ được kế gì hơn, điều đó cần một lớp đi đầu, dẫn dắt lớp nông dân xung quanh kịp thời điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp; cũng chính nhờ tốp “người tài ba” vừa có đầu óc kinh tế thị trường, vừa biết làm ruộng khoa học, nhiều vùng mới xuất hiện cục diện sinh động “bát tiên quá hải, trổ hết thần thông”.
Nếu không nhìn thấy tận mắt, chúng tôi đều rất khó tin sự thật như thế này: Ngô Chính Thương, một người trồng cây ở thôn Thần Linh xã Thanh Bình huyện Phì Tây, từ quả nhân sâm lấy ở Sở thực vật Viện khoa học Trung Quốc về trồng, sản lượng mỗi mẫu lại có thể sáng tạo kỷ lục xưa nay chưa từng có - 16 vạn NDT.
Ngô Chính Thương khác với những thanh niên nông thôn bình thường, thích động não, sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông về nông thôn, bắt đầu thử trồng nho, sau đó đi xuống Thâm Quyến miền Nam làm công, thời gian rỗi việc, anh đi đây đó khảo sát nông nghiệp có thể làm giàu được không, anh còn đi Hồng Công một chuyến bằng tiền mồ hôi nước mắt vất vả dành dụm của mình để tìm hiểu tình hình thị trường. Sau khi trở lại quê nhà, anh hơn người khác một cái đầu kinh doanh, anh thấy ngày nay làm ruộng theo kiểu bảo thủ như ông cha ta ngày xưa, giỏi lắm cũng chỉ đủ no ấm, muốn lên khá giả thì phải làm ruộng khoa học, đi sâu nghiên cứu các môn học vấn kinh tế thị trường, và nhắm trúng quả nhân sâm.
Cái quả gọi là quả nhân sâm này, cỡ như quả lê, trong lòng trắng có màu tím, nhìn bề ngoài rất giống quả tim con người, vốn sản xuất ở Nam Mỹ. Anh nhập quả nhân sâm này, một lúc trồng hơn hai mẫu. Sau khi thu hoạch quả về, anh không vội xử lý mà đem cất nó trong nhà lạnh, chọn mấy quả gửi đến Viện khoa học sự sống trường đại học An Huy kiểm nghiệm, kết quả kiểm nghiệm làm anh mừng vui ra mặt, thì ra cái quả này không chỉ nhìn bề ngoài hấp dẫn lại còn chứa rất nhiều loại vitamine, có thể tăng sức miễn dịch của con người, thậm chí có tác dụng chống ung thư. Vì thế anh đặt cho quả nhân sâm này cái tên “quả tiên trần gian”, nhờ người thiết kế một hộp bao bì Tôn đại thánh tay bê quả nhân sâm, và trong hộp lót một khăn mu-soa hoặc miếng vải tơ tằm, thế là gắn quả nhân sâm của anh với câu chuyện Tôn Ngộ Không ăn trộm quả nhân sâm trong hồi thứ 24 “Tây Du Ký”, làm cho sản phẩm này “hàng hiếm giá cao”. Sau đó anh gửi quả nhân sâm đến “Hội chợ triển lãm” ở Thâm Quyến, một ông chủ xịn ở Hồng Công mua với giá 200 NDT một kg, làm cho quả nhân sâm này càng nổi tiếng. Chờ làm xong những việc trên đây, Ngô Chính Thương mới đến thị trường nhân tài đã tính sẵn trong bụng từ lâu, mời mấy sinh viên biết kinh doanh bán hàng, và trước tiên chọn “thị trường quà tặng” để tiến hành tiêu thụ rộng rãi. Quả nhân sâm sau khi đóng bao bì, vừa ra mắt trên thị trường Hợp Phì, lập tức gây chấn động. Hơn hai mẫu ruộng của anh thu hoạch được hơn 5 tấn quả nhân sâm, kiếm được hơn 40 vạn NDT, được giới truyền thông báo chí hô to: “Phóng vệ tinh trên đồng ruộng!”
Có điều, Ngô Chính Thương giàu sụ, đầu óc vẫn tỉnh táo. Anh nói: “Giá cả như thế rõ ràng là rất không bình thường, theo đà nông dân các nơi trồng trên diện tích lớn, dự tính giá cả sẽ trượt rất nhanh, nhưng dù cho có trượt đến bốn năm NDT một kg, một mẫu ruộng tốt xấu cũng có thể thu nhập hàng vạn NDT, vẫn có lãi hơn làm ruộng trước đây”.
Đúng như Ngô Chính Thương dự đoán, nông dân thôn Khám Tập xã Giải Tập huyện Phì Đông biết được quả nhân sâm là của quý, bắt đầu đưa về trồng trên diện tích lớn, năm thứ hai, tình hình quả nhân sâm trên thị trường Hợp Phì không lạc quan, bởi vì số lượng quá lớn, lại là quả tươi, không tiện để lâu; giá cả đành phải “theo thị trường”, vì thế gặp may còn được giá cao, mỗi kg bán được 50 NDT, về sau càng mất giá, mỗi kg bán được 2 NDT. Sau đó toàn quốc phát triển ra 13 tỉnh thành đều tranh nhau trồng quả nhân sâm, giá cả trên thị trường đi đến hỗn loạn, thậm chí có nơi chèn ép lẫn nhau, bán đổ bán tháo với giá thấp.
Quả nhân sâm sau này trượt giá, vượt ra ngoài dự đoán của Ngô Chính Thương. Hy vọng “mỗi mẫu tốt xấu cũng có thể thu nhập hàng vạn NDT” lại không trở thành như dự đoán, anh và một bộ phận nông dân tuy trồng quả nhân sâm tương đối sớm đi lên khá giả, nhưng cùng với kỹ thuật này được phổ biến nhanh chóng, quả nhân sâm cuối cùng trở thành “quả đau lòng” của rất nhiều nông dân.
Quá trình phổ biến kỹ thuật nông nghiệp lại trở thành quá trình nông dân giảm thu. Làm ruộng khoa học không hẳn nhất định sẽ tăng thêm thu nhập của nông dân, nghe ra, có những cái làm cho người ta khó tưởng tượng, nhưng quy luật kinh tế thị trường thực là rất cao sâu thâm thúy như vậy, trong đó đầy rẫy phép biện chứng.
Vì thế, người ta dần dần nhận thức được, điều chỉnh cơ cấu, thu hẹp thích đáng diện tích lương thực, quyết không có nghĩa là trước đây nắm sai lương thực, điều chỉnh cơ cấu cũng quyết không chỉ có nghĩa là điều chỉnh tỷ lệ lương thực (lương) và kinh doanh (cây kinh tế), lý giải là trồng cái gì nhiều hơn hoặc trồng cái gì ít hơn, thậm chí không có nghĩa chỉ là điều chỉnh chất lượng mặt hàng của nông sản phẩm, mà là phải thay đổi tình trạng cơ cấu trước đây xu hướng giống nhau, phát huy ưu thế tương đối của từng khu vực khác nhau.
Năm thứ hai thành phố Hợp Phì thực thi cải cách thuế phí nông thôn rút ra 50 triệu NDT từ trong tài chính thành phố làm “Quỹ hỗ trợ nông dân”, có kế hoạch hướng dẫn nông dân các huyện ngoại thành tiến hành điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp. Lãnh đạo thành phố Hợp Phì tỉnh táo thấy rằng, mình ở vào vị trí trung tâm tập kết phân tán cấp tỉnh; đều có buôn bán, trao đổi hàng hóa và trao đổi thông tin rộng lớn mật thiết, toàn phương vị với thị trường nông sản phẩm phu của các vùng khác trong tỉnh, của thành phố ngoại tỉnh và cả trong, ngoài nước. Xuất phát từ ưu thế vị trí vùng này, thành phố Hợp Phì xây dựng năm cơ sở lớn nông sản phẩm: phát triển cơ sở trồng cây đặc sắc ba vạn mẫu dâu tây, hai vạn mẫu nấm ăn, năm vạn mẫu dưa hấu ngọt trái mùa và mười vạn mẫu cà chua bi, ớt màu, đậu tương non lai; phát triển cơ sở trồng cây dưới nước một vạn mẫu củ ấu, một vạn mẫu cỏ lận, hai vạn mẫu ngó sen, hai vạn mẫu mã thầy; phát triển cơ sở trồng cây màu đen, năm vạn mẫu lạc đen, năm vạn mẫu khoai sọ đen, năm vạn mẫu đậu tương đen; phát triển cơ sở trồng cây ăn quả năm vạn mẫu táo tuyết, táo tím, đào mật và nho chất lượng cao và năm vạn mẫu cơ sở ươm hoa cây cảnh.
Điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp vĩ mô này của thành phố Hợp Phì có thể nói là một tác phẩm lớn.
Ngỗng Ngô Sơn của huyện Trường Phong từng làm lễ vật dâng lên triều đình nhà Thanh, bí quyết pha chế nó truyền từ đời này sang đời khác cho đến ngày nay, lãnh đạo thị trấn Ngô Sơn biết sâu sắc rằng chỉ có biến ưu thế tài nguyên thành thế mạnh làm giàu cho dân, thị trấn Ngô Sơn mới có thể thực hiện chấn hưng, họ tóm chặt lấy “Ngỗng đi cống” và lên một kế hoạch: Trước hết liên hợp với trường đại học An Huy và Công ty thực phẩm phụ thành phố Hợp Phì, xây dựng một trại giống ngỗng, kế đó cùng với công ty hữu hạn Chấn Lam trên tỉnh xây dựng xưởng chế biến ngỗng Ngô Sơn, đồng thời xây dựng một dây chuyền sản xuất ngỗng, các khâu gắn kết với nhau “thị trường - chi nhánh - cơ sở - nông hộ” ở 24 thôn hành chính trong toàn trấn. Vẻn vẹn hơn một năm, số lượng nuôi ngỗng trong toàn huyện đạt 22 vạn con, chế biến 1400 tấn “vịt đi cống Ngô Sơn”, bán khắp 33 thành phố lớn nhỏ trong toàn quốc, còn thành công đi vào thị trường thủ đô. Món ăn ngon nổi tiếng trên bàn của vương hầu khanh tướng ngày xưa, ngày nay trở thành món ăn ngon của dân thường thưởng thức. Thành tích này không nhỏ, nhưng họ không vì thế mà thỏa mãn, năm 2002 lại dùng bí quyết pha chế truyền thống, nghiên cứu làm ra “bồ câu đi cống” và “gà tam hoàng”, đồng thời tung ra “gạo tinh Ngô Sơn”. Bồ câu thịt vừa đưa ra thị trường bán được 22 vạn con, số lượng bán “gà tam hoàng” còn phấn khởi hơn, nhanh chóng vượt lên 1 triệu con; gạo tinh cũng bán được hơn 7.000 tấn. Chỉ riêng thu nhập của ba thứ này không liên quan gì đến “ngỗng đi cống” truyền thống vượt trên 100 triệu NDT.
Huyện Trường Phong, một “huyện nghèo” cấp nhà nước chứ không phải là giàu (trường phong) có trấn Ngô Sơn làm đủ món về “ngỗng”, lại khéo biết chớp thời cơ để phát huy, trấn Ngô Sơn ngày nay nổi lên như ngọn núi (sơn) ở huyện Trường Phong!
Huyện Dĩnh Thượng có xã Bát Lý Hà, tên gọi là tám con sông, kỳ thực không có sông nào, chỉ có một bãi đầm lầy hồ ao hoang vu. Giữ mảnh đất cằn cỗi này, dù chôn cái đầu trong bùn đất cũng không mọc nổi cây hái ra tiền, càng không có ưu thế gì đáng nói. Bí thư đảng ủy xã Trương Gia Vượng xuất thân chân đất, phát hiện những năm gần đây Trung Quốc bắt đầu cơn sốt du lịch, anh nảy ra ý nghĩ lạ lùng, phải xây dựng một công viên nông dân lớn nhất Trung Quốc ở vùng đất đầm lầy hồ ao này, lấy phát triển ngành du lịch thúc đẩy một loạt ngành sản xuất có liên quan ăn uống, vận tải và dịch vụ v.v... phát triển để kiếm tiền của người thành phố. Anh không chỉ dám nghĩ, mà còn dám làm. Anh đích thân chạy lên huyện, thành phố vay tiền, còn tổ chức một đội thi công giỏi tay nghề, trước hết đắp một con đê quanh hồ, trồng cây liễu rủ, xây lên một thôn nghỉ ngơi xinh đẹp, sau đó theo tư liệu tranh ảnh thu thập được, bên cạnh hồ nước xây nên tòa nhà trắng của Mỹ, cối xay gió Hà Lan, khải hoàn môn nước Pháp, nhà thờ nông thôn Đức, miếu thờ thần Dớt Hy Lạp, tất nhiên vẫn có Trường Thành, Bạch tháp ở công viên Bắc Hải và đường hành lang trong Di Hòa viên Trung Quốc.
Có một ngôi làng nghỉ ngơi đầy thú vui hoang dã, còn trang điểm sáng tạo độc đáo phong cảnh các nơi trên thế giới, ngày nghỉ người thành phố đến tham quan đông nghịt.
Có thu nhập du lịch tăng lên từng ngày, Trương Gia Vượng quyết tâm lớn hơn, sau đó anh lại tiếp tục xây một vườn động vật và một bể bơi lớn bên hồ ba vạn mét vuông, lần lượt đặt thêm rất nhiều thiết bị vui chơi giải trí cao cấp đồng bộ như bánh xe chọc trời, tàu hải tặc và cả ghế bay hào hoa v.v... mà nhiều thành phố lớn cũng rất ít được nhìn thấy. Cứ như vậy, theo vật đổi sao dời, “Khu phong cảnh Bát Lý Hà” làm người ta khó tin xuất hiện lộng lẫy bên bờ sông Hoài và vinh dự được mang tên “500 môi trường toàn cầu tốt nhất” cho Liên Hợp Quốc công nhận.
Đầm lầy nước đọng hoang dã ngày xưa, ngày nay đã trở thành “phong thủy bảo địa” giàu nhất một vùng. Nông dân Bát Lý Hà đời đời làm ruộng, nhờ thay “trồng” “phong cảnh điền viên hiện đại hóa” đã bước lên đời sống khá giả.
Huyện Kim Trại khu Biệt Đại Sơn là “huyện tướng quân” có tiếng, lại là huyện nghèo nổi tiếng, hai năm nay họ ra sức phát triển dâu tằm và hạt dẻ, nông dân vùng căn cứ cũ bắt đầu đi lên đường thoát nghèo; nông dân huyện Đương Đồ lợi dụng ruộng lúa, đầm nước nuôi cua, quy mô từng năm mở rộng, dần dần đi đến kết quả; ba huyện Oa Dương, Mông Thành và Lợi Tân nhờ hô hào phát triển sự nghiệp nuôi bò đã trở thành “tam giác vàng nuôi bò” nổi tiếng của nước ta; thành phố Hào Châu, quê hương của thần y Hoa Đà chịu khó kinh doanh cây thuốc, càng nổi tiếng trong và ngoài nước...
Cũng có những người trồng lúa giống trở thành “triệu phú”. Ở thôn hậu Trần xã Hoàng Loan huyện Phụng Dương, chúng tôi đã gặp Trần Hưng Hán được Vương Quang Vũ, cựu Bí thư tỉnh ủy gọi là “Trần triệu phú”. Trần Hưng Hán cho rằng, làm nông dân thì phải biết làm ruộng, không biết làm nông thì sao gọi là nông dân được? Hiện nay anh đã nhận khoán 1.200 mẫu đất canh tác của nông dân lân cận bên bờ sông Hoài của Hoàng Lan, để thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, anh lần lượt mua máy cày, máy gieo hạt, máy gặt đập liên hợp, máy kéo công suất lớn, và cả “xe bốn bánh” và ô tô nông cụ. Anh còn đắp đê làm kè xây dựng trạm bơm nước, bảo đảm hai vụ hè thu hạn úng đều thu hoạch tốt. Năm tốt nhất, anh thu được 625 tấn thóc, 340 tấn lúa mì, được đảng bộ, chính quyền thành phố Từ Châu tặng danh hiệu “Trạng nguyên trồng lương thực”.
“Ai bảo trồng lương thực không thể làm giàu?”
Trần Hưng Hán tự hào chỉ lên tầng hai của nhà anh nói, “Trồng lương thực không chỉ có một mình tôi giàu, bà con phụ lão của cả vùng này cũng đều giàu. Tầng hai này của tôi đã tiếp khách của hai mươi tám nước đến thăm Trung Quốc. Thủ tướng Chu Dung Cơ cũng đã làm khách ở đây!”
Anh quả là rất điển hình. Vì xuất thân nghèo khổ, sáu tuổi bắt đầu đi ăn xin cho đến năm 1949 mới được giải phóng vươn mình. Nhưng từ sau khi giữ chức Chủ nhiệm hợp tác xã cao cấp, hơn 20 năm nay anh bị bốn lần khai trừ ra khỏi đảng: năm 1957, anh bắt đầu khai hoang trồng cải, đúng lúc đang chống phái “hữu”, mặc dù cải trồng ra đều bán cho mọi người ăn, cấp trên lại nói anh “làm chủ nghĩa tư bản”, bị khai trừ ra khỏi đảng; năm 1960, anh hướng dẫn mọi người đan sọt, dệt chiếu để giúp mọi người vượt qua nạn đói, xã lại trị anh “đầu cơ trục lợi”, lại khai trừ đảng vừa mới phục hồi; năm 1973 vì mấy câu “nói xấu” công xã nhân dân “một lớn hai chung”, ngoài khai trừ đảng, còn bị ngồi nhà lao một năm ba tháng; năm 1980, mọi người đều đang thực hiện “khoán lớn”, anh cho rằng lúc này có thể ra tay làm ăn lớn, yên tâm mạnh dạn vận động bốn huyện Huyện Tứ, Tứ Hồng, Ngũ Hà, Phụng Dương xung quanh tổ chức cho dân công bốn huyện hai tỉnh An Huy và Giang Tô đan dệt, không ngờ, một lần nữa xúc phạm chính sách lúc bấy giờ - vì Mác đã nói, thuê quá tám nhân công tức là tư bản - anh ta lại nghiễm nhiên thuê trên 200 nhân công! Xã thấy vấn đề của anh quá nghiêm trọng, lại một lần nữa khai trừ khỏi đảng.
Bà con trong xã nói đùa với Trần Hưng Hán: “Đặng Tiểu Bình không quá ba lần lên ba lần xuống, nhưng anh bốn lần chìm bốn lần nổi!”
Trần Hưng Hán chỉ cười hóm hỉnh. Cuộc đời dù lắm gian truân, nhưng lòng say mê của anh không thay đổi. Khi anh được sửa sai hoàn toàn, phục hồi lại đảng tịch, trở về cương vị Bí thư chi bộ đảng thôn Hậu Trần lần nữa, lại xả thân dắt dẫn mọi người đi lên con đường làm giàu.
Ngày 11 tháng 3 năm 2001, vào một buổi sáng ánh nắng chói chang, chúng tôi vào thôn Hậu Trần. Lúc này anh không chỉ nhận khoán đất canh tác mênh mông, mà còn xây dựng một nhà máy chế biến lương thực, sản lượng mỗi ngày 50 tấn gạo tinh và một xưởng làm gạch mỗi năm sản xuất 1,5 triệu viên gạch. Đồng thời đang lên kế hoạch nuôi 1.000 con bò, 1.000 con dê và 10 vạn con gia cầm.
Bò nhiều, dê nhiều, gia cầm nhiều, làm ruộng không lo thiếu phân; lương thực từ ruộng lúa thu về tự mình có thể chế biến, sản xuất nông nghiệp đi vào tuần hoàn lành tính, vì thế cuộc sống của người làm nông tốt đẹp lên.
Nghe “Trần triệu phú” bốn lần mất đảng tịch kể chuyện của chính anh, chúng tôi như nghe một bộ sử phấn đấu khiến người ta xiết bao cảm động của nông dân Trung Quốc hơn 50 năm qua.
Rõ ràng là, từ trên con người “Trần triệu phú”, anh hùng lao động toàn quốc, chúng tôi đã nhìn thấy chính sách làm giàu cho dân của đảng ngày nay đã đi sâu vào lòng người, lại rất được lòng người tất nhiên, không giấu giếm gì, nông thôn rộng lớn An Huy hiện nay tuy đã tiến hành thí điểm cải cách thuế phí, nhưng vẫn như nông thôn rộng lớn Trung Quốc, nhân tố giảm thu vẫn quá nhiều, còn nhân tố tăng thu quá ít, biện pháp tăng thu trông thấy trước mắt đã thiếu và càng thiếu, kinh tế thị trường vẫn còn rất xa lạ với rất nhiều, rất nhiều nông dân, đồng thời còn có quá nhiều “cạm bẫy”. Những điển hình như Ngô Chính Thương trồng quả nhân sâm, Dư Thành Yến hộ chuyên ươm cây giống và Trần Hưng Hán trạng nguyên sản xuất lương thực vẫn chỉ là số ít; ngay cả những người như Ngô Chính Thương, Dư Thành Yến và Trần Hưng Hán một con số chưa nhiều, đứng trước tình hình thị trường thiên biến vạn hóa cũng không thể là “tướng quân luôn luôn thắng trận”. Hiện nay, một số chính quyền địa phương khá tỉnh táo, đã bắt đầu nhận thức được điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp nông nghiệp là một quá trình diễn biến lâu dài. Nông thôn rộng lớn từ sản lượng cao chuyển sang hiệu quả cao, không những cần có sự ủng hộ của môi trường khách quan và chính sách vĩ mô, mà càng cần có sự phối hợp về mọi phương diện. Phải nói rằng, đứng ở góc độ một huyện một xã, cho đến một thành phố, một tỉnh để nhìn, điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp lần này trong thời gian ngắn có thể tăng thêm thu nhập cho nông dân, nhưng xét trên phạm vi toàn quốc, có lẽ không hẳn là chính sách giải quyết triệt để. Đạo lý ở đây về mặt kinh tế học gọi là “sai lầm tổng hợp”, tức là “lý tính cá nhân dẫn đến phí lý tính tập thể”, có lẽ nói theo lời của nhân dân thì rõ ràng hơn: anh chỉnh, tôi chỉnh, anh ấy chỉnh, chỉnh đi chỉnh lại, sản phẩm của mọi người đều không bán được. Bởi vì dưới gầm trời này, thể chế giống nhau, môi trường sống giống nhau, kinh tế nông thôn giữa các khu vực khác nhau dù cho có khác biệt và ưu thế của riêng mình, nhưng làm thế nào có thể thoát khỏi cảnh ngộ của “xu hướng giống nhau” này. Nói cho cùng, lần điều chỉnh này vẫn dừng lại trên mảnh đất cũ, dừng lại trên con đường làm giàu lấy nông làm gốc. Hơn nữa, giá trị sản xuất đơn vị của sức lao động nông nghiệp bị tài nguyên ruộng đất cực kỳ có hạn hạn chế, và điều có thể khẳng định là theo đà năng suất lao động thành phố không ngừng nâng cao, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn vẫn tiếp tục mở rộng, cơ cấu sản nghiệp nông nghiệp có điều chỉnh như thế nào, sản lượng đơn vị của nó cũng rất có hạn, sự thật cơ bản dân số nông nghiệp chiếm đại đa số trong tổng dân số vẫn không có gì thay đổi, tổng giá trị sản xuất mà nó làm ra chiếm tỷ lệ trong nền kinh tế quốc dân trên tổng thể vẫn ngày càng thấp, trong tình hình đó, mong muốn nông dân giàu có, sung túc nhờ điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp hoàn toàn là điều không thể được. Huống hồ, do khống chế chính sách có tính cưỡng chế của nhà nước, tước đoạt có tính thị trường và hạn chế mang tính kỹ thuật, nông nghiệp của chúng ta đã không phải là một loại sản nghiệp. Kinh tế nông nghiệp hiện nay chẳng qua là thể hiện một bố cục “hàng tăng tiền giảm” (nông sản phẩm đang tăng lên nhưng nông nghiệp, lại giảm bớt thu nhập có tính tổng thể).
Vì vậy, nếu nói điều chỉnh cơ cấu, cái cần điều chỉnh không phải là cơ cấu của nội bộ nông nghiệp, nó còn nên bao gồm xây dựng thành phố thị trấn, giáo dục bắt buộc, xí nghiệp hương, trấn, sản nghiệp phi nông nghiệp, cơ cấu lực lượng lao động, nguồn vốn, tiền tệ và phương thức kinh doanh v.v... đặc biệt là, cần giải quyết về căn bản cục diện bất công thành thị và nông thôn ngăn cách, đối lập, chia rẽ lâu nay. Trung Quốc cần tiến hành một cuộc cách mạng chế độ, giải phóng nông dân, di chuyển nông dân, giảm bớt nông dân, để cho càng nhiều nông dân Trung Quốc nhìn thấy được hy vọng vào thành phố, và cuối cùng để cho họ từ giã làng quê bưng bít ăn đời ở kiếp của họ, để họ hòa vào trong dòng lũ đô thị hóa.
Con đường phía trước còn rất dài, rất dài.
55. Đằng sau sự huy hoàng và giàu có An Huy là một tỉnh lớn nông nghiệp, cũng là tỉnh lớn tài nguyên lực lượng lao động. Năm 2000, Trung ương bố trí tỉnh An Huy bắt đầu thí điểm cải cách thuế phí nông thôn, lực lượng lao động dư thừa trong nông thôn toàn tỉnh trên 10 triệu người, chiếm 40% tổng số lực lượng lao động nông thôn. Có thể khẳng định cùng với việc mở rộng mức độ điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp nông thôn, tỷ lệ này sẽ mở rộng thêm.
Làm thế nào để khai thác tài nguyên lực lượng lao động nông thôn, xúc tiến chuyển dịch lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn, không chỉ có ý nghĩa xứng đáng trong vấn đề giảm nhẹ đóng góp của nông dân, mà càng là vấn đề lớn có tính chiến lược thực hiện hiện đại hóa nông nghiệp, liên quan đến hiện đại hóa Trung Quốc. Bởi vì, tiến trình hiện đại hóa của Trung Quốc không thể vứt bỏ nông dân; không có hiện đại hóa của nông dân thì không có hiện đại hóa của Trung Quốc.
Làm ruộng đã xuất hiện thua lỗ có tính kinh doanh, đóng góp của nông dân lại làm cho hiệu quả làm nông xuống thấp thêm, mô thức làm ruộng manh mún của một nông hộ đang mất đi sức hấp dẫn đối với nông dân; khoảng cách quá lớn giữa thành thị và nông thôn càng làm cho rất nhiều nông dân coi mảnh đất sinh sống bao đời của họ là một “gánh nặng”, vì thế một đại quân nông dân số lượng kinh người, rầm rập bỏ cửa bỏ nhà, phá vỡ các bức tường đồng vách sắt do con người dựng nên, đổ vào thành phố.
Đi vào thành phố, nhưng tuyệt đại đa số người trong họ lại chỉ có thể sống gửi dưới mái che của thành phố. “Bảo hiểm thu nhập thấp”, “bảo hiểm y tế”, trợ cấp nhà ở của thành phố và mạng lưới ấm áp tình người của các loại phúc lợi xã hội vẫn để họ đứng ngoài.
Chế độ hộ khẩu không thể vượt được, đã định trước họ chỉ có thể trở thành “con chim di cư” của thành phố.
Một thống kê của Cục Thống kê nhà nước cho thấy, nhân khẩu lưu động ở ngoài tỉnh của Trung Quốc đã lên đến trên 120 triệu người. Trong số nhân khẩu lưu động ngoại tỉnh này, nhân khẩu lưu động của sáu tỉnh An Huy, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Giang Tây, Hà Nam, Hồ Bắc chiếm 59,3% nhân khẩu lưu động ngoại tỉnh toàn quốc, chiếm quá nửa tổng số. Nhân khẩu lưu động của An Huy đứng thứ hai toàn quốc.
An Huy hiện có hơn 27 triệu lực lượng lao động nông thôn, trong đó có hơn 7 triệu đi tìm việc làm ở ngoại tỉnh. Trong số hơn 7 triệu dân công này, chỉ riêng Thượng Hải có đến hơn 1 triệu 25 vạn người, chiếm 1/3 số dân công ở bên ngoài đến Thượng Hải. Và đấy chỉ là con số thống kê của nhà nước, trên thực tế, có một bộ phận rất lớn dân công An Huy đã đứng chắc chân ở Thượng Hải, lại còn mang vợ con về Thượng Hải, trên thực tế dân công An Huy ở Thượng Hải đã vượt xa 2 triệu người.
Trong đô thị lớn này ở phía Đông Trung Quốc chỉ cần nơi nào có thể dung nạp dân công, thì nhất định có thể tìm thấy bóng dáng của “quân An Huy”.
Giáo sư Ngô Diêu Uy ở trường đảng quận Mân Hành thành phố Thượng Hải nói, mấy năm sau này, các quận có tốc độ phát triển nhanh nhất của Thượng Hải là quận Mân Hành, quận Bảo Sơn, quận Gia Định và quận Phố Đông về sau, ở mấy quận này, dân công An Huy cũng nhiều nhất, chiếm 47,4% tổng số dân công An Huy ở Thượng Hải.
Có thể nói thế này: việc ăn, mặc, ở, đi lại của người Thượng Hải gắn liền với dân công An Huy. Từ ngành xây dựng, ngành dệt may, ngành ô tô đến ngành trồng trọt chăn nuôi, ngành nghề nào cũng có dân công An Huy làm việc rất xuất sắc, nhiều người đã trở thành nhân tài nổi bật hoặc tiêu binh tiên tiến trong các ngành.
Dân công huyện Tùng Dương Cao Ngọc Mỹ trở thành thợ giỏi kỹ thuật đứng máy ở xưởng dệt bông Đông Hải - Thượng Hải, được bầu là người xung kích của cuộc trường chinh mới thành phố Thượng Hải; Ngô Luân Trung, dân công thành phố Lục An lập một phòng trang trí mỹ thuật ở Thượng Hải, tài sản hàng chục triệu, qui mô của nó được liệt vào mười cái đứng đầu ở Thượng Hải; Ngưu Truyền Vân, dân công huyện Hoắc Khưu, chuyên tâm nghiên cứu máy tính, chuyên làm tư vấn và chẩn đoán vận hành của máy tính cho các công ty lớn, đã sớm trở thành “bác sĩ máy tính”có tiếng ở bãi sân Thượng Hải…
Không khâm phục sao được. Một số phế liệu trong con mắt của người Thượng Hải vào tay dân công An Huy lại trở thành “của quý”; có những việc người Thượng Hải không thèm để ý, dân công An Huy một khi vào việc thì làm nên thành tích đẹp đẽ. Giang Quang Năng, dân công huyện Lư Giang lập công ty hữu hạn thực nghiệp Khang Bảo Liên ở Thượng Hải, lợi dụng xỉ than nhà máy thải ra sửa đường, phát triển đến bốn xí nghiệp, có tài sản hàng chục triệu NDT; hơn 500 công nhân viên chức thiện chiến ở các bộ phận then chốt đóng tàu quân sự của tập đoàn đóng tàu Giang Nam đều là người huyện Vô Vy tỉnh An Huy, họ vừa chịu khó, vừa chịu đi sâu nghiên cứu, Trần Kim Hải, Chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn này khen ngợi nói, kỹ năng của những dân công An Huy này nắm được đã vượt xa cán bộ nhân viên chính thức trong tập đoàn của thành phố Thượng Hải.
Trong số dân công An Huy làm thuê ở Thượng Hải đã có một bộ phận đổi đời, bước lên tầng lớp quản lý xí nghiệp, tạo ra cục diện dân công quản lý công nhân viên chức chính thức. Đường Khởi Trác, dân công thị trấn Lạc Kiều huyện Lư Giang được công ty hữu hạn quần áo thời trang Gaushenda Trung-Mỹ hợp doanh ở Thượng Hải ngắm chọn để lãnh đạo hàng ngàn nhân viên, trong một thời gian ngắn đã làm ra được hơn 5 triệu đô la Mỹ cho công ty, trở thành người nổi trội trong tộc người làm thuê.
Khi người Ôn Châu tiến quân vào bãi sông Thượng Hải với số vốn hùng hậu thì dân công An Huy cũng chẳng chịu thua, họ đi vào Thượng Hải bằng lao động cần cù, trí tuệ và vốn liếng ít ỏi, gian khổ lập nghiệp ở một đô thị lớn cạnh tranh quyết liệt này. Họ xây dựng cơ đồ bắt đầu từ mở quán cơm bụi, cắt tóc, sửa chữa, thậm chí dựa vào sức lực chân tay đi khuân vác, xây dựng hoặc đi khắp ngõ ngách phố phường thu mua phế liệu, từng bước, từng bước tích lũy vốn liếng ban đầu, từ kiếm từng đồng xu phát triển lên khai thác “vàng”. Hiện nay, theo thống kê chưa đầy đủ, ở đại Thượng Hải ngày nay, ít nhất có bốn, năm mươi xí nghiệp có tài sản hàng chục triệu do dân công An Huy xây dựng nên.
Thời kỳ đầu cải cách mở cửa, các cô gái nhà quê của huyện Vô Vy bỏ quan niệm truyền thống “khó bỏ quê hương”, không ngại đường xa nghìn dặm, đi vào kinh đô làm bảo mẫu, trở thành “lính đứng hàng đầu” của nông dân Trung Quốc đi vào thành phố làm thuê. Ngày nay, thị trấn Phùng Tĩnh huyện Hoắc Khưu - An Huy nằm ở vùng ngập lũ sông Hoài, “cái rốn thiên tai lâu đời” nổi tiếng trong mấy năm, lại nổi lên một nghìn một trăm “chân đất”, xông thẳng đến Trung Quan thôn - Bắc Kinh. Từ chỗ không biết mấy chữ tây đến có thể lắp ráp một máy vi tính tính năng cao với những linh kiện phức tạp, từ chỗ là người đứng bán hàng đến làm đại lý cao cấp, từ chỗ là người dưới đáy của giá trị sản phẩm kỹ thuật cao các cô đã bộc lộ toàn bộ tài năng, chiếm trên 60% số kinh doanh thị trường bản vi mạch CPU “Santa Clara Trung Quốc”, sáng tạo ra một “đồng thoại mùa xuân” của thế kỷ mới cho dân công Trung Quốc.
Đội ngũ xây dựng của dân công ba huyện thuộc thành phố Hợp Phì không chỉ có một vạn tám nghìn người đứng chắc chân ở thủ đô Bắc Kinh, có 12 đơn vị đã đăng ký, đội ngũ xây dựng của dân công vùng Hợp Phì tổ chức đã rải khắp 22 tỉnh thành khu tự trị trong toàn quốc, đồng thời còn kéo dài ra thị trường hải ngoại của 14 nước và khu vực, lập nên thành tích đáng tự hào.
Được biết, ở một nơi không lớn gọi là Hậu Nhai, thành phố Đông Uyển tỉnh Quảng Đông, nông dân huyện Phụ Nam - An Huy làm thuê ở đây đến cơ quan công an đăng ký chính thức có 11.481 người, nếu cộng với số chưa làm thủ tục thì con số tương đối chính xác, dân công Phụ Nam quê ở trấn Hậu Nhai, phải là hơn 5 vạn người.
Hơn 5 vạn người ở một thị trấn nhỏ miền Nam, dù thế nào chăng nữa cũng không thể nói là một con số nhỏ.
Dân công An Huy bốn biển là nhà, cứ như thế, hoặc bằng lao động cực nhọc, hoặc bằng tài mọn kiếm sống, hoặc bằng trí lực làm thuê, ở nơi đất lạ quê người xa cách người thân, mỗi người một cách khác nhau đang thêu dệt nên ước mơ của họ.
Hơn 7 triệu nông dân An Huy làm thuê ở ngoại tỉnh, GDP họ sáng tạo ra ở ngoại tỉnh, nếu tính theo mỗi người một năm 5 vạn NDT, tổng giá trị sẽ là 300 tỷ NDT, thì hầu như tương đương với tổng giá trị GDP một năm của tỉnh An Huy, có nghĩa là, dân công An Huy làm thuê ở bên ngoài mỗi năm đều sáng tạo ra một “An Huy lưu động” ở bên ngoài An Huy; và thu nhập có tính chất tiền lương của họ làm thuê thu được mỗi năm gửi tiền về quê ít nhất cũng khoảng 30 tỷ NDT, rõ ràng là cao hơn thu nhập tài chính địa phương An Huy, cũng có nghĩa là, những nông dân An Huy làm thuê ở ngoại tỉnh này, đồng thời với sáng tạo ra một “An Huy lưu động” ở bên ngoài, mỗi năm còn sáng tạo ra một “An Huy trở về”!
Nhân khẩu nông nghiệp lưu động không chỉ thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế xã hội phát triển của nơi đến, đồng thời cũng thúc đẩy cả nơi đi, đó là sự thật chắc chắn không thể nghi ngờ. Do trình độ văn hóa của những người ra đi tương đối cao, trải qua nhiều năm rèn luyện được mở rộng tầm mắt, càng tăng thêm tài năng, họ đổ về thành phố lớn, bị thành phố lớn làm thay đổi, đồng thời họ cũng thay đổi thành phố lớn, thay đổi quê hương.
Lấy khu Phụ Dương tỉnh An Huy, nơi làm thuế phí nông thôn tương đối tốt, lực lượng lao động ở ngoại tỉnh lại tương đối nhiều, làm ví dụ, hiện nay đã có hơn 700 xí nghiệp của những người sau khi ra ngoài lao động trở về xây dựng. Trong đó 69 xí nghiệp điều tra được đã thu hút lực lượng lao động 17.500 người, tổng số tài sản lên 137 triệu; nộp thuế 58,39 triệu NDT.
Ở nông thôn xa xôi hẻo lánh mà chúng tôi đến, thường thường là giữa một dãy nhà tranh vách đất tồi tàn, thấy có mấy ngôi nhà lầu nổi bật lên sáng sủa. Những ngôi nhà đó, chẳng cần phải hỏi, chủ nhân của nó không phải là cán bộ xã thôn được hưởng đặc quyền, mà là những người có người nhà đi làm thuê ở ngoài.
An Huy muốn thực hiện nhảy vọt từ tỉnh lớn nông nghiệp sang tỉnh mạnh nông nghiệp, không thể không coi trọng và sử dụng tốt đại quân dân công đi vào thành phố. Trên thực tế, tỉnh An Huy khởi động chuyển dịch lực lượng lao động dư thừa nông thôn tương đối sớm, theo đà cải cách thuế phí không ngừng đi sâu, đảng bộ và chính quyền tỉnh liên tiếp đưa ra nhiều văn kiện liên quan, cố gắng biểu dương “ngôi sao nông dân lập nghiệp” “đi bốn phương”. Nông hội tỉnh, Sở bảo hiểm lao động tỉnh, Sở dân chính tỉnh, Sở công an tỉnh, Sở giao thông tỉnh và Sở xây dựng tỉnh cũng đã đều lần lượt làm rất nhiều việc về vấn đề này. Bí thư Tỉnh ủy Vương Thái Hoa nhiều lần nhấn mạnh nêu rõ:
“Năm đến mười năm từ nay về sau, đảng ủy chính quyền các cấp đều phải coi việc xuất lực lượng lao động là sản nghiệp quan trọng, nắm cho tốt việc đào tạo, hướng dẫn, dịch vụ và quản lý, để thúc đẩy lực lượng lao động nông thôn lưu động có trật tự, nỗ lực mở rộng con đường tăng thêm thu nhập cho nông dân”. Đồng thời lần lượt xây dựng một loạt chính sách mới đối với nông dân trong tỉnh An Huy ra thành phố làm thuê; tùy theo khả năng cho phép bãi bỏ các hạn chế bất hợp lý hiện tồn tại, thậm chí để họ có thể được hưởng các đãi ngộ kể cả tham gia bảo hiểm.
Nhưng, trong khi điều tra, chúng tôi cũng chú ý đến việc xuất lực lượng lao động tuy có giải quyết được sức ép việc làm ở nông thôn An Huy ở mức độ nhất định, làm sống động kinh tế nông thôn An Huy, có tác dụng nhất định đối với phát triển kinh tế của An Huy, nhưng chúng tôi cũng không thể một mực thổi phồng vai trò của kinh tế dịch vụ lao động, bởi vì một số tỉnh lớn xuất khẩu lực lượng lao động kể cả An Huy, đã bộc lộ rõ tác dụng phụ của việc xuất lực lượng lao động nông thôn của mình. Cùng với số lớn lực lượng lao động có tố chất khá cao chuyển đi nơi khác, tiềm lực dự trữ cho phát triển nông thôn thiếu hụt rõ rệt, dây chuyền sản nghiệp nông nghiệp đang co lại, hệ thống sản nghiệp phát triển kinh tế khó hình thành; còn do phần lớn tài nguyên sức lao động chuyển sang các tỉnh kinh tế phát triển, từ đó mở rộng khoảng cách giữa tỉnh mình với các tỉnh phát triển, khoảng cách đó, ngược lại đã làm nhụt ý muốn của thương gia nước ngoài đầu tư vào những tỉnh này, dẫn đến của sự phát triển kinh tế của những tỉnh và vùng lạc hậu này lâm vào cảnh tuần hoàn ác tính.
Đặc biệt là, do sự bất chấp về mặt thể chế, rất nhiều vấn đề trong chuyển dịch lực lượng lao động dư thừa nông thôn, không phải những tỉnh và vùng đó có thể giải quyết được. Một sự thật gay gắt tương tự không thể lẩn tránh là tuyệt đại đa số: những nông dân ra ngoài tỉnh được gọi là “dân công” này đến nay vẫn không thể được đãi ngộ thật sự công bằng và có thân phận tôn nghiêm từ thành phố.
Trọng điểm chính sách quản lý dân công của chính quyền các nơi hầu như đều chỉ xem xét làm thế nào để quản lý chặt, quản lý nghiêm dân công; điểm xuất phát và điểm tới đích của quản lý cũng chỉ là đề phòng nhân khẩu lưu động phạm tội, bảo đảm chắc chắn cho ổn định và an ninh của thành phố. Nhiều địa phương thậm chí coi thợ nông dân là “nhân khẩu lưu động phạm tội” đối tượng đề phòng và tấn công, coi là đối tượng chỉnh đốn xử lý tổng hợp của trật tự trị an xã hội, và giao trách nhiệm cho cơ quan công an.
Chính quyền của chúng ta đang tự giác hay không tự giác phạm vào nhận thức và cách làm sai lầm “coi thường thợ nông dân”: khuynh hướng quản lý có tính kỳ thị đó đã hạn chế và cản trở nghiêm trọng đến tiến trình hiện đại hóa Trung Quốc.
Đầu những năm 60 thế kỷ trước, khi các học giả các nước Âu Mỹ kéo nhau đến Hakone - Nhật Bản để thảo luận một cách hệ thống và nghiêm túc vấn đề về hiện đại hóa, thì Trung Quốc lại đang khốn đốn trong cơn đói kém mất mùa do thiên tai nhân họa gây ra, tiếp đó lại nổ ra cuộc “đại cách mạng văn hóa” tai họa khủng khiếp kéo dài 10 năm. Cho nên khi chúng ta bắt đầu tiến hành cải cách để thực hiện hiện đại hóa, thậm chí còn chưa rõ, Trung Quốc muốn hiện đại hóa, nhất là thực hiện hiện đại hóa nông nghiệp thì trước hết cần phải giảm bớt một lượng lớn dân số nông nghiệp, chuyển dịch lực lượng lao động dư thừa nông thôn ra thành phố ắt phải trở thành trào lưu lịch sử không thể đảo ngược của Trung Quốc ngày nay.
Nước Mỹ kinh tế phát triển nhất trên thế giới, nhân khẩu nông nghiệp chỉ chiếm 7% tổng số dân cả nước; Nhật Bản sau thời kỳ Minh Trị Duy Tân, kinh tế phát triển nhanh nhất trong lịch sử, đó cũng chính là lúc nhân khẩu nông nghiệp của Nhật Bản từ 85% của tổng dân số giảm xuống còn 15%; tỉnh Đài Loan của nước ta cũng không ngoại lệ, phát triển tốc độ cao của Đài Loan là vào thời kỳ nhân khẩu nông nghiệp chiếm 85% của tổng dân số giảm xuống còn 15%.
Trung Quốc hiện nay có 1.300 triệu nhân khẩu, nhân khẩu nông nghiệp chiếm 900 triệu, trong đó số người đến tuổi lao động chiếm hơn 500 triệu, xí nghiệp hương trấn chỉ giải quyết được mấy chục triệu, sản xuất nông nghiệp cũng chỉ cần hơn 100 triệu, còn ba, bốn trăm triệu lực lượng lao động dư thừa chờ di chuyển.
Vì vậy có thể nói, chỉ có hàng loạt nông dân ra khỏi mảnh đất của mình, trở thành dân thành phố, hiện đại hóa của Trung Quốc mới có hy vọng.
Thế nhưng, thành thị Trung Quốc ngày nay, đối với hàng chục triệu nông dân làm thuê mà nói, vẫn không phải là chốn nghỉ chân yêu thương. Tuyệt đại đa số trong họ được hưởng chỉ là cuộc sống trôi nổi và mất mát tình cảm. Họ không thể thực sự làm được việc “ngang hàng với người thành thị”. Một số người lợi dụng chức quyền của nhà nước trao cho, bắt nạt, hạch sách, nhũng nhiễu họ, điều làm họ đau lòng nhất là vẫn giăng đầy cạm bẫy trước và sau lưng họ: làm thêm ca liên tục mà không được lĩnh tiền làm thêm; lao động tổn hại sức khỏe và nguy hiểm đến tính mạng cũng không có phương tiện bảo hộ lao động tối thiểu; rất nhiều người bị mắc lừa, làm công không lấy được tiền lương; có người vì lao động bị thương, mắc bệnh đến tàn phế thì một đạp ra khỏi cửa là xong; và đau lòng hơn là có nhiều người rơi vào cảnh ăn xin, gái điếm, hút xách, phạm tội ác.
Lý Cường, một chuyên gia nghiên cứu xã hội học và một số người khác qua điều tra phát hiện, chỉ riêng năm 2002, dân công tỉnh ngoài đến làm thuê ở Bắc Kinh, cứ khoảng trong bốn nông dân thì có một người không lấy được tiền lương, hoặc bị nợ lương dây dưa; do nhiều nguyên nhân, có 36,3% thợ nông dân có hiện tượng không một xu dính túi; có 60% dân công mỗi ngày lao động trên 10 giờ, 1/3 trên 12 giờ, 16% trên 14 giờ, 46% người mắc bệnh, mà 93% đơn vị người thuê không chi một xu tiền thuốc.
Những việc này lại đều xảy ra ở Bắc Kinh, thủ đô của Trung Quốc.
Vô số dân công ở ngoại tỉnh đến, bằng mồ hôi, nước mắt và tâm sức của họ đã làm nên sự huy hoàng và giàu có của biết bao thành thị, nhưng một số người thành thị chúng ta lại để cho thợ nông dân các nơi hiểu được thế nào là “làm giàu bất nhân”. Cùng dưới một bầu trời xanh, nhưng những bình đẳng, hỗ trợ, hữu ái, tôn trọng và khiêm nhường cần có giữa người với người đã bị đập nát tan tành và phũ phàng như thế đó, thậm chí không để lại cho họ ít nhiều tình thương xót.
Thì ra, cơ cấu xã hội nhị nguyên lấy chế độ hộ tịch làm tiêu chí đã gây ra một cách nhân tạo sự bất bình đẳng thân phận cư dân thành thị và nông thôn, sự bất bình đẳng cơ hội phát triển, khoảng cách thu nhập bị kéo rộng ra, lưu động giữa thành thị và nông thôn bị tắc nghẽn, chủ nghĩa trung tâm thành thị thấm sâu vào trong tiềm thức của hàng chục triệu dân thành thị, và một số hành vi bất chính của chính quyền thành phố lại tăng cường hơn nữa quan niệm truyền thống thâm căn cố đế đó của dân thành thị, vì thế nông dân vào thành phố được liệt vào tầng lớp “tiện dân” một cách có tính chế độ.
Môi trường sinh tồn tồi tệ của dân công và sự đối xử phi nhân tính mà họ chịu đựng, những năm gần đây thường xuất hiện trên báo, nhưng những câu chuyện không trở thành thời sự đã lâu đó, đã làm cho người ta bắt đầu trở nên thờ ơ, tê liệt.
Chúng ta đã bước vào thế kỷ 21, đang tắm ánh nắng mặt trời tươi rói của thế kỷ mới, nhưng một số tin tức như thế này làm cho chúng ta mệt mỏi kinh ngạc: thu nhập ròng bình quân đầu người của nông dân tiếp tục giảm xuống, hiện tượng thu nhập quốc dân buồn vui không đều càng ngày càng rõ rệt. Phó Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu phát triển của Quốc Vụ viện Lỗ Chí Cường nêu lên một cách thống thiết, Trung Quốc đã bước vào nước thu nhập của cư dân rất không bình đẳng; công chúng đã tỏ ra bất mãn đối với hiện trạng phân phối thu nhập, trên 70% người cho rằng “giàu nghèo chênh lệch” đã ảnh hưởng đến ổn định của xã hội.
Trung Quốc ngày nay, hễ người có năng lực hầu như không muốn ở nông thôn. Người có đầu óc linh hoạt thông qua thi cử đi vào thành phố, người biết cửa chạy chọt cũng đều thông qua tuyển công nhân, nhờ vả người thân hoặc làm thuê đổ về thành phố. Những năm 80 thế kỷ trước, vì sao xí nghiệp hương trấn phát triển rầm rộ? Chủ yếu là nông thôn lúc đó tích lũy được một số nhân tài. Nhưng sau đó nhân tài nông thôn không ngừng bỏ đi nơi khác, tài nguyên nhân lực của xí nghiệp hương trấn khó tiếp tục duy trì, tinh thần sáng tạo và tài nguyên lập nghiệp thiếu thốn và khô cạn, rõ ràng là nguyên nhân quan trọng làm cho tiềm lực của xí nghiệp hương trấn mấy năm gần đây yếu đi.
Cách biệt giữa thành thị và nông thôn làm cho tài nguyên của cải của đất nước tập trung cao độ ở thành phố, tài nguyên của cải không chỉ bao gồm tài nguyên nhân lực mà cả tài nguyên vật chất cụ thể. Vì vậy, cùng ra đi với nhân tài, không chỉ là nhân tài ưu tú trong nông thôn, mà còn có cả rất nhiều vốn liếng tiền bạc. Theo con số chúng tôi nắm được, 10 năm từ 1985 đến 1994, tiền vốn của nông thôn chảy ra ngoài cả thảy đến 305,7 tỷ NDT, bình quân mỗi năm hơn 30 tỷ.
Có tin cho biết, Bộ Công an từ năm 1985 bắt đầu khởi thảo “Luật hộ tịch” để mong lấp bằng hoàn toàn cái hố bất bình đẳng ngăn cách giữa thành thị và nông thôn này. Nhưng, cuộc chiến tranh chống Nhật vô cùng gian khổ chỉ có 8 năm; chiến tranh giải phóng đánh sập vương triều họ Tưởng cũng chỉ có 3 năm; bây giờ thời gian 18 năm dằng dặc, gấp đôi chiến tranh chống Nhật, gấp 6 lần chiến tranh giải phóng đã trôi qua, “Luật hộ tịch” mà nông dân Trung Quốc trông chờ mỏi mắt đến nay vẫn chưa thấy ra đời. Nguyên nhân chủ yếu là trở lực quá lớn của các ban ngành chính phủ xóa bỏ cơ cấu nhị nguyên hộ khẩu nông nghiệp và hộ khẩu phi nông nghiệp hầu như bị các ban ngành chính phủ, nhất trí phản đối.
Xem ra, không thể hiểu nổi, thực ra nói cho cùng là không ít các ban ngành chính phủ bo bo bám giữ nhiều lợi ích và đặc quyền truyền thống của ngành đã đạt được trong thời đại kinh tế kế hoạch, thà khư khư ôm giữ cái cũ, không chịu làm gì.
Điều làm người ta lo lắng là, cùng với sức ép công nhân viên chức thành phố bị rời khỏi cương vị tìm lại việc làm tăng lên; thành phố các nơi áp dụng rộng rãi biện pháp “thay lồng đổi chim”, hoặc từ chối thợ nông dân, hoặc sử dụng có thời hạn dân công ngoại tỉnh, thậm chí mở rộng phạm vi ngành nghề và nghề nghiệp hạn chế sử dụng những người nơi khác đến, làm cho dân công đi ra ngoài không tìm được việc làm phải trở về quê mỗi năm một tăng. Đó là một đám người thất nghiệp nông nghiệp khổng lồ không nằm trong con số thống kê của chúng tôi hôm nay, số người của đám người này vượt xa số người thất nghiệp ở thành phố và cán bộ nhân viên bị rời khỏi cương vị!
Chỉ cần bảo hiểm xã hội của nông nghiệp một ngày không được giải quyết, không có một chế độ mới để sắp xếp giải quyết sinh lão bệnh tử của nông dân vẫn ở lại nông thôn, thì nông dân chỉ có thể sống dựa vào mảnh đất rất có hạn của mình. Mặc dầu sống dựa đó rất bị động, nhưng không có cách nào khác. Vì vậy, chúng ta có thể nói, nếu nông nghiệp của Trung Quốc ngày nay vẫn là nguồn thu nhập chủ yếu của đa số nông dân, thì khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các khu vực tất nhiên sẽ được mở rộng thêm; nếu sản phẩm của thành phố không thể nào tiêu thụ ở thị trường nông thôn, thì hàng hóa của chúng ta thừa mứa toàn diện và khan hiếm đồng tiền sẽ không mời cũng đến; nếu nông thôn lâu dài bị gạt ra ngoài tiến trình hiện đại hóa, thì nông dân thế hệ trẻ rất có khả năng trở thành nguồn mất ổn định của xã hội sôi động, từ đó làm tăng thêm nguy hiểm đứt gãy giữa thành thị và nông thôn, từ đó dẫn đến xung đột và chấn động, khẳng địn là sẽ là điều tai họa!
56. Nỗi lo của thôn Tiểu Cương Mùa thu vàng năm 2002, cải cách thuế phí nông thôn An Huy bước vào năm thứ 3. Quyết tâm của đảng bộ và chính quyền tỉnh An Huy nhằm “giảm nhẹ đóng góp” có thể nói là rất lớn, nỗ lực bỏ ra có thể nói là khuyên bảo hết lời, nhưng “ba bừa bãi” trong nông thôn bỗng nhiêu lại nổi lên và có thế “lửa rừng chưa cháy trụi, gió xuân lại tràn về”.
Việc phục hồi đóng góp của nông dân có khí thế mạnh mẽ, làm nhiều người không lường tới được.
Theo “Báo Buổi chiều Tân An” để lộ: chỉ trong vòng 13 ngày ngắn ngủi từ 20 tháng 8 năm 2002 đến 1 tháng 9 năm 2002, phụ huynh học sinh gửi thư tố cáo thu phí bừa bãi giáo bừa bãi dục có đến hơn 369 lá thư, hầu như khắp cả An Huy. Trong đó, huyện Lâm Tuyền 53 lá, huyện Phụ Nam 36 lá, huyện Cố Trấn 30 lá, huyện Thái Hòa 14 lá, huyện Tứ 21 lá, huyện Định Viễn 46 lá, huyện Vọng Giang 16 lá, huyện Thái Hồ 16 lá, huyện Thiên Trường 15 lá, khu Quý Trì thành phố Trì Châu 19 lá…
Thực ra sự nghiêm trọng của vấn đề không chỉ từ mặt giáo dục mà một số người qua Cục Vật giá tỉnh An Huy biết được do việc những đám đông tố giác, báo cáo, những địa phương tố cáo, và cũng không chỉ từ tháng 8, tháng 9 năm này, kể từ khi thực hiện cải cách thuế phí đến nay, công tác “giảm nhẹ đóng góp” luôn luôn ở trạng thái “cao áp”, thế mà những vấn đề liên quan đến thu phí của nông dân vẫn luôn là vấn đề đột xuất quấy rối bị phát triển kinh tế nông thôn và ổn định xã hội.
Phòng kiểm tra giá cả tỉnh An Huy vì thế mở một cuộc đại kiểm tra các khoản thu phí liên quan đến nông dân, trong kiểm tra phát hiện có những địa phương thu phí ít thì mười mấy khoản, mấy chục khoản, nhiều thì trên trăm khoản; thu phí liên quan đến các ngành giáo dục, ruộng đất, tư pháp, dân chính, cung cấp điện, tài chính, thuế vụ, công thương, y tế, công an v.v…, nội dung thu phí cũng liên quan đến đi học, xây nhà, kết hôn, sinh lão bệnh tử, bán nông sản phẩm phụ v.v…
Có thể nói đây là lần “chết đi sống lại” toàn diện.
Theo quy định trong “Thư gửi các bạn nông dân toàn tỉnh” của chính quyền tỉnh lúc đầu thí điểm, nông dân xây nhà ngoài ngành quản lý ruộng đất thu 5 NDT thủ tục phí chứng từ ruộng đất ra, không được thu bất cứ phí nào khác, nhưng có những nơi trong quá trình làm thủ tục phê duyệt xây nhà, phải nộp nhiều khoản phí, tiêu chuẩn cao, làm cho nông dân không thể nào chịu đựng nổi, không những thu phí thủ tục làm chứng từ ruộng đất, mà còn phải thu một loạt thuế phí, phí quản lý trưng dụng đất, phí sử dụng có bồi thường đất đai, phí thay đổi quyền sử dụng, phí tạo đất, phí khai khẩn, tiền được lợi, thuế chiếm dụng đất canh tác, thuế doanh nghiệp xây dựng v.v… Nông dân được phê chuẩn xây một ngôi nhà trên đất mình nhận khoán, các loại chi phí cần 1.000 đến 3.000 NDT, có nơi đến 5.000 NDT!
Ngoài ra có nông dân đi ra ngoài tỉnh làm thuê cần làm chứng minh thư, phải nộp phí chứng minh hộ tịch hoặc phí thẻ chứng minh thư. Khi kết hôn nông dân còn phải bắt buộc nộp nhiều khoản phí dịch vụ chi trả thù lao như phí tư vấn v.v…, rõ ràng là cải tạo mạng lưới điện nông thôn do nhà nước đầu tư, thế mà nông dân không những phải bỏ công lao động nghĩa vụ, tiền chi lặt vặt, thậm chí phải nộp cả tiền ăn uống cho những người thi công.
Bí thư Tỉnh ủy Vương Thái Hòa lại một lần nữa đập bàn đứng dậy.
Để củng cố thành quả của cải cách thuế phí nông thôn, thiết thực giảm nhẹ đóng góp của nông dân, đảng bộ, chính quyền tỉnh An Huy chỉ thị các ngành hữu quan tiến hành kiểm tra xử lý nghiêm và sửa chữa đối với các vụ án thu phí bừa bãi trung tiểu học, thu phí nông thôn bừa bãi xây nhà bừa bãi, được quần chúng phản ánh gay gắt, kiên quyết chấm dứt và đề phòng có hiệu quả việc đóng góp của nông dân quay trở lại.
Phòng vật giá huyện Tiềm Sơn bắt tay với Phòng giáo dục huyện vượt quyền hạn, vi phạm quy định ra công văn thu phí hành chính sự nghiệp, tự tiện thay đổi tiêu chuẩn và phạm vi thu phí trung tiểu học, trưởng phòng vật giá huyện bị cách chức và kỷ luật hạ cấp hành chính, chủ nhiệm phòng giáo dục huyện và phó phòng nghiệp vụ phòng vật giá huyện bị xử lý kỷ luật hành chính; trưởng phòng xây dựng trấn Đại Trang huyện Tứ, Bí thư đảng ủy, trấn trưởng trấn Dương Tiên huyện Thọ, và một loạt những người phụ trách đảng, chính quyền xã, trấn Tam Giác huyện Nông Thành, xã Chu Đồng huyện Hoài Viễn, trấn Tam Tháp huyện Phụ Nam cũng đều lần lượt bị điều tra xử lý cách chức, ghi kỷ luật hoặc cảnh cáo nghiêm khắc trong đảng vì thu phí bừa bãi.
Văn phòng Tỉnh ủy và văn phòng ủy ban tỉnh thông báo mấy vụ án tăng thêm đóng góp của nông dân tương đối điển hình. Thông báo nêu rõ, Tỉnh ủy yêu cầu các nơi đồng thời với việc tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo cải cách thuế phí nông thôn, phải kiên quyết làm cho được phát hiện vụ nào, điều tra xử lý vụ ấy, không được nương nhẹ đối với những vụ án vi phạm quy định, tự tiện tăng thêm đóng góp của nông dân. Đối với những địa phương có vấn đề đóng góp của nông dân nghiêm trọng, ngoài truy cứu trách nhiệm của người phụ trách trực tiếp ra, còn phải truy cứu trách nhiệm của lãnh đạo chủ chốt đảng chính quyền huyện (thị, quận). Trong thông báo nói rõ, hai cấp tỉnh, thành phố đều đã thành lập Văn phòng điều tra xử lý vụ án liên quan đến nông dân, yêu cầu các huyện (thị, quận) cũng nhanh chóng thành lập văn phòng này, và công khai thông báo số điện thoại cho xã hội, để hình thành một mạng lưới giám sát điều tra xử lý những vấn đề liên quan đến nông dân.
Đảng bộ, chính quyền tỉnh An Huy tranh thủ triệu tập hội nghị truyền hình điện thoại toàn tỉnh chấn chỉnh thu phí liên quan đến nông dân. Phó Bí thư Tỉnh ủy , Bí thư ủy ban kiểm tra kỷ luật tỉnh chủ trì hội nghị và có bài phát biểu quan trọng, Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy, Phó tỉnh trưởng thường trực Trương Bình động viên thêm và các bố trí có liên quan.
Vào lúc này, chúng tôi cũng liên tiếp nhận được thư và điện thoại của các bạn nông dân đã gặp phỏng vấn hai năm nay, phản ánh họ ở đó mới sống được mấy ngày thư thả, cán bộ huyện, xã và thôn đã chìa tay ra, “ba bừa bãi” đủ vành đủ lối độn thổ trồi lên.
Rất nhiều lý do loạn thu, thậm chí khiến người ta khóc dở mếu dở, vừa nghe thấy đã run sợ.
Ở trấn Phùng Miếu huyện Linh Bích xảy ra “sự kiện thôn Đại Cao” chấn động nhiều huyện của hai tỉnh, nông dân đến nay vẫn miệng câm như hến, thu phí bừa bãi không chỉ làm theo như cũ, các cán bộ còn đánh tiếng nếu người cấp trên xuống kiểm tra công tác cải cách thuế phí, không cho phép nói có vấn đề, nếu không “sẽ không nể người đó”.
Điều không thể tưởng tượng nhất vẫn là sự việc của thôn Vương Doanh trấn Bạch Miếu huyện Lâm Tuyền xảy ra sau này.
Nông dân thôn Vương Doanh viết thư tố cáo về những việc liên quan dài bảy, tám nghìn chữ, đầu thư viết:
Lịch sử bước vào thế kỷ 21, ngày nay Trung Quốc đã bước vào xã hội pháp chế, quyền dân chủ, quyền tài sản và quyền nhân thân của nhân dân thôn hành chính Vương Doanh chúng tôi vẫn bị xâm hại dã man, xin hãy xem hành động bạo ngược của Lý Hiệp, phó bí thư đảng ủy trấn Bạch Miếu, Chu Chiếm Dân, chủ nhiệm văn phòng dân chính trấn, Vương Tuấn Bân, bí thư chi bộ thôn Vương Doanh!
Xem đến tên Vương Tuấn Bân, chúng tôi không khỏi giật mình.
- Đây chẳng phải là Vương Tuấn Bân dẫn đầu đi khiếu kiện, một dạo có lệnh truy bắt, khai trừ đảng tịch, sau được Trung ương quan tâm giải quyết vấn đề, được khôi phục đảng tịch và bầu làm bí thư chi bộ thôn sao?
Làm thế nào khi Vương Doanh không có cách nào khác buộc phải tổ chức đi khiếu kiện tập thể, vị lãnh đạo vụ khiếu kiện này năm xưa lại trở thành đối tượng bị khiếu kiện ngày nay?
Xem thư tố cáo mới biết ngày nay thôn Vương Doanh lại một lần nữa xảy ra chuyện cán bộ tự tiện xông vào nhà dân, lấy lương thực đánh người, và ỉm đi “tiền miễn giảm thiên tai mất mùa” mà nhà nước thông báo, khi nhân dân nêu ý kiến, cán bộ trấn, thôn bẽ mặt, nổi cơn thịnh nộ, vẫn diễn lại thói cũ, sử dụng cơ quan chấp pháp vào nhà bắt người.
Sau khi trình bày “sự kiện tiền miễn giảm thiên tai”, thư tố cáo viết như sau:
“Tiền miễn giảm thiên tai mất mùa trong thuế nông nghiệp là khoản tiền của tài chính Trung ương và tài chính tỉnh dành ra trong năm thiên tai để miễn giảm thuế nông nghiệp cho nông dân vùng thiên tai, nhằm bồi dưỡng sức dân, tất nhiên cũng để cho nông dân cảm nhận được tấm lòng của đảng và chính phủ vào năm thiên tai, biết đảng và chính phủ luôn luôn lo lắng cho đời sống, sản xuất của nông dân, lúc nào cũng quan tâm đến phát triển kinh tế nông thôn, nhưng các ông quan cũng dám xà xẻo khoản tiền này, cái họ lấy đi không phải là món tiền bình thường, mà là tấm lòng yêu thương của đảng và chính phủ đối với nông dân vùng bị thiên tai!”
Đọc xong, lòng chúng tôi xốn xang. Sự thay đổi vai của Vương Tuấn Bân, làm chúng tôi chìm trong đau khổ và trầm ngâm suy nghĩ rất lâu.
Có lẽ nào thể chế cũ của nông thôn Trung Quốc chúng ta ngày nay thật sự là một đầm “nước quỉ”, nó có thể làm cho tất cả nước người rơi xuống đó đều thay đổi hoàn toàn bộ mặt hay sao?
Điều đó làm chúng tôi nhớ đến chuyến đi về thôn Tiểu Cương mùa xuân năm 2001.
Đó là ngày hội nghị thí điểm cải cách thuế phí nông thôn toàn quốc sắp họp ở Hợp Phì, chúng tôi rất muốn biết tình cảnh ngày nay của “thôn đầu tiên cải cách Trung Quốc” - nơi bắt nguồn dẫn đến những thay đổi vĩ đại làm chấn động thế giới hơn 20 năm trước.
Ở Tiểu Cương, chúng tôi đã gặp Nghiêm Hồng Xương, trưởng ban phụ trách thôn, được dân gọi là “thôn trưởng” cùng tuổi với nước Cộng hòa.
Nhắc đến đóng góp của nông dân trước đây, Nghiêm Hồng Xương, cũng như các thôn trưởng mà chúng tôi đã gặp cứ lắc đầu. Ông nói: “Tiểu Cương nổi tiếng ở chỗ đi đầu làm “khoán lớn”, ba câu của “khoán lớn” đến nay mọi nhà đều biết: nộp đủ cho nhà nước, để lại đủ cho tập thể, còn lại là của mình”. Không ngờ rắc rối về sau cũng ở chỗ ba câu này. Mọi ngọn gió “ba bừa bãi” bên trên thổi xuống, không có cái nào là không treo tấm màn nhà nước và tập thể, nhưng sau đó không có cách gì có thể “nộp đủ”, “giữ lại đủ”. Ai nuôi lợn, thuế lợn sống vừa nhiều vừa rối, đến nỗi nông dân tức quá không nuôi lợn nữa; nhà ai mua được chiếc máy kéo, nếu không nộp đủ thuế quản lý máy móc, hỏi anh có chạy ra đường cái được không? Phí bảo dưỡng đường, phí giám sát quản lý, phí kiểm tra, không được thiếu khoản nào; bất kể ruộng anh có “đặc sản” hay không cũng phải nộp “thuế đặc sản” như nhau. Tất nhiên sau cải cách thuế phí, không còn những thuế phí bát nháo đó nữa, nhưng thu nhập cấp thôn tụt xuống phổ biến, vấn đề mới lại nảy sinh”.
Ông nói tiếp, “bây giờ phí làm việc của thôn không có một xu. Chính quyền trấn cũng khó sống, kinh phí để lại cho thôn Tiểu Cương một năm chỉ có 3.080 NDT”.
Ông chìa tay ra trước mặt chúng tôi, bấm đốt ngón tay, tính sổ: “Cán bộ thôn 7 người, bí thư, thôn trưởng, văn thư lương năm mỗi người 1.800; bốn người kia lương năm mỗi người chỉ có 1.000. Tiền lương như vậy không thể nói là nhiều, nhưng chỉ riêng khoản này cộng lại cũng phải cần 9.400 NDT. Trong thôn không có xí nghiệp có thể quyên tiền, tiền lương cán bộ thôn trước hết không có nguồn trông cậy; tiền trợ cấp cho đối tượng ưu tiên chính sách, cứu tế hộ nghèo tất nhiên đều thành vấn đề; hơn nữa, trong thôn có ba “hộ năm bảo đảm”, mỗi hộ mỗi năm là 1.800, ba hộ là 5.400, khoản phí nuôi dưỡng này cũng khó thực hiện”.
Ông đành lòng nói ra câu vè: “tài chính quốc gia lên nhanh vun vút, tài chính cấp huyện lung la lung lay, tài chính xã trấn chẳng có cơ may gì, tài chính cấp thôn chưa dùng đã hết”.
Ông cười chua chát, nói rằng: để làm tốt công tác cải cách thuế phí lần này, Trung ương và tỉnh đều trích ngân quỹ riêng. Riêng tiền xây dựng cấp thôn, huyện Phương Dương trích 2 triệu, thôn lớn thôn bé phát đồng loạt 5.000 NDT, rõ ràng là sự ủng hộ lớn nhất đối với chúng tôi. Nhưng thâm hụt quá lớn, chung quy lại vẫn không được việc gì. Tất nhiên là cán bộ thôn Tiểu Cương, chúng tôi có khó khăn mấy cũng không thể đi xin của bà con nữa, “bàn từng việc một” trong thôn cũng không thể vượt quá quy định 15 NDT. Năm đầu cải cách thuế, một số cán bộ thôn không thông, bỏ việc, bí thư chi bộ và phó trưởng thôn của thôn Lê Viên, phó trưởng thôn của thôn Nghiêm Cường, cán bộ thôn Đông Trang lần lượt ra thành phố làm thuê. Hai năm nay, tôi tổng cộng tiêu của thôn 16 NDT, đó là do đi chúc mừng thành lập ban dân cư thị trấn Tiểu Khê Hà, còn lên huyện họp, chẳng có cách nào khác là rút hầu bao của mình; chỉ riêng việc liên tục mua sắm đồ dùng văn phòng cho thôn, tôi phải rút hơn 200 NDT.
Chúng tôi nghe hết sức cảm động, liền hỏi: “Ông lĩnh được 1.800 NDT “lương năm” đủ số đúng kỳ, mỗi tháng chỉ được 150 NDT, với số tiền đó ngay việc nuôi gia đình cũng thành vấn đề, lại còn đi họp, sắm thêm đồ dùng văn phòng đều phải bỏ tiền túi, vậy sống thế nào? Làm thế nào nổi Thôn trưởng?” Ông cười ha hả: “Nhờ các con, nhờ bà xã”, thậm chí ông lộ vẻ tự hào, “Cậu thứ hai Nghiêm Dư Sơn và cô thứ ba Nghiêm Đức Lan, hai anh em nó đi Thâm Quyến từ lâu, bây giờ đều làm ăn cũng khá, Nghiêm Dư Sơn còn làm công tác quản lý ở một xí nghiệp; cậu thứ năm Nghiêm Đức Cẩm làm phóng viên kinh tế ở đài truyền hình tỉnh; bà xã Đoàn Vĩnh Hà vẫn chăn nuôi gia đình, nuôi gà nuôi lợn, thu nhập cũng được. Tôi thôn trưởng này đều nhờ vợ con ủng hộ”.
Từ biệt thôn Tiểu Cương về lại Hợp Phì, chúng tôi vẫn nghĩ mãi: Đây chính là thôn Tiểu Cương ư! Những Nghiêm Hồng Xương vì yêu quý vinh dự và hình ảnh của “thôn đầu tiên cải cách Trung Quốc” có thể chí công vô tư như thế, biểu hiện phẩm chất cao thượng trong sáng, có giác ngộ và trình độ này, có phần vinh quang và trách nhiệm này, tin tưởng họ dù có khổ đến mấy, khó đến mấy cũng quyết không rút hầu bao của nhân dân nữa. Nhưng rõ ràng điều đó không thể chứng tỏ, càng không thể nào bảo đảm các quan thôn, quan xã, quan huyện của các địa phương khác đều “khắc kỹ phục lễ”, “nhẫn nhịn vì đại cục” như những Nghiêm Hồng Xương. Trong tình hình “sức ép mạnh” của “tiếng đồn” cải cách thuế phí tương đối căng, có những người có thể co rụt lại đôi chút, nhưng nếu rất nhiều tệ hại và khiếm khuyết về mặt thể chế và chính sách nông nghiệp Trung Quốc không thay đổi căn bản, muốn ngăn chặn triệt để và đề phòng có hiệu quả những đóng góp bất hợp lý của nông dân là điều hầu như không thể làm được. Đóng góp của nông dân lại quay lại, xem ra chỉ là việc sớm muộn mà thôi!
Giảm nhẹ đóng góp bất hợp lý của nông dân mà còn khó khăn như thế, thế thì, làm thế nào mới có thể giải quyết được vấn đề nông dân giàu có, hiện đại hóa nông nghiệp, giải quyết khoảng cách đang mở rộng nhanh chóng giữa thành thị và nông thôn?
Xem ra, làm cải cách thuế phí, giảm nhẹ đóng góp của nông dân cho đến làm ruộng khoa học, tiến hành điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp nông nghiệp, rõ ràng đều là rất cần thiết và cấp bách, nhưng rõ ràng nó vẫn chưa phải là chính sách cơ bản, lối ra căn bản giải quyết vấn đề “tam nông”.
57. Cải cách Trung Quốc đang đi qua cửa ải lớn Lối thoái của nông nghiệp Trung Quốc rốt cuộc ở đâu? Mấu chốt cản trở nông thôn Trung Quốc phát triển tốc độ nhanh cuối cùng ở đâu?
Làm thế nào mới có thể khơi dậy trở lại nhiệt tình và sức mạnh xung thiên của nông dân Trung Quốc biểu hiện ra đầu những năm 80 thế kỷ trước, khai thác trở lại tiềm năng to lớn được tích lũy tự bao đời của nông dân chôn sâu trong đáy lòng họ, tái tạo lịch sử văn minh mới của Trung Quốc thế kỷ 21?
Vì vậy, chúng tôi tìm gặp rất nhiều, rất nhiều chuyên gia học giả về phương diện này, cũng đọc rất nhiều báo cáo nghiên cứu hữu quan. Có lẽ họ nói đều có lý lẽ, chúng ta thực sự có nhiều việc rất cấp bách, cần nắm chắc để làm!
Đỗ Nhuận Sinh, nhà kinh tế học uyên thâm từng giữ chức quan trọng ở cơ quan đảng và nhà nước, nói: Xuất phát từ đại cục chính trị, kinh tế Trung Quốc, để huy động tính tích cực lao động sản xuất của hàng trăm triệu nông dân, cần phải tạo một môi trường chế độ tốt cho nông dân. Trong đó, chế độ ruộng đất là quan trọng hàng đầu. Trung ương quy định thời hạn khoán ruộng đất kéo dài 30 năm, trao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, nhưng hiện nay cần có thêm bảo đảm của luật pháp, quyền sử dụng ruộng đất tách ra từ chế độ công hữu được khẳng định bằng hình thức luật pháp là một chủ thể kinh tế, một thứ vật quyền, nên được bảo hộ như tài sản tư nhân. Trước đây, chúng ta nói, tài sản công cộng xã hội chủ nghĩa là thiêng liêng bất khả xâm phạm, bây giờ chúng nên nêu ra quyền sử dụng ruộng đất của nông dân là tài sản tư nhân, quyền của nó cũng là thiêng liêng bất khả xâm phạm như thế. Quyền sử dụng bao gồm nhiều loại quyền, quyền nhận khoán, quyền kinh doanh, quyền thế chấp, quyền tham gia cổ phần, quyền chuyển nhượng v.v... Những quyền đó khi lập pháp nên giới hạn rõ ràng, hình thành căn cứ luật pháp.
Ôn Thiết Quân từ Bộ Nông nghiệp điều về nhận chức Phó bí thư trưởng Hội nghiên cứu cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc cho rằng, chúng ta cần thay đổi cách làm để “bổ khuyết” chính sách hoặc giải quyết vấn đề trước mắt mà thi hành chính sách cải cách đơn lẻ, cần phải tiến hành cải cách tổng hợp đồng bộ để giải quyết vấn đề “tam nông”.
Ôn Thiết Quân nói, từ năm 1993 chúng ta từng nêu ra quan điểm và kiến nghị giải quyết đóng góp của nông dân, cho rằng xã hội phong kiến Trung Quốc hai nghìn năm từ khi triều Tần thiết lập “chế độ quận huyện” đến nay đều là “Hoàng quyền không xuống đến huyện”, phương thức quản lý giá thành thấp nhất của chính quyền đối với kinh tế tiểu nông là xã thôn tự trị, chứ không phải là quản lý thuế phí mà nhà nước nhằm vào mỗi một nông hộ, bởi vì “chi phí giao dịch” giữa chính quyền với vạn triệu nông hộ quá cao. Còn hiện nay, tình hình của chúng ta hoàn toàn ngược lại: trong tình hình kinh tế tiểu nông đa nguyên hóa kinh doanh, sản xuất, giao dịch đều quá ư vụn vặt, chính quyền lại cứ đòi thu thuế phí đối với 240 triệu nông hộ, lại còn phải tăng cường quản lý, không những xã, trấn đã có “6 ban lãnh đạo 7 phòng, 8 trạm” mà cấp thôn cũng phải có đủ “ba ban bệ”. Những chính sách đó đều phải thu tiền mới có thể vận hành được, tất nhiên sẽ dẫn đến bộ máy phình to.
Ôn Thiết Quân còn nói, về vấn đề tính hợp lý của thuế nông nghiệp cũng đáng được bàn bạc.
Nông thôn Trung Quốc bình quân đầu người mới hơn một mẫu, đã có hơn 660 huyện, đất canh tác bình quân đầu người thấp hơn “mức bảo đảm sinh tồn thấp nhất của ruộng đất đối với nhân khẩu là 0,8 mẫu” của Liên Hợp Quốc. Ở những huyện này, ruộng đất đã diễn biến thành tư liệu bảo đảm sinh tồn của nông dân, về cơ bản không phải là tư liệu sản xuất nữa, thì nông dân không nên trở thành đối tượng nộp thuế. Nhìn từ góc độ sản xuất, sản xuất đầu người nông nghiệp của gia đình nông hộ kinh doanh ba năm liền ở nước ta về cơ bản đều lỗ, không thu được lợi, còn lấy đâu ra nộp thuế? Nhìn từ góc độ thu nhập, mặc dù theo thống kê của nhà nước công bố, thu nhập tháng của nông dân cũng không quá 300 NDT, người thành thị đạt 800 NDT mới thu thuế, cho nên bây giờ tiếp tục thu thuế nông nghiệp về mặt đạo lý là không ổn, hơn nữa chế độ thuế nông nghiệp hiện hành là chế độ nhất quán mấy chục năm, đã làm cho thu thuế nông nghiệp hiện nay xuất hiện nhiều vô kể hiện tượng không ăn khớp với tình hình hiện thực. Còn về thuế đặc sản nông nghiệp hiện hành, quy định trưng thu theo thực tế, điều đó trong thao tác thực tế căn bản không có cách gì thu được.
Ôn Thiết Quân cho rằng, giải quyết vấn đề “tam nông” tuy không có “phương thuốc ngàn vàng”, nhưng nhìn từ kinh nghiệm công tác cơ sở của vùng thí nghiệm cải cách nông thôn, vẫn phải nhấn mạnh tiến hành cải cách tổng hợp, làm tốt môi trường bên ngoài của phát triển kinh tế nông thôn. Trong cục diện khó khăn phức tạp hiện nay, cần thiết phải nhấn mạnh những đúc kết kinh nghiệm của Văn kiện hội nghị toàn thể Trung ương 3 khóa 15 đảng cộng sản Trung Quốc năm 1998 đối với cải cách nông thôn, đó là, cải cách nông thôn là sáng tạo vĩ đại của hàng trăm triệu nông dân, xuất phát điểm của mọi chính sách của đảng cần phải bảo hộ lợi ích của nông dân. Kinh nghiệm của chúng ta qui kết lại một điều, tức là phải tin tưởng nông dân, đi đường lối quần chúng. Không chỉ trong con mắt mà cả trong trái tim phải có 900 triệu nông dân. Phải có nhận thức tỉnh táo đối với đóng góp của nông dân, phải đánh giá đúng mức độ sung túc của nông dân và nhìn thẳng vào hiện tượng nông dân đóng góp quá nặng, quyết không được lạc quan mù quáng đối với tình hình nông thôn hiện nay, cần phải thực thi chiến lược bồi dưỡng sức cho nông dân. Nếu không, gánh nặng kinh tế và sức ép tâm lý nặng nề vượt quá khả năng chịu đựng của nông dân, cuối cùng sẽ đẩy họ đến bước đường cùng.
Chu Thủ Ngân chuyên gia nghiên cứu vấn đề nông thôn được sự tài trợ của Hội quỹ nghiên cứu cải cách kinh tế Trung Quốc đã hoàn thành một báo cáo nghiên cứu về đề tài “Nghiên cứu đổi mới chế độ cơ sở nông thôn và vấn đề cải cách thể chế thuế phí”. Trong báo cáo, ông đặc biệt nhắc đến hai biện pháp cải cách đã ra đời ở thế kỷ trước, bởi vì hai cải cách đó đã đưa đến thay đổi to lớn cho môi trường chế độ của chúng ta ngày nay, nhưng dù cho những biện pháp cải cách mà chúng ta tuyên truyền rầm rộ đó cũng không hoàn toàn có thể làm cho người ta lạc quan; lợi hại thế nào, có đúng đắn hay không đều phải chấp sự nhận kiểm nghiệm của thực tiễn.
Một là, cùng với việc hoàn thành “bỏ công xã thành lập xã” năm 1985, nhà nước đã xây dựng nên thể chế quản lý chính quyền cơ sở xã, trấn đồ sộ chưa từng có trong lịch sử, sau đó lại liên tiếp cho ra đời một loạt biện pháp cải cách có xu hướng “chia quyền nhường lợi” rất mạnh và chính sách khoán tài chính “chia bếp riêng”, hình thành quan hệ lợi ích rất rõ ràng giữa chính quyền các cấp và các ngành. Vì hàng vạn chính quyền xã, trấn có lợi ích riêng và tham vọng tăng thu, những ngành có quyền lực nhà nước lại được “phân công canh giữ” các lĩnh vực phát triển kinh tế nông thôn đều trở thành chủ thể hành vi vừa lũng đoạn quyền lực, vừa theo đuổi lợi ích.
Hai là, cải cách “chế độ phân thuế” nhà nước tiến hành năm 1994, không những không thoát ra khỏi cái vòng thể chế khoán tài chính, mà còn vì chế độ phân thuế trước hết phân định thu nhập giữa Trung ương và địa phương, ngược lại đã tạo nên sự tách biệt giữa “quyền công việc” và “quyền tài chính”; về mặt phân định “quyền công việc”, việc quản lý giữa Trung ương và địa phương và giữa chính quyền các cấp ở địa phương diễn ra hỗn loạn. Thu nhập tài chính trong ngân sách chính quyền địa phương thường thường trở thành “tài chính để ăn cơm”, thậm chí một số địa phương cũng khó bảo đảm chi cho phí hành chính sự nghiệp và phí theo đầu người, điều đó dẫn đến chính quyền địa phương các cấp đam mê theo đuổi “tăng thu” tài chính, đều cố sức nâng cao tỷ lệ để lại cho tài chính cấp mình, và truyền đạt cho chính quyền cấp dưới mục tiêu thu nhập tài chính và nhiệm vụ nộp thuế không ngừng tăng lên. Chính quyền cơ sở nông thôn và tổ chức tự trị nông dân do chỉ có quyền sự việc mà không có quyền tài chính, nên đành ngửa tay xin của nông dân để hoàn thành các nhiệm vụ cấp trên ban xuống.
Hiệu ứng mặt trái của những cải cách đó mang lại rõ ràng không phải là ý nguyện ban đầu của những nhà thiết kế cải cách. Nhưng, không nhìn thẳng, không thay đổi môi trường chế độ của những cải cách trọng đại đó tạo ra, thì đổi mới chế độ vẫn chỉ là câu nói suông.
Lục Học Nghệ, Hội trưởng Học hội xã hội Trung Quốc, nói đến những vấn đề đó xuất hiện trong quá trình phát triển xã hội nông thôn, quan điểm của ông rất rõ ràng: trước hết cần phải tìm đáp án từ trên quan hệ giữa thành thị nông thôn. Ông coi cơ cấu nhị nguyên thành thị nông thôn là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến phát triển kinh tế Trung Quốc; ông nói, cơ cấu xã hội của chế độ nhị nguyên đã đến bước không thể không sửa đổi. Tất nhiên, muốn quan hệ thành thị nông thôn suôn sẻ, quyết không phải là sửa đổi chế độ hộ tịch một tý, bởi vì chế độ hộ tịch gắn bó với bố cục phân phối lợi ích giữa thành thị và nông thôn, tiến hành cải cách nó, thực ra là sự điều chỉnh có tính căn bản quan hệ lợi ích giữa thành thị và nông thôn.
Lý Xương Bình đã từng thẳng thắn can gián Thủ tướng Chu Dung Cơ, hiện giữ chức Tổng Biên tập Tạp chí “Cải cách Trung Quốc” cho rằng, điều quan trọng hơn so với sản nghiệp hóa nông nghiệp và đổi phí thành thuế là tiến hành cải cách có tính cách mạng đối với bộ máy huyện xã. Cái gọi là cải cách có tính cách mạng, cũng tức là nói, phải thay đổi phương thức sinh ra và phương thức quản lý cán bộ, then chốt lãnh đạo của đảng là phải bảo đảm cho nhân dân làm chủ, cơ cấu lại thể chế chính quyền. Mục tiêu của nó là chính quyền phải trung thành với nhân dân, làm việc theo ý chí của nhân dân. Hiện nay, cần phải giảm trên một nửa nhân viên sống nhờ thuế phí, cần phải cắt giảm trên một nửa các bộ máy, cán bộ làm việc là quan, cán bộ thôi việc là dân. Nếu không thiết thực làm tốt cải cách cơ cấu lại thể chế chính quyền huyện xã, thì các cuộc cải cách khác không thể tiến hành thuận lợi.
Ông thậm chí cho rằng, tinh giản bộ máy và nhân viên dứt khoát là một cuộc cách mạng, là một cuộc cách mạng gian nan hơn cuộc cải cách thể chế kinh tế. Cuộc cách mạng này không thể tránh khỏi, trong phạm vi nhất định, cuộc cách mạng này là một cuộc đấu tranh, là cuộc đấu tranh gian khổ tiến hành giữa quần chúng nhân dân bảo vệ quyền lợi, quyền lực mà nhà nước cho họ với những người tước đoạt quyền lợi và quyền lực của họ. Không có cuộc đấu tranh này thì tất cả đều không thể trở về con đường bình thường, chỉ thị mệnh lệnh của Trung ương đảng, Quốc Vụ viện rất khó được chấp hành trung thực. Nếu không lợi dụng lực lượng dân chủ giải quyết vấn đề “chính quyền phình to” lâu nay làm đau đầu chúng ta, thì chúng ta sẽ lặp lại lịch sử cách mạng bạo lực thay thế chính quyền.
Lý Xương Bình không phải là người đầu tiên nêu ra vấn đề “tam nông”, nhưng với tư cách là bí thư đảng ủy xã, nhưng nêu ra có hệ thống, nói có chứng cứ và đích thân trải nghiệm, thì ông là người đầu tiên. Câu nói nổi tiếng nhất của ông là: cho nông dân đãi ngộ quốc dân, cho nông dân quyền lợi cơ bản.
Vu Kiến Vinh, tiến sĩ luật học Trung tâm nghiên cứu vấn đề nông thôn Trung Quốc trường đại học sư phạm Hoa Trung lại phát biểu ý kiến không hoàn toàn giống như Lý Xương Bình. Ông cho rằng, “đãi ngộ” mà “những nhân viên phi nông nghiệp” được hưởng hình thành trong thời đại kinh tế kế hoạch, bây giờ đã không phải là “đãi ngộ quốc dân” gì nữa. Bởi vì đối với đông đảo người lao động sống ở thành thị mà nói, những “đãi ngộ phúc lợi” ít ỏi đến đáng thương đó đã bị cải cách vứt bỏ đi rồi. Chỉ số ít những người quyền quý thì đang hưởng của cải xã hội của người lao động sáng tạo ra, ở mức độ lớn hơn và phạm vi rộng hơn. Trên ý nghĩa đó, có thể nói, Trung Quốc không có một quần thể quốc dân xác định, có lợi ích chung và tiêu biểu ý chí, chỉ có người lao động nghèo hèn và người quyền quý có tiền tài và quyền lực. Cũng không có đãi ngộ quốc dân gì hết, chỉ có đãi ngộ của người quyền quý. Cũng tức là, “cho nông dân đãi ngộ quốc dân” chắc không thể giải quyết được khủng hoảng chính trị ở nông thôn Trung Quốc.
Vì vậy Vu Kiến Vinh cho rằng, trước hết phải động viên tổ chức nông dân thành lập tổ chức nông dân thực sự, thay đổi phương thức quản lý nông thôn hiện tại, thực hành xã, trấn tự trị; đồng thời chúng ta cần một lời hứa chính trị mới, phải vận dụng tổ chức xã hội, đặc biệt là tổ chức dân gian để cấu tạo vật chuyển tải sự vận động xã hội, thành lập nông hội đại diện lợi ích của nông dân ý nghĩa thật sự. Nông hội có thể tập hợp tổ chức nông dân phân tán, nguyện vọng của nông dân dễ được trình bày thông qua con đường tổ chức có trật tự, nhiều sự kiện bột phát cũng có thể dịu bớt xung đột và được hòa giải. Tất nhiên, tổ chức này có thể đại diện lợi ích của đại đa số nông dân nhất, phải từ dưới lên trên, và cần phải thích ứng với trào lưu thế giới, có nghĩa là, có thể nên thành lập cơ chế ra khỏi, dù là tổ chức nông dân mang tính chính trị và kinh tế, nếu nông dân không có quyền tự do rút lui thì đều là rất đáng sợ.
Nhà kinh tế học nổi tiếng Ngô Kính Liễn là một nhà đại học vấn, ông rõ ràng thích mượn lịch sử để nói, để sự thật nói thay, thậm chí không dùng bao nhiêu lý luận cao xa, lại làm rung động lòng người.
Ông nói: “Bất cứ cuộc cải cách nào đều không phải thuận buồm xuôi gió. Khi ban đầu đề ra cải cách, ai cũng không ngờ, năm 1982 cải cách thoái trào; Đại hội 12 khẳng định cách nêu kinh tế kế hoạch là chính, năm 1984 thì đảo lại; Hội nghị Trung ương 3 khóa 12 thông qua “Quyết định của Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc về cải cách thể chế kinh tế”, lúc đó mọi người đều hết sức phấn khởi, kết quả, mấy tháng sau, lạm phát tiền tệ xuất hiện, đành phải lùi lại; năm 1986 phương án cải cách đồng bộ của Quốc Vụ viện vạch ra suýt nữa đưa ra thực hiện, cũng rất phấn khởi, tưởng rằng cải cách Trung Quốc từ đây đi lên con đường bằng phẳng, nhưng sau mấy tháng lại quyết định không thực thi. Trước đây bao giờ cũng mong xuất hiện sự việc gì đó khai thiên lập địa, bây giờ tôi lại cho rằng, chỉ cần tiến lên từng bước một thì rất tốt. Chúng ta không thể lạc quan mù quáng đối với tiền đồ, kinh nghiệm của một số cải cách lớn luôn bị trắc trở những năm gần đây bảo chúng ta, cải cách của Trung Quốc đang đi qua cửa ải lớn”.
Nhà kinh tế học dũng cảm tiến hành thăm dò tìm tòi trong biến đổi chính trị và xã hội Trung Quốc, và từng được vinh dự mang tên “Ngô thị trường” này hai năm nay đặc biệt thích thú dẫn lời mở đầu trong tiểu thuyết “Song thành ký” của Dickens, ám chỉ sự giải thích của ông đối với cải cách của Trung Quốc: “Đó là thời kỳ đẹp nhất, cũng là thời kỳ xấu nhất; đó là thời đại trí tuệ, cũng là thời đại ngu muội; đó là năm tháng tín nhiệm, cũng là năm tháng hoài nghi; đó là mùa sáng sủa, cũng là mùa đen tối; đó là mùa xuân hy vọng, cũng là mùa đông thất vọng; tiền đồ của chúng ta rộng lớn, đồng thời lại cảm thấy hy vọng mờ mịt, chúng ta cùng nhau vươn tới thiên đường, chúng ta đều đi tới một phương hướng khác...”.
Ngô Kính Liễn nói: “Ở thời đại chuyển biến lớn chằng chịt phức tạp, chúng ta cần phải nhìn thấy nhân tố của hai mặt tốt xấu đều tồn tại. vì vậy đều có thể có hai loại tiền đồ. Tất nhiên chúng ta hy vọng một tiền đồ đẹp nhất. Nhưng tương lai của Trung Quốc chỉ có thể quyết định bởi nhận thức hiện tại và nỗ lực hôm nay của chúng ta”.
58. Ra khỏi định luật Hoàng Tông Hy Tống Á Bình, Bí thư đảng ủy quận Hàm An thành phố Hàm Ninh tỉnh Hồ Bắc là “Bí thư cải cách” nổi tiếng ở tỉnh Hồ Bắc. Để nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quận Hàm An thích ứng kinh tế thị trường, tăng cường ý thức cải cách của họ, ông từng cử 1/3 cán bộ quận, xã xuống miền Nam đi làm thuê để rèn luyện, mỗi người mỗi tháng chỉ phát cho 500 đồng tiền lương, còn lại, đều dựa vào mình đi làm thuê trong xã hội, vì vậy mọi người lại gọi ông là “Bí thư làm thuê”.
Tháng 8 năm 2002, Tống Á Bình giấu tên đến Hợp Phì, muốn đích thân nghe Hà Khai Ấm, người khởi xướng cải cách phí thuế nông thôn nói về “phí đổi thành thuế” đang thí điểm ở An Huy. Nhưng một câu nói rõ rành rành của Hà Khai Ấm lại vượt ra ngoài dự đoán của ông.
Hà Khai Ấm nói: “Phí đổi thành thuế” chẳng qua giảm nhẹ đóng góp của nông dân ba bốn mươi NDT, bây giờ chúng ta cứ cho miễn hết thuế phí, không thu một xu của nông dân, nó cũng không thể làm cho kinh tế nông thôn Trung Quốc thay đổi về chất”.
Tống Á Bình nhìn Hà Khai Ấm ít nhiều có chút kinh ngạc.
Hà Khai Ấm nói: “Theo tôi hiểu, cải cách phải là sáng tạo, sáng tạo thể chế, sáng tạo cơ chế, sáng tạo chế độ. Cải cách trọng đại phải là một cuộc cách mạng”.
Tiếp đó, ông dẫn câu nói của Đặng Tiểu Bình ngày 7 tháng 6 năm 1988: “Vấn đề trước mắt hiện nay là, không tiến thì thoái, thoái thì không có lối thoát. Chỉ có đi sâu cải cách, và cải cách có tính tổng hợp, mới có thể bảo đảm đạt đến mức khá giả trong thế kỷ này và tiến lên tốt hơn ở thế kỷ sau”.
Dẫn câu nói của Đặng Tiểu Bình “Chỉ có đi sâu cải cách và cải cách có tính tổng hợp”, Hà Khai Ấm mới nói: “Phí đổi thành thuế” chỉ có thể giảm nhẹ chút ít đóng góp của nông dân quá nặng, chứ không thể giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. Từ sau khoán lớn, trong tình hình mới của cải cách mở cửa, nông thôn lại tích lũy không ít mâu thuẫn mới, chính vì đóng góp của nông dân lúc bấy giờ đã trở thành vấn đề điểm nóng và điểm khó của toàn xã hội, hơn nữa lại ở vào vị trí then chốt rút dây động rừng, chúng ta mới lựa chọn nó làm đột phá khẩu, trước hết giảm nhẹ đóng góp quá nặng của nông dân, đồng thời đưa các mâu thuẫn khác nằm ở tầng sâu lên lộ thiên, sau đó tùy theo nặng nhẹ gấp hoãn của nó lần lượt áp dụng đối sách giải quyết từng cái”.
“Điều đáng tiếc là”, Hà Khai Ấm buộc lòng nói với Tống Á Bình, Văn phòng cải cách thuế phí nông thôn đặt ở Bộ Tài chính thiếu hiểu biết đối với đi sâu toàn diện cải cách nông thôn, lại đơn giản hóa cuộc cải cách này là “phí đổi thành thuế”, mặc dù phí đổi thành thuế này đều đạt được thành tích to lớn trên các mặt giảm nhẹ đóng góp, cải thiện quan hệ giữa cán bộ và quần chúng, ổn định xã hội v.v..., nhưng cũng tạo ra một số khó khăn mới, làm cho đi sâu toàn diện cải cách nông thôn khó tiếp tục đi sâu thuận lợi, thậm chí ở một số địa phương tiến hành thí điểm cải cách trước, đóng góp của nông dân lại xuất hiện sự phục hồi. Truy nguyên nhân của nó rất đơn giản, vì Bộ Tài chính chỉ là một ngành chức năng cụ thể, nó không thể thay thế các ngành khác chế định chính sách. Vì vậy coi “phí đổi thành thuế” là cải cách trọng đại lần thứ ba của nông thôn Trung Quốc, đó là hiểu sai, tiêu chí của cải cách trọng đại là chuyển biến kinh tế kế hoạch nông thôn thành kinh tế thị trường. Vì vậy chúng ta từng lớn tiếng kêu gào, không ngừng đưa ra kiến nghị cải thiện phương án “phí đổi thành thuế” trước mắt, nhưng tiếng nói của chúng ta rốt cuộc rất yếu ớt, cảm thấy lực bất tòng tâm”.
Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu, thoại bất đầu cơ bán cú đa (Tri kỷ gặp nhau uống ngàn chén rượu vẫn thấy thiếu; không tâm đầu ý hợp mới nói nửa câu đã thấy thừa). Giờ đây, Hà Khai Ấm đứng trước “Bí thư cải cách” từ tỉnh Hồ Bắc đến, nói đến việc cải cách nông thôn, ông nói hết một lúc biết bao nhiêu điều hầu như mấy tháng mới có thể nói hết. Ông nói: “Cải cách thuế phí thực ra có nội dung phong phú. Trên, nó liên quan đến cải cách chế độ hộ tịch nông thôn, thể chế tiền tệ nông thôn và chính sách mua bán lương thực, nhất là cải cách chế độ ruộng đất căn bản nhất; dưới, nó liên quan đến cải cách thể chế tài chính thuế khóa cơ sở nông thôn, chế độ tài vụ, giáo dục bắt buộc nông dân và thể chế khoa học kỹ thuật nông thôn, đặc biệt là cải cách bộ máy cấp xã, trấn, thôn quan trọng nhất. Tóm lại, cải cách thuế phí nông thôn là một cuộc biến đổi xã hội rất phức tạp và lại sâu sắc. Một cuộc cải cách trọng đại như vậy, phải do Thủ tướng và Phó Thủ tướng phân công phụ trách đích thân lãnh đạo, do Văn phòng tổ lãnh đạo công tác nông thôn Trung ương chủ trì, đặt Văn phòng cải cách ở bộ phận tổng hợp của Quốc Vụ viện, điều động binh hùng tướng mạnh thông thạo nghiệp vụ và am hiểu chính sách từ các bộ, ủy ban có liên quan về làm công việc này. Trước tiên, Bộ Tài chính sửa đổi và hoàn thiện phương án cải cách thuế phí, làm cho nó có thể dắt dẫn cải cách khác, sau đó ngành lương thực xây dựng chính sách mua bán lương thực mới và tiến hành cải cách thể chế; Bộ Giáo dục sửa đổi Luật giáo dục bắt buộc và các tỉnh đặt ra nguyên tắc chi tiết thực thi; Bộ Công an xây dựng phương án cải cách chế độ hộ tịch nông thôn; Bộ Nhân sự xây dựng phương án cải cách bộ máy xã, trấn; Bộ Nông nghiệp chế định phương án cải cách thể chế khoa học kỹ thuật nông thôn; Bộ Dân chính chế định phương án bộ máy cấp thôn và phương án bảo hiểm xã hội nông dân; ngành sinh đẻ có kế hoạch của Bộ Y tế xây dựng phương án cải cách hệ thống y tế công cộng và bảo hiểm y tế nông thôn; Bộ Bảo vệ môi trường và tài nguyên đất nước kết hợp với Bộ Nông nghiệp xây dựng phương án cải cách chế độ ruộng đất và sáng lập chủ thể vi mô kinh tế thị trường, hướng dẫn nông dân làm tốt điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp. Tất cả những phương án đó tập hợp về Văn phòng cải cách tổng hợp, tiến hành điều hòa và sửa đổi, cuối cùng hình thành phương án cải cách tổng hợp đồng bộ với nhau, để thực hiện thúc đẩy toàn bộ. Như vậy đi sâu toàn diện cải cách nông thôn mới có thể giành được thắng lợi hoàn toàn, thúc đẩy nông nghiệp phát triển lớn!”
Những lời nói đó gợi lên sự đồng cảm của Tống Á Bình. Bởi vì Tống Á Bình trước đây công tác nhiều năm ở cơ sở, tương đối hiểu rõ tình hình “tam nông”, ông cũng đã sớm nghiên cứu về những mặt này.
Vì thế hai người trao đổi ý kiến về rất nhiều vấn đề làm thế nào thúc đẩy có hiệu quả nông nghiệp Trung Quốc phát triển, nông thôn tiến bộ và nông dân giàu có.
Hai người đều cho rằng, đối với nông nghiệp của Trung Quốc ngày nay, trước hết nên thực thi chính sách “bồi dưỡng sức dân”, bãi bỏ tất cả thuế nông nghiệp và phần phụ thu nhằm vào nông dân. Công tác của xã, trấn trước đây chủ yếu cũng là nắm sinh đẻ có kế hoạch, quản lý tổng hợp xã hội và trưng thu thuế phí, nổi nhất là việc thu thuế phí hao tốn nhân lực, tinh lực và tài lực nhất, giá thành chính trị quá lớn, bãi bỏ thuế phí cho nông dân, một là có thể hoàn toàn giảm nhẹ đóng góp của nông dân, có lợi cho nông dân tích lũy của cải, từng bước tăng cường năng lực của nông nghiệp mở rộng tái sản xuất; hai là có thể giải thoát cho hàng loạt cán bộ xã, trấn, thôn ra khỏi khó khăn vất vả, khi thu tiền đòi nợ, làm dịu quan hệ căng thẳng giữa cán bộ và quần chúng nông thôn. Hai cấp huyện xã bị giảm thu do việc này đưa đến có thể thông qua biện pháp giảm việc giảm người, giảm chi để giải quyết. Như vậy việc chuyển chi tài chính của Trung ương và tỉnh trong quá trình cải cách thuế phí nông thôn có thể hoàn toàn dùng vào giáo dục cơ sở nông thôn và sự nghiệp y tế nông thôn.
Hai người còn cho rằng, đi đôi với thực thi chính sách “bồi dưỡng sức dân” cho nông nghiệp Trung Quốc, có thể thực hiện rộng rãi phương sách “Vô vị như trị” (không làm mà trị). Chính quyền năm cấp hiện nay từng bước khôi phục lại chính quyền ba cấp, sáp nhập xã thành lập trấn, đổi chính quyền xã, trấn hiện nay thành Công sở trấn, là cơ quan cắt cử ra của chính quyền cấp huyện. Nếu điều kiện hiện nay chưa đầy đủ, có thể tiến hành trước tinh giản bộ máy xã, trấn quy mô lớn, áp dụng biện pháp cán bộ đảng chính quyền nhận chức đan chéo nhau, gộp “bốn đại gia” làm một, kiên quyết thu gọn biên chế số chức vụ và nhân viên của cán bộ lãnh đạo xã, trấn, thuyên chuyển nhân viên thừa. Hễ việc gì nông dân có thể tự lập tự chủ theo luật pháp, hễ việc gì có thể thông qua quy ước của xã thôn hòa giải và cả những mâu thuẫn có thể lợi dụng cơ chế thị trường giải quyết thì chính quyền không cần quản lý. Còn về “bảy trạm tám đồn” của xã, trấn, ngoài đồn công an và ngành dọc quản lý ra, đồng loạt đổi thành cơ quan dịch vụ môi giới hoặc tổ chức kinh tế chuyên nghiệp, “bảy trạm tám đồn” sau khi thay đổi chế độ, chỉ có thể xoay quanh yêu cầu phát triển của xây dựng kinh tế và tiến bộ xã hội nông thôn, cung cấp dịch vụ có hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân, trở thành đơn vị pháp nhân xí nghiệp tự chủ kinh doanh, tự chịu lãi lỗ, tự phát triển. Ban phụ trách thôn về nguyên tắc không còn chức năng quản lý hành chính nữa, từng bước mở rộng quyền dân chủ của ban phụ trách thôn, và quy chuẩn thêm hành vi tự trị của ban phụ trách thôn. Đồng thời ủng hộ và giúp đỡ đông đảo nông dân thành lập tổ chức nông hội các cấp có nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật phong phú, tổ chức nông hội về tính chất phải giống như các tổ chức quần chúng phụ nữ, công đoàn v.v... trong thành phố, dưới sự lãnh đạo của đảng, có địa vị chính trị ngang nhau, và phát huy vai trò tích cực thúc đẩy kinh tế phát triển và giữ gìn ổn định xã hội.
Tất nhiên, bãi bỏ việc nhà nước đặt mua lương thực, kiên quyết mở cửa giá thu mua lương thực, mở cửa thị trường mua bán lương thực; trả ruộng đất cho nông dân, cho phép nông dân tiến hành lưu chuyển có trật tự đối với quyền sử dụng ruộng đất mà họ có, khuyến khích và ủng hộ nông dân di chuyển vào thành thị từng bước xây dựng thị trường lao động thống nhất mở cửa giữa thành thị, và nông thôn, thật sự làm cho cư dân thành thị và nông thôn bình đẳng địa vị trước cơ hội tìm việc làm và phát triển. Những điều đó rất quan trọng.
Cũng như còn phải tích cực tìm tòi chế độ bảo hiểm y tế nông thôn và chế độ dưỡng lão nông thôn do nhà nước, tập thể, cá nhân nông dân cùng bỏ vốn, đóng góp hợp lý; kết hợp với chính sách xóa đói giảm nghèo nông thôn và chính sách trợ cấp dân chính khác, làm thử chế độ bảo hiểm đời sống thấp nhất cho nông dân. Những việc đó cũng cần phải bắt tay làm.
Còn phải từng bước tăng thêm đầu tư của nhà nước đối với xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn...
Còn phải cải cách thể chế quản lý tiền tệ nông thôn, mở cửa làm sống động tiền tệ nông thôn...
Hà Khai Ấm nói: “Trong lịch sử Trung Quốc từng có nhiều lần cải cách thuế khóa nông thôn, đời Đường có “Luật lưỡng thuế”, đời Minh có “Luật một con roi”, đời Thanh có biện pháp cải cách pháp chế “Chia ruộng theo đầu người”, những cải cách to lớn đó đều tiến hành nhằm vào danh mục thu phí lúc bấy giờ quá nhiều, quan tham ô lại khẳm hầu bao, nông dân gánh nặng không kham nổi, nội dung của cải cách về cơ bản đều đổi phí thành thuế, biến phức tạp thành đơn giản. Những biện pháp cải cách đó trong thời gian ngắn phần lớn có thể làm được “nhiều tệ hại xưa nay được làm rõ”, làm cho nông dân có cơ hội lấy lại sức, nhưng cuối cùng cũng không ngoài lệ vì hạn chế của môi trường chính trị xã hội lúc bấy giờ mà đi tới mặt trái, tạo điều kiện cho tăng thêm thuế phí về sau, đóng góp của nông dân trái lại nặng hơn.
Nhà tư tưởng thời kỳ Minh Thanh Hoàng Tông Hy từng gọi điều đó một cách sâu sắc là “tích lũy chớ có quay lại làm hại người ta”, người đời sau gọi câu nói đó là “Định luật Hoàng Tông Hy” nổi tiếng.
Hà Khai Ấm nói: “Thời đại ngày nay chúng ta đang sống khác với trước kia, chúng ta biết bao hy vọng, những người cộng sản làm việc hoàn toàn vì lợi ích của nông dân, có thể nhảy ra khỏi định luật lịch sử này”.
Sau khi Tống Á Bình trở về thành phố Hàm Ninh tỉnh Hồ Bắc, chẳng bao lâu, chỉnh lý lại ý kiến trao đổi với Hà Khai Ấm viết ra 12 điều kiến nghị gửi lên Bí thư Tỉnh ủy; Hà Khai Ấm sau đó cũng viết ra phương án cải cách rất tỉ mỉ, một lần nữa thẳng thắn can gián Trung ương.
Chưa phải hồi kết. Tấm màn đang mở ra Ngay sau khi tôi hoàn thành bản thảo thứ hai tác phẩm này chẳng bao lâu, một tin vui làm nức lòng người truyền đến: ngày 8 tháng 11 năm 2002, Đại hội đại biểu toàn quốc đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 16 khai mạc trong sự mong đợi của hàng trăm triệu nhân dân.
Đây là đại hội đại biểu đầu tiên của đảng cộng sản Trung Quốc được triệu tập ở thế kỷ mới, cũng là đại hội đại biểu rất quan trọng được triệu tập trong tình hình mới bắt đầu thực thi bố trí chiến lược bước ba xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội, xây dựng toàn diện xã hội khá giả trở thành vấn đề các đại biểu bàn luận sôi nổi. Người ta bắt đầu đổ dồn ánh mắt quan tâm chú ý về nông thôn Trung Quốc, bởi vì xây dựng toàn diện xã hội khá giả, then chốt là ở nông thôn; vấn đề “tam nông” đã trở thành “cổ chai” của chúng ta ngày nay xây dựng toàn diện xã hội khá giả!
Trong báo cáo trước Đại hội 16, Giang Trạch Dân nêu rõ: “Thực tiễn không có giới hạn, sáng tạo cũng không có giới hạn. Chúng ta phải đột phá người đi trước, tất nhiên người đi sau cũng sẽ đột phá chúng ta, đó là quy luật tất nhiên của xã hội tiến lên. Chúng ta nhất định phải thích ứng với sự phát triển của thực tiễn, lấy thực tiễn để kiểm nghiệm mọi cái, tự giác giải phóng nhận thức tư tưởng ra khỏi sự ràng buộc của quan niệm, cách làm và thể chế không thích hợp, giải phóng ra khỏi những hiểu biết kiểu sai lầm và giáo điều đối với chủ nghĩa Mác, giải phóng ra khỏi gông cùm của chủ nghĩa chủ quan và siêu hình”. Khi đề cập đến công tác nông thôn, báo cáo đặc biệt nêu ra “tính toán tổng thể phát triển kinh tế xã hội thành thị và nông thôn”. Đây là lần đầu tiên hai mươi bốn năm qua từ khi cải cách mở cửa đến nay, đã đưa sự phát triển kinh tế xã hội thành thị và nông thôn lên tầm cao “tính toán tổng thể” trong khi kiên trì công tác lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm. Một cống hiến quan trọng mang tính lịch sử của đại hội lần này là: thực hiện thuận lợi việc thay thế mới cũ tập thể lãnh đạo Trung ương, bầu ra Ủy ban Trung ương khóa mới do Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí thư!
Sở dĩ nói nó thuận lợi, vì nó thực hiện trong không khí bình tĩnh. Điều đó đánh dấu đảng ta đang ngày càng đi tới sự thành thực.
Khi cùng tám Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị khóa mới gặp gỡ phóng viên trong và ngoài nước, Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào, phát biểu ngắn gọn và phấn chấn lòng người.
Đồng chí nói: “Chúng tôi nhất định không phụ lòng ủy thác nặng nề của các đồng chí trong toàn đảng và sự mong đợi của nhân dân toàn quốc”.
Đồng chí nói: “Tập trung sức lực để xây dựng, một lòng một dạ vì phát triển”.
Đồng chí thay mặt tập thể lãnh đạo thế hệ mới trang nghiêm hứa: Ngày mai của Trung Quốc nhất định sẽ tốt đẹp hơn, phát triển tiến bộ của Trung Quốc sẽ đóng góp lớn hơn cho hòa bình và phát triển của thế giới!
Sau đại hội chẳng bao lâu, Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào đến thôn Tây Bá Ba huyện Bình Sơn tỉnh Hà Bắc, nơi họp hội nghị toàn thể Trung ương 2 khóa 7, nhắc lại “hai cần phải”, nhắc nhở toàn đảng và nhân dân toàn quốc cần phải tiếp tục giữ vững tác phong khiêm tốn, cẩn thận, không kiêu căng, không nóng vội, cần phải tiếp tục giữ vững tác phong phấn đấu gian khổ và lội tuyết đi thăm nhà nông. Ôn Gia Bảo mới giữ chức Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị thì đi xuống mỏ than Phụ Tân tỉnh Liêu Ninh, dưới hầm lò sâu 720 mét, cùng vui đêm giao thừa với công nhân mỏ, hiển nhiên đây không phải là một lần hoạt động của cá nhân Ôn Gia Bảo. Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị mới Lý Trường Xuân cũng như vậy không phụ lòng mong đợi của quần chúng, ông nhiều lần nhấn mạnh: công tác tuyên truyền của đảng phải “sát thực tế, sát quần chúng, sát cuộc sống”, “đánh giá sản phẩm văn hóa tinh thần cuối cùng phải xem nhân dân hài lòng hay không, nhân dân có thích hay không”, “cần phải coi trọng cao độ phản ánh tiếng lòng của quần chúng nhân dân, làm cho chủ trương của đảng thống nhất với lợi ích của nhân dân tốt hơn”.
Tất cả những điều đó đã thể hiện một cách rõ ràng chiều hướng cầm quyền cụ thể mới của tập thể lãnh đạo thế hệ mới, quyết tâm xây dựng lại quan hệ giữa đảng với quần chúng, giữa quan với dân.
Tiếp theo đó, ngày 6 tháng 1 năm 2003, hội nghị công tác nông thôn Trung ương triệu tập ở Bắc Kinh. Nhìn về hình thức, nó là một “hội nghị thường kỳ”, bởi vì năm nào cũng họp hội nghị công tác nông thôn Trung ương, nhưng “hội nghị thường kỳ” lần này quả thực không phải là bình thường, hội nghị nhấn mạnh hơn nữa phải hình thành hệ thống hoàn thiện tính toán tổng thể phát triển kinh tế xã hội thành thị và nông thôn, chứ không phải “vụn vặt lắt nhắt” như trước đây nữa, điều này được coi là “tư duy mới trọng đại” của Trung Quốc giải quyết vấn đề nông thôn ở giai đoạn mới của thế kỷ mới, mũi nhọn của nó rõ ràng chĩa vào “cơ cấu nhị nguyên” thành thị nông thôn. Hội nghị nêu ra yêu cầu mới, đó là, coi vấn đề “tam nông” là “trọng tâm của trọng tâm” công tác của toàn đảng. Nhấn mạnh nêu rõ: Nhìn về phát triển tương lai của nước ta, thực hiện mục tiêu hùng vĩ xây dựng toàn diện xã hội khá giả, nhiệm vụ nặng nề nhất, gian nan nhất là ở nông thôn. Không có khá giả của nông dân, thì không có khá giả của nhân dân toàn quốc; không có hiện đại hóa của nông thôn, thì không có hiện đại hóa của Trung Quốc.
Tại hội nghị, Hồ Cẩm Đào có bài phát biểu quan trọng về giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, thực hiện mục tiêu hùng vĩ xây dựng toàn diện xã hội khá giả; Ôn Gia Bảo cũng đã bố trí công tác nông nghiệp và nông thôn thời kỳ trước mắt và từ nay về sau; các Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị Trung ương vừa được bầu Tăng Khánh Hồng, Hoàng Cúc, Lý Trường Xuân đều đến dự hội nghị.
Tư duy lý tính và tinh thần cầu thực đang chủ đạo tương lai của cải cách Trung Quốc!
Đó là phúc âm lớn nhất của 900 triệu nông dân Trung Quốc!
Tiếp đó, Văn phòng Quốc Vụ viện truyền đạt dưới hình thức Văn kiện số 1 năm 2003 “Thông tri về làm tốt công tác quản lý và phục vụ nông dân vào thành phố tìm việc làm”. Đây lại là món quà hậu hĩ của Trung ương đảng khóa mới gửi tặng nông dân Trung Quốc nhân dịp năm mới sắp đến, “đối xử công bằng” mà 900 triệu nông dân mong mỏi bao năm cuối cùng nhận được lời hứa trong văn kiện của Trung ương. Rất nhiều quy định trong văn kiện, cái căn bản của nó là khôi phục “đãi ngộ quốc dân” cho nông dân.
Hễ ai thông thạo cải cách nông thôn Trung Quốc, đều không quên lịch sử của “Năm văn kiện số 1” đã từng nêu ra. Từ năm 1982 đến năm 1986, năm năm liền Trung ương đảng đã chế định và ban bố chính sách trọng đại về công tác nông thôn dưới hình thức văn kiện số 1, năm văn kiện số 1 Trung ương này đã huy động rất lớn tính tích cực của đông đảo nông dân lúc bấy giờ, từ đó làm cho công tác nông thôn của Trung Quốc được đột phá to lớn. “Văn kiện số 1” lần này xuất hiện trở lại làm cho mọi người cảm thấy thấm thía sự quan tâm sâu sắc của Trung ương đảng khóa mới đối với vấn đề “tam nông”.
Tháng 3 năm 2003, “Hai hội nghị” mọi người chú ý quan tâm họp ở Bắc Kinh, có thể nói vấn đề “tam nông” một lần nữa trở thành vấn đề làm mọi người quan tâm ở “hai hội nghị” lần này. Tại hội nghị lần này, “Định luật Hoàng Tông Hy” vốn dĩ thuộc về ngôn ngữ học thuật, qua sự trình bày của Thủ tướng mới Ôn Gia Bảo, đã đi ra khỏi thư phòng, mọi người đều biết. “Người cộng sản nhất định có thể ra khỏi cái vòng kỳ quái của định luật Hoàng Tông Hy!”. Câu nói đó của Ôn Gia Bảo thể hiện dũng khí và quyết tâm của chính phủ khóa mới giải quyết vấn đề “tam nông”.
Ngày 3 tháng 4 năm 2003, ngày thứ 16, Ôn Gia Bảo chính thức nhậm chức Thủ tướng Quốc Vụ viện, chính phủ Trung ương khóa mới triệu tập hội nghị truyền hình điện thoại công tác thí điểm cải cách thuế phí nông thôn toàn quốc, hành động nhanh, nhịp độ nhanh chưa từng thấy. Nói là làm, cũng giống như làm người ta nhớ đến lời tự bạch của đồng chí khi trả lời phóng viên hôm nhậm chức: “Tôi là một người ôn hòa, nhưng đồng thời, tôi lại là một người có niềm tin, có chủ kiến, dám chịu trách nhiệm”. Tại hội nghị truyền hình điện thoại này, đồng chí trịnh trọng tuyên bố: “Trung ương quyết định, năm nay công tác thí điểm cải cách thuế phí nông thôn triển khai trong phạm vi toàn quốc. Đây là một quyết sách trọng đại đi sâu cải cách nông thôn, thúc đẩy nông thôn phát triển!
Đây quả thực lại là một quyết sách trọng đại có ý nghĩa tiêu chí. Có thể cho rằng, quyết sách này là một cột mốc cải cách đi vào chiều sâu mà chính phủ hai khóa liên tục quan tâm.
Tất nhiên, từ trong phát biểu của Thủ tướng Ôn Gia Bảo không khó nhận ra, đi sâu cải cách không chỉ thể hiện ở khu vực thí điểm mở rộng ra toàn quốc mà càng ở chỗ một số tin tức mới lần này để lộ ra. Một thay đổi chính sách trực tiếp nhất là thuế đặc sản nông nghiệp sẽ bị bãi bỏ toàn diện!
Bộ trưởng Tài chính mới Kim Nhân Khánh nói rõ khi trả lời phỏng vấn: Thành thị phải nuôi lại cho nông thôn, công nghiệp phải nuôi lại cho nông nghiệp. Giải quyết vấn đề “tam nông” là một trong những mục tiêu điều hành chủ yếu của chính phủ khóa này. Mặc dù nước ta còn nghèo, nông thôn muốn hưởng toàn bộ tài chính công cộng một lúc cũng chưa làm được, nhưng chúng ta phải kiên định tiến lên phía trước, bắt đầu từ bây giờ sẽ từng bước mở rộng nguồn tài chính cho mặt này. Để làm cho bố cục phân phối thu nhập quốc dân điều chỉnh theo hướng càng có lợi cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân, Trung ương đã xác định từ nay về sau tổng số lượng tăng chi sẽ trọng điểm dành cho các mặt văn hóa, y tế, giáo dục, nông thôn!
Chỉ hơn một tháng sau, ngày 1 tháng 6, một tin cổ vũ mọi người truyền đi từ vùng đất An Huy: tiếp theo sau cải cách thuế phí, tỉnh An Huy lại một lần nữa dẫn đầu toàn quốc tiến hành thí điểm cải cách thể chế lương thực, mở cửa toàn diện giá cả thu mua lương thực, mở cửa toàn diện thị trường mua bán lương thực; đồng thời điều chỉnh toàn diện phương thức trợ cấp lương thực, sửa đổi việc trợ cấp gián tiếp thông qua hệ thống lương thực nhà nước thành cách làm theo thông lệ quốc tế, trợ cấp trực tiếp đến tay nông dân.
Cải cách lấy phương thức trợ cấp lương thực làm nội dung cốt lõi này có thể nói là một đột phá to lớn đối với chính sách nông nghiệp của nước ta!
Lại một tháng nữa trôi qua, trong “Diễn văn 1 tháng 7”, Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào đã nêu ra tư tưởng quan trọng “Lập đảng vi công, cầm quyền vì dân”, yêu cầu cán bộ lãnh đạo các cấp phải “quyền lực dùng cho dân, tình cảm gắn bó với dân, mưu cầu lợi ích cho dân”, đặt lợi ích của nhân dân ở vị trí cao hơn tất cả, luôn luôn ghi nhớ “lợi ích của nhân dân không có việc gì nhỏ”. Tiếp đó, ngày 30 tháng 8, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa mới thông qua “Luật giấy phép hành chính”. Đây là một đạo luật có tính khai sáng. Trước đây từ Trung ương đến địa phương không biết lập ra bao nhiêu hạng mục phê duyệt hành chính, thêm một giấy phép thì thêm một lần thu phí, thu phí không công khai, không minh bạch, nhân dân không đồng tình. Có bộ luật mới quan trọng này không chỉ có thể giải quyết từ đầu nguồn hiện tượng hủ bại nảy sinh trong quá trình vận hành quyền lực, mà còn có bảo đảm về mặt chế độ luật pháp trong việc giải quyết sâu hơn “ba bừa bãi” trong nông thôn.
Một loạt biện pháp lớn này rõ ràng là một thứ “sửa chữa khôi phục” mà “vết thương cứng” của cải cách vốn có. Có lẽ việc “sửa chữa khôi phục” này không “tập trung binh lực xốc tới” đến hoa mắt và kích động lòng người, không đao to búa lớn, càng không dùng bạo lực.
Phương thức mưa to gió lớn triển khai mạnh mẽ, nhưng nó thể nghiệm và xem xét dân tình, tìm hiểu ý dân, tập trung dân trí, và lại quý trọng sức dân, không phải trên đầu lưỡi mà là thực tế để cho người ta thấy được bức tranh chính sách thực sự cầu thị của chính phủ mới này đang dần dần mở ra.
Tất nhiên, chúng ta cũng chú ý đến, lần này mở rộng cải cách thuế phí nông thôn ra toàn quốc, vẫn còn bảo lưu hai chữ “thí điểm”, vì vậy có thể dự đoán, cuộc cải cách nông thôn vĩ đại đã được xác định là “thúc đẩy toàn bộ, tiến hành đồng bộ” này vẫn phải trải qua một quá trình tương đối phức tạp và gian nan.
Ngày nay, cải cách nông thôn Trung Quốc không nghi ngờ gì nữa đã bước vào một thời kỳ then chốt nhất lại là khó khăn nhất: Sau lưng không có đường lui, dưới chân là bãi mìn, cải cách đụng chạm đến vấn đề chế độ sở hữu ở tầng nấc sâu, đụng chạm đến vấn đề thể chế kinh tế kết hợp với thể chế chính trị, mức độ khó khăn chưa từng có. Nhưng việc hình thành chủ thể lợi ích xã hội đa nguyên hóa làm cho cải cách mở cửa của chúng ta ngày nay có cơ sở xã hội và động lực đi sâu chưa từng có, có xu thế không thể đảo ngược, đặc biệt là có một Trung ương đảng mới do Hồ Cẩm Đào đứng đầu có thể mong đợi, chúng ta không có lý do gì không tràn đầy lòng tin, cùng với 900 triệu bạn nông dân đón chào một lần mặt trời lên tráng lệ nữa trong lịch sử của Trung Quốc!
Tháng 10 năm 2001 chấp bút
Tháng 10 năm 2003 bản thảo thứ ba.