Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Bài Viết >> Điều tra nông dân Trung Quốc

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 8624 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Điều tra nông dân Trung Quốc
Trần Quế Đệ, Xuân Đào

Chương 5

18. Chiếc vòng kỳ quái
“Vụ án nông dân bị đánh chết” ở Thẩm Trại là vụ án có ảnh hưởng lớn nhất, chấn động cả trong ngoài nước, có tính điển hình nhất trong các vụ án lớn từng xảy ra ở nông thôn Trung Quốc.
Thôn Thẩm Trại thuộc trấn Trung Cương, huyện Phụ Nam, tỉnh An huy là vùng trũng chứa nước nổi tiếng cả nước. Mỗi lần nước sông Hoài lên to, để bảo vệ thành phố Bạng Phụ quan trọng ở hạ du, bảo vệ thành phố than Lưỡng Hoài, bảo vệ đường sắt đi qua, và để bảo vệ cả một giải Giang Tô, Triết Giang, Thượng Hải khỏi tai họa lụt lội, nông dân ở vùng này đã phải hy sinh rất lớn; cả một vùng đất mùa màng tươi tốt, trong giây phút biến thành “biển nước”, ruộng vườn biến thành đầm lầy, nhà cửa, đồ dùng trong nhà, bao nhiêu năm mới có được, thường chỉ sau một trận lụt lớn là hầu như không còn gì.
Người tiếp nhận phỏng vấn của chúng tôi nói: kẻ nào lăng nhục nông dân ở đây sẽ bị trời phạt!
Tuy vậy, Thẩm Khả Lý, bí thư chi bộ thôn, chủ nhiệm ủy ban thôn lại là một kẻ không từ bất kỳ tội ác nào.
Thực ra, trước đó Thẩm Khả Lý là một thanh niên có nhiệt huyết, đã đi bộ đội, và được vào đảng trong quân đội. Sau khi thoái ngũ về thôn, mọi người thấy hắn ta tiến bộ nên bầu làm trưởng thôn. Lúc vừa mới nhậm chức, quả thực là mọi việc hắn ta đều vì mọi người mà nghĩ và đúng là hắn ta đã làm được không ít việc cho thôn dân, được mọi người đánh giá tốt, sau đó vinh dự được bầu là bí thư chi bộ kiêm chủ nhiệm ủy ban thôn, còn được bầu làm đại biểu hội đồng nhân dân trấn. Thế nhưng một khi địa vị thay đổi, kiến thức được mở mang, đầu óc hắn ta bắt đầu chuyển biến, lòng ham muốn riêng bắt đầu bành trướng. Hắn ta phát hiện, trong cuộc sống xã hội hôm nay có rất nhiều hiện tượng xấu xa tranh lợi với dân, chỉ cần có thể kiếm được lợi là rất nhiều bộ môn chính quyền, cơ cấu quyền lực đã tranh nhau dùng danh nghĩa quản lý, quy phạm để tập trung vốn bừa bãi, phạt tiền bừa bãi, thu phí bừa bãi, nhưng thấy không có lợi là đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, “vì nhân dân phục vụ” đã biến thành “vì nhân dân tệ [1] phục vụ”, quản lý có nghĩa là thu phí. Thế là hắn ta cảm thấy, chỉ có thằng ngốc mới không vơ vét. Vì thế trong con mắt hắn ta: trao đổi quyền tiền, đầu cơ kiếm lời đã trở thành con đường tắt để leo lên cao, thăng quan tiến chức; tham ô nhận hối lộ, không từ bất cứ thủ đoạn nào đã được coi là một bí quyết để thu lượm tiền của làm cho gia đình giàu có. Dần dần hắn ta trở nên ngang ngược tàn ác, tham lam hung bạo, biến thôn Thẩm Trại thành “thiên hạ riêng” của mình. Trước tiên hắn đưa người em trai lớn là Thẩm Khả Tín giữ chức đội trưởng đội liên phòng của thôn, người em trai thứ hai Thẩm Khả Tuệ cũng trở thành đội viên chuyên nghiệp của đội liên phòng, đồng thời còn dùng tiền của công trang bị cho súng và dùi cui điện; tiếp đó lại cử em trai thứ ba Thẩm Siêu Quần làm đội trưởng đội Hậu Trại. Đã có ba quyền “đảng, chính, quân” trong tay, lại có ba người em chắp cánh cho mình, nên ở Thẩm Trại, trừ phi tìm không thấy thang để lên trời ra, không có việc gì là Thẩm Khả Lý không làm được.
Ngày 4 tháng 1 năm 1995, rốt cuộc ở Thẩm Trại đã phát sinh một vụ án đặc biệt ác liệt: do mang súng đến nhà trưng thu tiền để lại của nông dân mà làm cho một người chết, hai người bị thương, kinh động đến cả Trung ương đảng và Quốc Vụ viện.
Trước khi vụ án chết người này bước vào trình tự xét xử của tòa án, đài truyền hình Trung ương đã được lệnh cử phóng viên đến tận nơi, sau khi vụ này, qua “phóng sự đặc biệt” được phát đi, đã lập tức làm rung động cả nước, bạn bè nông dân khắp nơi tới tấp gửi thư, gửi điện, yêu cầu trừng trị nghiêm hung thủ và truy cứu trách nhiệm lãnh đạo của các bộ môn có liên quan. Hiển nhiên cũng là vì tính chất của vụ án mạng do sự đóng góp của nông dân này quá xấu xa, nên không ít cơ quan truyền thông ở hải ngoại đã mượn cớ làm rùm beng. Để dẹp yên sự phẫn nộ của dân, làm cho tà ác sợ hãi, tòa án tối cao tỉnh An Huy đã nhanh chóng mở phiên tòa chung thẩm, lần lượt kết án Thẩm Khả Tín tử hình, Thẩm Khả Lý tử hình nhưng hoãn thi hành vì tội cố ý giết người, tước đoạt quyền lợi chính trị của hai người suốt đời.
Vào lúc tòa án tối cao tỉnh phê chuẩn án tử hình của Thẩm Khả Tín, yêu cầu tòa án trung cấp Phụ Dương lập tức chấp hành thì viện trưởng Hàn Vân Bình vô cùng bất ngờ nhận được một điện thoại khẩn gọi từ Bắc Kinh. Qua điện thoại, Nhiệm Kiến Tân lúc đó là bí thư ban bí thư Trung ương đảng, bí thư ủy ban chính pháp Trung ương, chánh án tòa án nhân dân tối cao, ra chỉ thị rõ ràng: việc xử án tử hình kẻ phạm tội làm chết nông dân vào ngày mai, tạm dừng lại, phóng viên đài vô tuyến truyền hình Trung ương sẽ truyền hình trực tiếp cuộc tuyên án, sau đó mới tiến hành xử bắn.
Đó là một cú điện thoại không bình thường, một cuộc sắp xếp không bình thường, làm cho việc xét xử công khai vụ án chết người ở Thẩm Trại cũng trở thành không bình thường.
Và cũng rõ ràng là, tình huống đó chưa hề có trong lịch sử tòa án nhân dân của nước cộng hòa.
Chúng tôi đã phỏng vấn vị chánh án xử vụ việc này, ông đã cho biết thêm một mẩu chuyện lý thú. Ông nói, khi biết phóng viên đài truyền hình Trung ương được lệnh đến An Huy, để trực tiếp truyền hình buổi tuyên án, bí thư thị ủy Phụ Dương lúc đó là Vương Hoài Trung đã phải vất vả suy nghĩ rất nhiều, cuối cùng mới quyết định buổi tuyên án tiến hành tại tòa án huyện. Sau khi các phóng viên đến, ông ta còn sợ họ đến thôn Thẩm Trại phỏng vấn, sẽ phát hiện được cái nghèo rớt mùng tơi và phản cảm của thôn dân thôn này về việc đóng góp nặng nề, và một khi họ đưa lên màn ảnh, thế tất ảnh hưởng đến công lao và hình tượng của mình, nên đã sắp xếp cho các phóng viên ở tại nhà khách Văn Phong, thậm chí còn khổ tâm tính toán mời mấy cô phục vụ hòng “buộc chân” họ lại. Thế nhưng các phóng viên không nhận tình cảm đó, họ vẫn tìm cách đi Thẩm Trại và ghi hình tại hiện trường.
Ngày mở phiên tòa tuyên án, không gian có hạn của sân tòa án huyện không sao chứa nổi những nông dân từ bốn phương tám hướng kéo đến như nước chảy, cả thị trấn huyện Phụ Nam như có ngày hội lớn.
Ngày hôm đó, đài truyền hình Trung ương ngoài việc trực tiếp truyền cảnh hàng vạn nhân dân vui sướng hoa chân múa tay khi thấy Thẩm Khả Tín bị giải ra pháp trường, còn chính thức công bố quyết định xử lý kỷ luật của đảng và chính quyền đối với bí thư, chủ tịch huyện Phụ Nam và bí thư đảng ủy, chủ tịch trấn Trung Cương. Cũng trong buổi truyền hình trực tiếp hôm đó, đài truyền hình Trung ương còn đặc biệt dẫn một câu nói của Thủ tướng Chu Dung Cơ:
“Từ nay trở đi, kẻ nào còn dám vi phạm quy định của Trung ương, làm nặng thêm đóng góp của nông dân, thì sẽ lôi kẻ đó ra hỏi”.
Sự việc này tuy xảy ra tại An Huy, nhưng sau đó qua “Thông báo về các vụ án ác liệt dính líu đến sự đóng góp của nông dân trong năm 1995” do Văn phòng Trung ương đảng và Văn phòng Quốc Vụ viện liên hiệp công bố, có thể biết được, chỉ riêng trong năm đó, tám tỉnh trong cả nước trước sau đã phát sinh mười ba vụ án ác liệt như ở Thẩm Trại. Tất nhiên trong mười ba vụ án đó, tính chất “vụ án mạng do nông dân đóng góp ở Thẩm Trại” là ác liệt nhất, đứng đầu các vụ án.
Để thể hiện rõ quyết tâm kiên định của Trung ương đảng, Quốc Vụ viện kiên quyết giảm nhẹ sự đóng góp của nông dân, quyết không nhẹ tay trong việc kiểm tra các hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật trong việc tăng thêm đóng góp của nông dân, “Thông báo tình hình” số ra thời gian đó đã được gửi tới đảng ủy, chính quyền các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc, đảng ủy các đại quân khu, đảng ủy các ban, bộ của Trung ương và Quốc Vụ viện, các bộ tổng của quân ủy, đảng ủy các cơ quan, binh chủng, các đoàn thể nhân dân, đồng thời còn yêu cầu gửi thẳng đến cấp huyện và trung đoàn, truyền đạt đến các chi bộ đảng và ủy ban thôn trong nông thôn toàn quốc.
Thế nhưng, điều khiến người ta nghi hoặc và càng làm cho người ta đau lòng, là tất cả những việc làm đó đã không ngăn chặn được một vụ án mạng xảy ra một năm sau đó tại xóm Tiểu Trương, xã Đường Nam huyện Cá Trấn.
Tính chất của vụ án mạng tại xóm Tiểu Trương rõ ràng là còn ác liệt hơn nhiều so với vụ án mạng tại Thẩm Trại, làm người ta càng khiếp sợ hơn.
Và đâu chỉ có một vụ án mạng tại xóm Tiểu Trương.
Chúng ta cần chú ý rằng, sau khi vụ án mạng do đóng góp quá nặng của nông dân Đinh Tác Minh xảy ra tại thôn Lộ Doanh, xã Kỷ Vương Trường, huyện Lợi Tân, tỉnh An Huy, Văn phòng Trung ương, Văn phòng Quốc Vụ viện, hầu như mỗi năm đều gửi “Thông báo tình hình các vụ án ác tính liên quan đến việc đóng góp của nông dân” cho cả nước. Có khi, một năm gửi tới hai lần. Chỉ từ sau khi xảy ra vụ thảm án ở xóm Tiểu Trương, trong nửa đầu năm 1999, các vụ án mạng liên quan đến đóng góp của nông dân trong cả nước đã có tới tám vụ. Trong đó tỉnh Hồ Nam ba vụ, tỉnh Tứ Xuyên hai vụ, ba tỉnh Hồ Bắc, Cam Túc, Hà Nam mỗi tỉnh một vụ. Về nguồn gốc của tám vụ, trong thông báo ghi rất rõ ràng: “Theo báo cáo của các địa phương”.
Báo cáo lên là tám vụ, liệu có nơi nào không báo cáo không?
Chí ít có thể nhận định, vụ án ác tính đặc biệt lớn xảy ra tại xóm Tiểu Trương xã Đường Nam tỉnh An Huy đã được che giấu chưa báo cáo. Thế mà chỉ một vụ này đã có bốn người chết, một người bị thương.
Chúng ta có bao nhiêu anh chị em nông dân bất hạnh vì tranh thủ “giảm đóng góp” mà bị vô tình cướp đi sinh mệnh, mà những đóng góp của nông dân ở các nơi vẫn không sao cấm được, hơn nữa còn ở xu thế càng ngày càng gay gắt; những vụ án ác tính liên quan đến sự đóng góp của nông dân vẫn xảy ra, hơn nữa còn kéo dài không dứt.
Vì sao có chuyện đó?
Rốt cuộc vì sao có chuyện đó?
Vấn đề đóng góp của nông dân, rõ ràng là đã đi vào chiếc vòng kỳ quái.
Cần phải nói rằng, đảng và chính phủ nhân dân đã cố gắng về nhiều mặt để giảm nhẹ đóng góp của nông dân. Khi chúng tôi bắt đầu làm công tác điều tra này, đã phát hiện được, các thông tri gửi xuống dưới, các điều lệ được công bố, các quyết định được đưa ra, các thông báo được gửi đi của Trung ương đảng và Quốc Vụ viện không những ngọn cờ rõ ràng mà còn sử dụng những lời lẽ rất nghiêm khắc. Thế nhưng thái độ kiên quyết của Trung ương, văn kiện đóng dấu đỏ cái nọ tiếp cái kia gửi đi vẫn không giải quyết được vấn đề đóng góp của nông dân tồn tại phổ biến ở các nơi.
Và chúng tôi không sao hiểu nổi.
Thực ra, ngay từ năm 1985, Trung ương đảng cộng sản và Quốc Vụ viện Trung Quốc đã gửi “Thông tri về việc ngăn chặn thu tiền bừa bãi, thu phí bừa bãi với nông dân”; tháng 2 năm 1990, một lần nữa Quốc Vụ viện ra “Thông tri về việc thiết thực giảm nhẹ đóng góp của nông dân”; tháng 9 cùng năm, Trung ương đảng cộng sản và Quốc Vụ viện Trung Quốc đã liên hiệp đưa ra “Quyết định về việc kiên quyết ngăn chặn thu phí bừa bãi, phạt tiền bừa bãi và các loại phân bổ”. thế nhưng có lệnh mà vẫn không dừng, vấn đề đóng góp của nông dân vẫn một mạch tăng lên. Có tư liệu cho thấy: đến năm 1991, thu nhập ròng của nông dân toàn quốc chỉ tăng 9,5% so với năm trước, thế nhưng các khoản “giữ lại thôn” và “xã trù hoạch” của nông dân trong cùng thời kỳ đã tăng 16,7%; công nghĩa vụ mà sức lao động nông thôn phải gánh chịu và công tích lũy lao động, bắt buộc phải trả bằng tiền so với năm trước tăng 33,7%.
Ngày 17 tháng 12 năm 1991, Thủ tướng Lý Bằng ký lệnh số 92 của Quốc Vụ viện công bố một cách rõ ràng “Điều lệ quản lý chi phí và dịch vụ lao động do nông dân đóng góp” có hiệu lực pháp luật. “Điều lệ” này đưa ra nhiều quy định cứng rắn. Thế nhưng hiệu quả rất nhỏ. “Thảm án Đinh Tác Minh” làm chấn động Trung ương chính đã xảy ra một năm sau khi “điều lệ” này được công bố. Một thanh niên hào hoa phong nhã hết mực, chỉ vì phản ảnh với huyện ủy vấn đề đóng góp nặng nề không thể chịu nổi mà bị đánh chết tươi tại trụ sở công an xã. Trung ương không chỉ cử tổ điều tra, mà trong thời gian không đến một tháng sau khi sự kiện phát sinh đã liên tiếp truyền đạt xuống dưới hai thông tri khẩn cấp với những lời lẽ nghiêm khắc, đồng thời tuyên bố hủy bỏ ba mươi bẩy hạng mục trong các hạng mục nông dân phải đóng góp, tạm hoãn chấp hành hai mục, cần phải sửa đổi bẩy mục, kiên quyết sửa chữa mười bốn mục về hành vi cưỡng chế, phân bổ và thu phí xe cộ, đồng thời hủy bỏ bốn mươi ba mục hoạt động đạt tiêu chuẩn phải nâng cấp. Sau đó không lâu, Trung ương lại chuyển gửi xuống dưới “ý kiến của Bộ Nông nghiệp, Ủy ban giám sát, Bộ Tài chính, Ủy ban kế hoạch nhà nước, Cục pháp chế Quốc Vụ viện về việc giảm nhẹ tình hình đóng góp của nông dân và công tác từ nay về sau”, nhắc lại “ba ước pháp”: đình chỉ mọi việc tập trung vốn và các hạng mục phân bổ không phù hợp quy định và không phù hợp thực tế; đình chỉ phê duyệt mọi hạng mục thu phí mới, cấm mọi hoạt động đạt tiêu chuẩn lên cấp đòi hỏi nông dân xuất tiền, xuất vật, xuất công; mọi hạng mục mà “Thông tri về ý kiến xử lý, xét duyệt những hạng mục liên quan đến đóng góp của nông dân” của Trung ương đã ra lệnh rõ phải thủ tiêu, bất kỳ địa phương và bộ môn nào cũng không có quyền khôi phục, phần giữ lại và trù hoạch chung do Quốc Vụ viện quy định không được vượt quá mức tỷ lệ 5% thu nhập ròng trung bình của nông dân năm trước.
Điều kỳ quái là, những “văn kiện đóng dấu đỏ” đến từ tầng lớp quyết sách cao nhất của Trung Quốc ấy, cái nọ nối cái kia được đưa xuống dưới, nhưng đóng góp của nông dân không vì thế mà giảm nhẹ.
Sau khi đọc tỉ mỉ một số văn kiện có tính quyền uy nhất, chúng tôi chú ý đến một điều, đó là những văn kiện có tính chính sách ấy, mặc dù đều rất cụ thể, nhưng không phải là kế sách trị tận gốc, phần lớn chỉ để ý đến việc xem xét kỹ để phân biệt nhiều hạng mục phân bổ quá, vì thế khi quyết định tạm đình chỉ một hạng mục nào tất nhiên phải ảnh hưởng đến lợi ích cụ thể của một số bộ môn của chính quyền, nên những bộ môn này sẽ nhanh chóng thay đổi bộ mặt, sáng tạo ra một số hạng mục thu phí mới, không nằm trong phạm vi cấm của lệnh đã ban, mà nếu có nằm trong phạm vi của lệnh cấm, thì những bộ môn này cũng có thể thông qua văn kiện chính sách của bộ môn mình, hoặc là lại do bộ môn khởi thảo lời nói của lãnh đạo, đại diện cho lợi ích của bộ môn, cung cấp căn cứ mới cho việc khôi phục chấp hành hạng mục cũ. Thậm chí có nơi về căn bản không cần phải “biến báo”, dứt khoát để ngoài tai, từ chối không chấp hành văn kiện của Trung ương.
Còn về một số “văn kiện đóng dấu đỏ” với lời lẽ nghiêm khắc nào đó, mặc dù đã đề xuất nội dung “không cho phép” hoặc “nghiêm cấm”, nhưng có đến hơn một nửa là nêu nguyên tắc hoặc tinh thần. Những cái vừa chẳng có sự ràng buộc cứng rắn, và chẳng phải là điều lệ pháp luật, vừa không thể định rõ giới hạn lại vừa không thể thao tác, có nói cũng như là không nói.
Thế là quyết định hủy bỏ, nhưng lại không bị hủy bỏ; quyết định sửa chữa nhưng lại không sửa chữa; quyết định tạm hoãn, cũng lại không tạm hoãn, hơn nữa những hạng mục phân bổ so với trước càng nhiều, càng nát, càng hoang đường lại cứ nối tiếp nhau xuất hiện. Thế rồi việc hạn chế và trị lý “ba cái loạn” ở nông thôn cũng biến thành “cắt rau hẹ”, hoặc là “cạo râu”, cắt rồi lại mọc, cạo rồi lại dài, vòng đi vòng lại.
Trong điều tra phỏng vấn tại hơn năm mươi huyện ở An Huy, hầu như chúng tôi không phát hiện được một xã, trấn nào hoàn toàn làm việc theo tinh thần của văn kiện Trung ương và các quy định có liên quan của Quốc Vụ viện.
Chúng tôi tin rằng, tình hình đó quyết không phải chỉ một tỉnh An Huy có riêng.
Lý Xương Bình, bí thư đảng ủy xã Kỳ Bàn, huyện Giám Lợi, tỉnh Hồ Bắc, người rưng rưng nước mắt viết thư lên Trung ương đã từng nói: “Trung ương biết rõ, mặc dù vấn đề xuất hiện tại xã, trấn, nhưng gốc rễ của nó lại ở bên trên, thế thì vì sao lại không truy cứu nguồn gốc? Bất kể nguyên nhân là cái gì, sao Trung ương không truy cứu; không truy cứu thì gan mật của quan chức địa phương sẽ càng ngày càng to, cơ cấu và nhân viên mỗi năm so với trước sẽ càng bành trướng, đóng góp của nông dân sẽ mỗi năm ngày càng nặng nề. Chính sách của Trung ương đối với một số người mà nói, đã thành cái tai của người điếc - một vật trang trí”.
Đến năm 1994, tình hình đóng góp của nông dân đã vô cùng nghiêm trọng, chính phủ Trung ương tiến hành cải cách toàn diện trong cả nước về chế độ thuế, thuế đất, phân thuế, do sự tập trung quyền lực của Trung ương về thuế, nên tài chính trong dự toán của chính quyền địa phương đã xuất hiện khó khăn chưa từng có. Thể chế tài chính đầu nặng chân nhẹ, thu nhập tài chính nghiêng về bên trên mà chi tiêu lại đẩy xuống dưới đó, cộng thêm việc vứt bỏ không quản đến các hạng mục chi tiêu ở nông thôn như giáo dục nghĩa vụ, sinh đẻ có kế hoạch, trợ cấp cũng như huấn luyện dân quân, cái đem cho chính quyền xã, trấn chỉ là chính sách, mà chính sách đó là: “thu vượt không phải nộp, chi vượt không bổ sung, thu nhiều thì chi nhiều” và điều này đã buộc, đồng thời hấp dẫn chính quyền xã, trấn các nơi không thể không dựa vào việc chiếm hữu giá trị thặng dư, bóc lột nông dân để duy trì sự vận hành.
Đóng góp của nông dân giống như quả bóng tuyết đang lăn, càng ngày càng nặng.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp, hai loại thuế nông nghiệp (thuế nông nghiệp và thuế đặc sản nông nghiệp) năm 1995 so với năm trước tăng trưởng 19,9%, trưng thu chi phí so với năm trước tăng 48,3%, còn các loại đóng góp xã hội như thu phí có tính hành chính sự nghiệp, phạt tiền, tập trung vốn, phân bổ v.v..., so với năm trước tăng 52,22%. Năm này, đóng góp của nông dân trong một phần ba tỉnh, thành phố, khu tự trị đều vượt qua “giới hạn lớn” 5% mà nhà nước đã quy định.
Nhưng đây rõ ràng là những con số thống kê bảo thủ.
Rất nhiều ca dao, câu nói đã thể hiện lòng căm tức và không biết làm thế nào của nông dân:
Bẩy ngón tay, tám ngón tay đều chìa về phía nông dân,
Anh tập trung, tôi tập trung, hắn tập trung, nông dân sốt ruột; anh gọi tiền, tôi gọi tiền, hắn gọi tiền, nông dân buồn nhất”. Hoặc:
Thúc lương thực, thúc tiền, thúc cuộc sống,
Phòng hỏa hoạn, phòng trộm, phòng cán bộ”.
Một câu vè được lưu truyền rất rộng, dường như được nông dân coi là bài hát để hát: “nói phét giỏi, tán gẫu hay, thôn lừa xã, xã lừa huyện, một mạch lừa đến Quốc Vụ viện; Quốc Vụ viện, ra văn kiện, từng cấp từng cấp ra sức niệm, chỉ lo truyền đạt không nói đến thực hiện”.
“Sự kiện Bạch Miếu” của huyện Lâm Tuyền tỉnh An Huy đã phát sinh trong bối cảnh đó.
Thôn dân thôn Vương Doanh, trấn Bạch Miếu phản ánh vấn đề nông dân đóng góp quá nặng của thôn họ, vốn chỉ hy vọng trấn Bạch Miếu quán triệt chính sách giảm nhẹ của Trung ương, thế nhưng trên trấn không nghe không hỏi, nên thôn dân mới phải tìm đến huyện, nhưng trên huyện lại tìm mọi cách đùn đẩy, nên thôn dân đành phải tiếp tục tìm lên trên, từ huyện lên tỉnh, rồi đến lên thủ đô phản ánh vấn đề. Thế nhưng vấn đề không những không được giải quyết mà ngược lại còn bị trấn áp vũ lực ở huyện, chỉ đến khi xảy ra sự kiện quỳ lạy cờ ở quảng trường Thiên An Môn khiến người ta đau lòng, tạo thành ảnh hưởng xã hội vô cùng ác liệt, thì vấn đề của thôn Vương Doanh mới được coi trọng. Bài học của sự việc này là sâu sắc.
Đến năm 1996, Trung ương đảng cộng sản, Quốc Vụ viện Trung Quốc đã hình thành “Văn kiện số mười ba” rất nổi tiếng, đó là: “Quyết định về việc thiết thực làm tốt công tác giảm nhẹ đóng góp của nông dân”. Quyết định chỉ ra một cách vô cùng rõ ràng: “Phàm là những vụ án ác tính do tăng nặng thêm sự đóng góp của nông dân mà dẫn tới những sự kiện nghiêm trọng, gây ra làm chết làm bị thương người, đều phải truy cứu trách nhiệm của những người phụ trách chủ yếu và những người chịu trách nhiệm trực tiếp ở xã, trấn, nếu liên quan đến trách nhiệm lãnh đạo của địa khu [2] , huyện, thì phải theo quy định có liên quan, truy cứu trách nhiệm những người lãnh đạo chủ yếu của địa khu, huyện nhằm rút ra bài học; các đồng chí lãnh đạo chủ yếu về đảng, chính quyền của các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc liên tục xảy ra sự kiện nghiêm trọng và các vụ án ác tính làm chết, làm bị thương người, phải kiểm điểm bằng văn bản với Trung ương đảng và Quốc Vụ viện; những hành động che giấu vụ án, xếp xó vụ án, báo cáo nhưng không kiểm tra, hoặc đả kích báo thù người tố cáo, một khi phát hiện được, phải xử lý nghiêm. Phải tăng nhanh công tác lập pháp, giám sát, đôn đốc, quản lý sự đóng góp của nông dân”.
Văn kiện yêu cầu đảng ủy, chính quyền các cấp phải nghiêm chỉnh quán triệt mười ba điều quyết định: “từng hạng mục, từng điều quán triệt thực sự, quyết không cho phép xuất hiện bất kỳ hiện tượng cản trở nào, quyết không cho phép biến dạng trong chấp hành”. thậm chí còn đặc biệt chỉ ra: “Sau dịp tết, dùng thời gian một tháng đưa nội dung quyết định trực tiếp đến đông đảo quần chúng nông dân, đồng thời phải tuyên truyền nhiều lần, làm cho mỗi nhà, mỗi hộ đều hiểu”.
“Văn kiện số mười ba” của Trung ương, cho thấy rõ thái độ rõ ràng của Trung ương đảng, Quốc Vụ viện về việc giảm nhẹ đóng góp của nông dân, mà quyết tâm kiên định như sấm nổ trên trời, đã làm khắp đất nước cảm động.
Để kiểm tra tình hình quán triệt các biện pháp chính sách giảm nhẹ đóng góp có liên quan của Trung ương và đôn đốc các nơi làm tốt hơn nữa công tác đó, Quốc Vụ viện còn cử tổ công tác do Bộ Nông nghiệp, Bộ Giám sát, Bộ Tài chính, Ủy ban kế hoạch nhà nước, Cục pháp chế Quốc Vụ viện và các đơn vị tân văn có liên quan tổ thành, chia nhau tới hiện trường năm tỉnh Hà Nam, Hồ Nam, Hồ Bắc, An Huy, Sơn Tây kiểm tra công tác.
Mà độ mạnh lớn đến như vậy, người tham gia đông đến như vậy, đều chưa hề có.
Thế nhưng, một điều không thể lý giải là, đúng vào năm Trung ương gửi xuống dưới “Văn kiện số mười ba” nổi tiếng, Quốc Vụ viện cử đi đội ngũ kiểm tra giám sát với đội ngũ lớn mạnh đến như vậy thì sự đóng góp của nông dân Trung Quốc đều nặng hơn so với bất kỳ năm nào trong lịch sử.
Theo thống kê của Cục thống kê quốc gia: từ năm 1991 đến năm 1993, tỷ trọng thu thuế nông nghiệp và thuế chăn nuôi chiếm trong các hạng mục thu thuế của cả nước đã có xu thế giảm, giảm tới 2,2%, thế nhưng đến năm 1996, tỷ trọng đó đã cao tới 5,3%, so với mấy năm trước cao hơn hai lần; nếu cộng thêm việc thu phí bừa bãi, phạt tiền bừa bãi và phân bổ bừa bãi thì một năm gian khổ của nông dân rốt cuộc chẳng còn lại bao nhiêu.
Rõ ràng là Trung ương đã chú ý đến tình hình càng ngày càng nghiêm trọng đó, nên chỉ trong mười sáu ngày ngắn ngủi của tháng 5 năm 1997, đã liên tục đưa ba bốn thông tri về việc giải quyết vấn đề “tam nông” [3] , từ quán triệt sự phát triển của nông nghiệp, kiên quyết giữ gìn sự ổn định tại nông thôn cho đến thiết thực bảo vệ lợi ích của nông dân, đều được nhấn mạnh hơn nữa, thể hiện lòng quan tâm của đảng và chính phủ nhân dân với 900 triệu nông dân.
Tuy vậy, những đóng góp xã hội mà nông dân phải chịu đựng đã nặng tới mức chưa hề có. Bất kể là An Huy, hay trong cả nước, do giá cả nông sản phẩm hạ, tốc độ tăng trưởng thu nhập của nông dân đã giảm sút với mức độ lớn, xuất hiện hiện tượng “tăng sản lượng nhưng không tăng thu nhập”, các loại thuế, phí mà chính quyền các nơi trưng thu của nông dân không vì thế mà giảm bớt, ngược lại còn tăng mạnh.
Tư liệu thống kê kinh tế nông thôn của Bộ Nông nghiệp hiển thị: từ năm 1994 đến năm 1997, thu nhập trung bình một năm của nông dân trong 4 năm đó chỉ gấp 1,91 lần của năm 1993, còn những đóng góp mà nông dân trực tiếp nộp vào các bộ môn có liên quan của nhà nước trong cùng 4 năm đó lại trung bình mỗi năm tăng gấp 9 lần, hơn nữa, những đóng góp có tính xã hội, tính hành chính sự nghiệp mà nông dân phải trực tiếp gánh vác trong mấy năm đó cũng gấp hơn 2 lần năm 1993, trong đó phân bổ góp vốn đã gấp 3,38 lần. Điều này có nghĩa là, sự gia tăng đóng góp xã hội của nông dân đã cao hơn nhiều lần so với thu nhập ròng trung bình của nông dân, làm ruộng đã không kiếm được tiền, thậm chí còn phải bù tiền, nhiều nông dân buộc phải vào thành phố làm thuê, dùng đồng tiền đổ mồ hôi sôi nước mắt mới kiếm được nộp cho các khoản sưu cao thuế nặng không bao giờ làm rõ được đó.
Hồi đầu cải cách, đóng góp của một mẫu [4] đất ở nông thôn chỉ là 10 NDT, thời đó nông dân chủ động nộp lương thực, nộp tiền, về căn bản không cần cán bộ đến nhà. Bây giờ, đóng góp của một mẫu ruộng, ít cũng phải hơn 100 NDT, nhiều thì tới hai, ba trăm, gánh nặng thuế, phí trưng thu, rõ ràng đã vượt quá năng lực chịu đựng của nông dân, công tác trưng thu tự nhiên xuất hiện khó khăn. Thế là ở không ít địa phương, đã nối nhau thành lập “đội công tác trưng thu”, hoặc “đội đột kích” đến nhà nông dân thu tiền. Không có tiền thì bắt lợn, khiêng tủ, xúc hạt giống, vác máy đi; thậm chí còn dùng công an, cảnh sát sử dụng cả công cụ và thủ đoạn chuyên chính, cưỡng bức trưng thu, vơ vét nông dân tàn bạo, hiện tượng đánh người, bắt người, nhốt người xảy ra nhiều lần. Quan hệ cán bộ với quần chúng ngày một xấu đi. Sự kiện nêu yêu sách, thị uy, tụ tập trong nông dân phát sinh ngày càng nhiều.
Mặc dù trong năm này, Văn phòng Trung ương đảng cộng sản và Văn phòng Quốc Vụ viện Trung Quốc đã liên hợp ra thông tri đòi hỏi giải quyết và xử lý đúng đắn những sự việc của nông dân như nêu yêu sách, thị uy, diễu hành, hội họp v.v... nhấn mạnh phải giải quyết và xử lý đúng đắn một số tình hình mới và vấn đề mới xuất hiện trong nông thôn. Quyết không được tùy tiện điều động công an, cảnh sát vũ trang làm mâu thuẫn ác hóa. Thế nhưng cũng chính trong bối cảnh đó, huyện Linh Bích, tỉnh An Huy vẫn điều động đông đảo công an, cảnh sát vũ trang, ấp ủ tạo thành “sự kiện thôn Đại Cao”.
Đến năm 1998, Trung ương gửi xuống dưới “Thông tri về việc làm tốt công tác giảm nhẹ đóng góp trước mắt của nông dân”. “Thông tri” nhấn mạnh: “Các địa phương phải rất coi trọng và nghiêm túc làm tốt các công việc liên quan đến công tác thư gửi tới và thắc mắc của nông dân, chú ý lắng nghe tiếng nói của quần chúng, giải quyết mâu thuẫn ở cơ sở, giải quyết vấn đề ở trạng thái mới manh nha.
Thông tri có tên gọi là “Văn kiện số 18 năm 1998 do Văn phòng Trung ương gửi” đặc biệt chú thích rõ: “Văn kiện này phát biểu công khai”.
Đó là lời hứa công khai mà trang trọng của Trung ương đảng và Quốc Vụ viện với nông dân Trung Quốc.
Có thể nói, đó là lệnh ba nhắc bẩy nhở!
Cũng có thể nói, đó là tiếng kêu lớn!
Thế nhưng những vụ án mạng do nông dân đóng góp quá nặng giống như “vụ thảm án ở xóm Tiểu Trương” đã đồng thời xảy ra ở 6 tỉnh trong cả nước.
Quan hệ cán bộ quần chúng xấu đến mức chính quyền xã phải dùng đến một phần tử chưa hết thời kỳ chịu hình phạt làm trưởng thôn, các thôn dân muốn nhịn mà không nhịn nổi đã bầu ra đại biểu yêu cầu quyết toán sổ sách, tên tội phạm tàn bạo độc ác hết mức, ngang nhiên sai con giết luôn 4 người! Sau khi vụ án lớn chấn dộng trời đất xảy ra, huyện Cá Trấn và thành phố Bạng Phụ đều ra sức che giấu vụ án, xếp xó vụ án, cơ quan kiểm sát và tòa án địa phương cũng không kiêng nể mà đoán sai phán lầm, làm cho gia đình những người bị hại không những không được vỗ về an ủi cần phải có mà còn làm cho các đại biểu của thôn dân vì tranh thủ quyền dân chủ mà bị chết oan uổng; sau khi đã bị tước đoạt xác thịt một cách tàn nhẫn, linh hồn còn bị trà đạp hết sức bất hạnh!
Cải cách của Trung Quốc bắt đầu từ nông thôn An Huy, cuộc cải cách long trời lở đất ấy, đã bồi dưỡng được một loạt cán bộ vừa quen thuộc công tác nông thôn lại dám nói lời nói thật.
Ngô Chiêu Nhân, người đã từng lãnh đạo công tác dân số ở An Huy lâu tới 17 năm, là một đảng viên già có cảm tình sâu xa nồng hậu với nông dân. Khi tiếp nhận cuộc phỏng vấn của chúng tôi, ông đã nói với tâm tình nặng nề. Trung ương có “Văn kiện số 13”, nhưng thực ra tỉnh ủy An huy lúc đó còn có một văn kiện càng nghiêm khắc hơn, tức văn kiện số 2 năm 1997, quy định rõ, khi thu phí “giữ lại, trù hoạch chung” của một thôn vượt quá 5% tổng thu nhập ròng trung bình của một người do nhà nước quy định thì bí thư huyện (thị xã) phải báo cáo bằng văn bản lên tỉnh ủy và ủy ban tỉnh. thế nhưng văn kiện chỉ là văn kiện, chúng tôi chẳng hề thấy một bí thư huyện (thị xã), một huyện trưởng nào viết kiểm điểm cả; nếu có xảy ra vụ án lớn, vụ án quan trọng cũng đều do thư ký viết thay rồi đảng ủy và chính quyền đóng dấu, nói là “tập thể chịu trách nhiệm”, thực ra không có một ai chịu trách nhiệm, càng chẳng có người nào rút được bài học cả”.
“Ba nhắc bẩy nhở”, “lệnh không làm, cấm không thôi”, những con chữ này mấy năm nay không ngừng xuất hiện trên các văn kiện và báo chí, người viết căm phẫn, người đọc xem thường. Ngô Chiêu Nhân cho rằng: “Tôi cảm thấy, những loại vụ việc đó không hẳn chỉ trách bên dưới, sợ rằng còn phải tìm nguyên nhân ở bên trên. Vì sao phải ba nhắc bẩy nhở? Cơ quan lãnh đạo phải có uy tín, phải tự mình kiến lập quyền uy, đã nói là phải thực hiện, nói được là phải làm được, người nào không chấp hành thì phải lôi người đó ra hỏi, quyết không lôi thôi dài dòng. Muốn cấm cấp dưới, tự mình phải cấm trước. Chỉ có ra lệnh mà không đốc thúc kiểm tra, hoặc kiểm tra mà không xử lý, xử lý mà không nghiêm thì làm sao cấm được việc trên làm dưới bắt chước?”
Lục Tử Tu, người đi ra từ trong xoáy nước của cuộc cải cách chế độ khoán gắn sản lượng đến gia đình cuối những năm 70 của thế kỷ trước, nay đã rời khỏi chức vụ phó chủ tịch hội đồng nhân dân tỉnh, nhưng không một ngày ngừng suy ngẫm về công tác nông thôn Trung Quốc. Có thể nói, ở An Huy cho đến cả nước, ông đều được coi là một chuyên gia xứng đáng về vấn đề nông thôn. Vào một buổi trưa nóng bức tháng 6 năm 2001, chúng tôi đã phỏng vấn ông tại nhà ông. Ông tặng chúng tôi một tác phẩm chuyên ngành mà ông vừa xuất bản “Bàn về “tam nông””. Chúng tôi chú ý tới lời giới thiệu do Trương Quảng Hữu - phóng viên Tân Hoa Xã lâu năm, viết cho ông, trong đó có những lời đánh giá về ông:
“Trong bài báo nói tại miền Nam nổi tiếng của đồng chí Đặng Tiểu Bình khi bàn đến cải cách nông thôn có nói: cải cách của Trung Quốc bắt đầu từ nông thôn, cải cách nông thôn bắt đầu từ An Huy, Vạn Lý đã lập công. Đối với việc này, đồng chí Vạn Lý nói: sở dĩ cải cách nông thôn đạt được thành tựu như vậy, ngoài sự giúp đỡ của các đồng chí lãnh đạo Trung ương như Đặng Tiểu Bình v.v… và sự ủng hộ tích cực của đông đảo nông dân ra, còn có một điều, là được sự giúp đỡ kiên quyết của một loạt cán bộ lãnh đạo, nhà lý luận, nhà khoa học, nhà văn và người làm công tác tân văn có tư tưởng chính trị mạnh, trình độ lý luận cao, thực sự hiểu biết thực tế, dám nói lời nói thật, dám đấu tranh vì lợi ích của nhân dân. Một loạt cán bộ mà Vạn Lý nói ở đây, có Lục Tử Tu là một người tương đối nổi bật trong đó. Chính vị Lục Tử Tu đó, mặc dù bây giờ đã ở tuổi thất tuần, thế nhưng khi nói tới công tác nông thôn, ông vẫn giống như người còn trẻ lộ ra mấy phần kích động.
Ông và chúng tôi đề cập tới một cuộc họp mà đến nay ông còn canh cánh bên lòng. Đó là một cuộc họp toàn tỉnh về công tác giảm nhẹ đóng góp do tỉnh ủy và ủy ban tỉnh An Huy triệu tập tại Phụ Dương. Khi báo cáo tình hình quán triệt giảm nhẹ đóng góp, có mấy vị bí thư địa ủy nối tiếp nhau nói về nỗi khổ tâm của mình, mặc dù những khổ tâm đó không phải là không có chút đạo lý nào, nhưng Lục Tử Tu nghe không vào. Bởi vì qua mấy chục năm làm công tác nông thôn, từ lâu ông đã có thói quen đứng từ góc độ của nông dân xem xét vấn đề. Mặc dù ông và mấy vị bí thư địa ủy đó rất quen biết, có quan hệ rất tốt, nhưng ông đã đỏ mặt ngay ở hội trường.
Vì hội nghị họp ở Phụ Dương, nên trước tiên, ông đã lôi Vương Hoài Trung bí thư địa ủy Phụ Dương ra khai đao.
Bất chấp thể diện của đối phương, ông gọi thẳng tên: “Vương Hoài Trung, anh chỉ chịu trách nhiệm với tỉnh ủy mà không chịu trách nhiệm với nông dân à! Bất chấp tình hình thực tế của nông dân, ra sức lựa chọn “công trình hình tượng” lắm màu nhiều vẻ, sắp đặt bên ngoài. Anh làm “cái huyện lớn nuôi trâu”, nhưng trâu chỉ nuôi hai bên đường quốc lộ để làm mẫu, mở hội nghị hiện trường thì bỏ tiền thuê trâu đến tập trung cho người ta tham quan. Anh chôn nông dân như vậy chưa đủ hay sao?”
Sau đó lại trực tiếp hỏi Trương Xuân Sinh, bí thư thị ủy Trừ Châu: “Trương Xuân Sinh, tiêu chuẩn đánh giá cán bộ của anh là gì vậy? Trưng thu bừa bãi, phạt bừa bãi, phân bổ bừa bãi, cuối cùng bức tử người, loại cán bộ như vậy có thể dùng được à? Thế mà anh lại cho loại cán bộ ấy làm quan ở nơi này nơi khác như thường!”
Tiếp đó lại chất vấn Phương Nhất Bản, bí thư thị ủy Bạng Phụ: “Phương Nhất Bản, huyện Hoài Viễn không ngừng lên yêu cầu, phản ánh vấn đề suốt nhiệm kỳ trước của anh, đến nay đã xứng tên là “huyện lớn về yêu cầu, phản ánh của tỉnh An Huy”. Chẳng lẽ toàn bộ sai lầm đều đổ vào đầu nông dân, anh không có một tí vấn đề gì ư?”
Rồi ông lại chuyển đầu đề câu chuyện vào Hồ Kế Đạc, bí thư địa ủy Sào Hồ: “Hồ Kế Đạc, anh không móc hầu bao của nông dân thì có sửa xong đường không? Con đường đó, nên do nhà nước bỏ tiền, sao anh lại hô hào dân chúng bỏ tiền? Chưa có tiền đã mở màn động thổ xây dựng đường, ai bảo anh làm thế? Chẳng phải là anh muốn tô vẽ “thành tích lãnh đạo” cho mình à?”
Sau khi điểm tên gọi họ một vòng, ông đau lòng nhằm vào chư hầu các lộ ta thán: “Nhiều cán bộ chúng ta “chỉ xem nhà cửa mọc hàng loạt, không biết người nào có đóng góp; chỉ thấy đường xá thẳng khắp miền, không biết những ai đã bỏ tiền!” Cuộc sống của nông dân chúng ta mới khấm khá được một chút, nhiều người đã coi họ là “thịt Đường Tăng!” Thực ra nông dân rất khổ, người nào cũng có thể ức hiếp họ! Năm đó, khi chúng ta làm cái “khoán lớn” khiến cả nước rung động và đã ảnh hưởng tới cả nước, tổng kết lại chỉ có ba câu thế¿ này thôi: “nộp đủ cho nhà nước, giữ lại đủ cho tập thể, còn lại đều là của nông dân”, thế nhưng hiện nay thì sao? Những cái tốt đẹp mà “khoán lớn” mang lại cho nông dân, từng tý, từng tý một đã bị chính quyền các cấp lặng lẽ lấy đi, ngày nay là “nộp không đủ cho nhà nước, giữ lại không đủ cho tập thể, còn lại chẳng có chút nào là của nông dân!”
Nói đến đó, ông ứa nước mắt: “Không ngờ là cán bộ chúng ta ngày nay không hiểu biết nông dân, không coi trọng nông dân đến như vậy, số cán bộ kết bạn được với nông dân quá ít, quá ít. Tôi đề nghị các vị ngồi ở đây hãy thử “đổi chỗ để suy nghĩ, hãy đặt mình vào hoàn cảnh của nông dân để suy nghĩ một chút, nếu cứ tiếp tục “ba bừa bãi” như thế này, liệu nông dân có thể chịu đựng nổi không?”
Những lời nói của Lục Tử Tu như búa đập vào tấm thép, từng lời từng lời rung động trái tim mọi người.
Mấy vị bí thư thị ủy, địa ủy do bị điểm tên bất ngờ nên đã không khỏi kinh ngạc.
Lúc đó, bí thư địa ủy Lục An cảm thấy rất may mắn, nên nói một cách thoải mái: “Trong vấn đề đóng góp của nông dân, chỗ chúng tôi chưa xảy ra chuyện gì”.
Những lời nói đó, giá ông ta không nói thì hơn, vì vừa nói xong, Lục Tử Tu đã không nhịn nổi cơn giận. Ông vẫn không để cho đối phương một chút thể diện: “Vấn đề đóng góp nông dân của anh, ở đây tôi có hàng tập thư phản ảnh của quần chúng! Nông dân vừa hái quả ở trên cây xuống là cán bộ thôn, trấn của anh đã đến cửa để thu thuế đặc sản rồi, điều này có là sự thực không?”
Bí thư địa ủy Lục An tỏ ra vô cùng ngượng ngập.
Hội trường im thin thít.
Thực ra, phê bình và tự phê bình bình thường trong đảng, xưa nay vẫn là phép báu để chúng ta chiến thắng mọi khó khăn, khắc phục mọi khuyết điểm, sai lầm của bản thân. Nhưng không biết từ lúc nào, ngoài điều lệ đảng và hiến pháp của chúng ta ra, trong quan trường sĩ đồ, đã dần dần lưu hành một “quy tắc trò chơi” suy lòng khắc biết. Mà một trong những quy tắc đó là, không thể quá nghiêm túc với công việc, chí ít đừng để gây khó dễ cho mình, nói lời phải để dư địa, thậm chí biết rõ là nói dối cũng nên xem đó là một sự thể hiện thành thực của kẻ làm quan. Vì vậy những lời nói thoải mái của Lục Tử Tu đã làm nhiều người cảm thấy đường đột.
Vào giờ giải lao, một vị phó giám đốc sở giao thông tỉnh, cố tình tụt lại phía sau, khi đi đến gần Lục Tử Tu, ông ta đột ngột nắm chặt tay Lục Tử Tu, đôi mắt sáng lên ánh nước mắt nói: “Mọi người đều nói chủ tịch [5] Lục tốt, nhưng không ngờ đồng chí lại tốt đến trình độ như vậy!”
Sau hội nghị, Phương Triệu Tường, phó bí thư tỉnh ủy, người chủ trì hội nghị tìm đến phòng ở của Lục Tử Tu, nói không ngớt lời: “Nói hay lắm, nói hay lắm!”
Lúc ăn cơm, Lư Vinh Cảnh, bí thư tỉnh ủy cũng đến chỗ Lục Tử Tu ca ngợi: “Anh nói hay lắm, nói hay lắm, cần có một nhà máy “đổi chỗ để suy nghĩ”.
Lục Tử Tu nói không có cảm tình: “Tốt cái cục c…! Những lời này của các vị sao không nói ở hội nghị? Tôi cam tâm tình nguyện làm một “ác ôn” của các người một dạo!”
Tính cách lòng ngay miệng thẳng đó của Lục Tủ Tu, Ôn Gia Bảo hồi đó còn là chánh Văn phòng Trung ương đảng đã từng được “lĩnh giáo”. Hồi đó Lục Tử Tu là bí thư địa ủy Trừ Huyện, một hôm Ôn Gia Bảo đến Trừ Huyện thị sát, khi tiếp đón, Lục Tử Tu hỏi thẳng: “Đồng chí Ôn Gia Bảo, đồng chí muốn xem thật hay muốn xem “điểm sáng?””
Nghe xong, Ôn Gia Bảo cười, trả lời một cách khôi hài: “Thế thì tôi xem cả”.
Lần đó, Lục Tử Tu đã dẫn Ôn Gia Bảo đi xem cả “điểm sáng” và “điểm tối”, ông vừa tổng kết kinh nghiệm thành công trong cải cách mở cửa của địa khu Trừ Huyện, vừa mổ xẻ những vấn đề tồn tại rối ruột rối gan, vừa báo tin vui, vừa báo tin buồn.
Năm 1996, Lục Tử Tu tham gia hội nghị công tác giúp nghèo toàn quốc, trong đám đông đại biểu ấy, Ôn Gia Bảo vẫn nhìn thấy Lục Tử Tu. Ông đến gần Lục Tử Tu hỏi: “Anh cho rằng vấn đề chủ yếu của nông nghiệp hiện nay là gì?”
Lục Tử Tu không lẩn tránh, trả lời thẳng: “Vấn đề tác phong cán bộ. Trong đó tất nhiên cũng gồm cả tôi. Chính sách có tốt hơn nữa mà không có người quán triệt cũng không được. Nhiều cán bộ hiện nay là “quan làm to, ô tô ngồi nhỏ, phóng trên đường quốc lộ nhiều, tách rời quần chúng càng xa!””
Hôm đó chúng tôi nói chuyện với nhau vô cùng hợp ý, khi biết chúng tôi đang điều tra những điều liên quan đến vấn đề “tam nông”, ông đã biểu thị nhiệt tình cực lớn, lời nói càng giầu cá tính.
Ông bảo: “Trước đây, Mao Trạch Đông nói: “Vấn đề nghiêm trọng là giáo dục nông dân”, hiện nay chúng thấy vấn đề nghiêm trọng là lợi ích của nông dân. Nếu lợi ích của nông dân không được coi trọng đúng mức, xã hội nông thôn sẽ khó phát triển, sản xuất nông nghiệp sẽ khó tiếp tục, sự phát triển và thái bình ổn định lâu dài của đất nước đều trở thành một câu nói suông”.
Ông nói: “Lê-nin nói: “Từng ngày từng giờ đều sản sinh ra chủ nghĩa tư bản”, bây giờ tôi thấy từng ngày từng giờ đều sản sinh ra chủ nghĩa tư bản, không tốt bằng từng ngày từng giờ đều sản sinh ra chủ nghĩa phong kiến”.
Ông còn nói: “Trăm triệu nông dân năm đó sở dĩ theo đảng ta làm cách mạng là bởi vì họ nhận thức được rằng đảng ta mưu lợi ích cho bọn họ, là dẫn dắt họ vươn mình giải phóng. Ngày nay, nếu như chúng ta không quan tâm đến lợi ích vật chất của họ, ngược lại còn làm cho họ cảm thấy đóng góp quá nặng, tâm trạng họ sẽ thế nào? Hơn một nghìn năm trước đây, Đường Thái Tôn đã từng nói “nước có thể chở thuyền mà cũng có thể lật thuyền”, cái nước đó, nói ra chính là nông dân Trung Quốc đấy! Đường Thái Tôn biết được sự quan trọng của nông dân, không có triều đại nào là không có người không biết sự quan trọng của nông dân, thế nhưng một khi nắm được chính quyền rồi, rất khó nói là có đại biểu cho nông dân nữa hay không, mà ngược lại thường bóc lột nông dân, thậm chí trấn áp nông dân. Lấy lịch sử làm gương soi, tôi thấy đảng viên đảng cộng sản Trung Quốc cũng đang phải đối mặt với vấn đề nghiêm trọng như vậy đó!”
19. Trung tâm câu chuyện cổ xưa
Trung Quốc là nước lớn nông nghiệp có lịch sử phong kiến hai, ba ngàn năm, trong dân số, nông dân chiếm tuyệt đại đa số, chính là có tình hình đất nước đặc biệt đó, vấn đề đóng góp của nông dân đã trở thành trung tâm câu chuyện vĩnh hằng từ triều đại này sang triều đại khác.
Lật lại những bộ sử mênh mông và dầy nặng thấy, có cuộc khởi nghĩa nông dân nào là không liên quan tới sự đóng góp của nông dân đâu? Từ Trần Thắng, Ngô Quảng cắm cờ nổi dậy đến nhiều nghĩa cử của nông dân sau này, từ hiến pháp của Thương Ưởng đến nhiều lần biến cách sau đó, có việc nào là không có liên hệ với nông dân đâu?
Câu nói “nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền” là của Đường Thái Tôn nhưng nói ý đó sớm nhất phải bắt nguồn từ Tuân Tử. Và trong một cuốn sách của “Quản Trọng” thời Tiên Tần, sợ rằng đó là một cuốn sách cổ đề xuất giảm nhẹ đóng góp của nông dân xử lý chính xác quan hệ lợi ích giữa nhà nước và nông dân sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc, vào lúc đó, trong nhiều thiên “quyền tu”, “bản pháp”, “trụ hợp” đã chỉ ra: “Lấy ở dân có mức độ, dùng mà biết dừng, nước dù nhỏ vẫn yên; lấy của dân vô độ, chỉ biết dùng không thôi, nước dù lớn vẫn nguy”.
Thời kỳ Dân quốc, mặc dù trong những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, Quốc dân đảng đã đề xuất phải áp dụng chính sách truyền thống giảm nhẹ sưu thuế, hủy bỏ các loại tạp thuế hà khắc, nhưng trong tình hình quân phí và nợ nần trong ngoài không ngừng tăng, tài chính thiếu hụt nghiêm trọng và chính trị cực độ hủ bại, đã không có hiệu quả gì…
Khi tiếng súng chào mừng ngày sinh của Trung Quốc mới nổ vang trên bầu trời Thiên An Môn, chủ tịch Mao Trạch Đông dùng cái giọng Hồ Nam đặc sệt của mình, trang nghiêm tuyên bố: “Từ nay nhân dân Trung Quốc đã đứng dậy!”. Lúc đó, tất cả đảng viên đảng cộng sản Trung Quốc bao gồm trong đó cả Mao Trạch Đông, đều tin chắc không nghi ngờ: dựa vào nông thôn bao vây thành thị mà giành được giang sơn, nông dân Trung Quốc đã trở thành người chủ của quốc gia sẽ không bao giờ lại phải đóng góp nặng nề; “đóng góp của nông dân” và “ba ngọn núi” đồng thời bị lật đổ, nghèo khó cũng theo sự kết thúc của thời đại cũ mà bị triệt để chôn vùi!
Thế nhưng, sự thành công của cách mạng không có nghĩa là chỉ trong một sớm một chiều quét sạch những đống hoang tàn và cáu bẩn lịch sử của mấy ngàn năm để lại.
Sự nghiệp mà những người cộng sản Trung Quốc theo đuổi là sự nghiệp mới mẻ người xưa chưa có, phải từ trong đám bụi cây có gai chưa có đường đi qua, dẫm đạp mở ra một con đường mới, đường đi gập ghềnh nhưng xác định.
Vào lúc Trung Quốc mới vừa thành lập, sinh lực chủ yếu của chính phủ Trung ương được dùng vào việc giải quyết nạn thất nghiệp và lạm phát ở thành phố cũng như vào những vấn đề kinh tế trọng đại vừa bắt đầu như phát triển công nghiệp hóa v.v… nên không đủ lực chiếu cố chi tiêu tài chính địa phương và cũng không có thì giờ rỗi để chú ý tới công việc xây dựng của địa phương, vì vậy Trung ương vô cùng khoan dung trong việc chính quyền địa phương tham dự việc chia hưởng lợi ích với nông dân, cho phép các nơi đồng thời với việc thu thuế chính - thuế nông nghiệp, được theo tỷ lệ nhất định thu phụ gia địa phương trong khi thu thuế nông nghiệp. Loại phụ gia địa phương này cho dù có quy định hạn ngạch cao nhất, nhưng rõ ràng là nó không thể thỏa mãn nhu cầu chi tiêu tài chính của địa phương, thế là các loại phân bổ thêm biến hóa đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ đã theo đó mà đưa ra, không lâu sau trở nên tương đối nghiêm trọng.
Thông qua việc đọc kiểm tra các văn kiện đương thời, chúng tôi biết được người đầu tiên sau giải phóng đề xuất: “đóng góp của nông dân” là Liễu Lỗ Ngôn, người phụ trách nông nghiệp thời đó. Ngày 21 tháng 10 năm 1952, trong báo cáo với Trung ương đảng và chủ tịch Mao Trạch Đông “Tình hình và ý kiến về việc tài chính thôn xã, đóng góp của nông dân, giáo dục tiểu học xã thôn, và công tác của chính quyền xã”, ông phản ảnh, hiện tượng các loại thu phí bừa bãi đã bắt đầu xuất hiện trong các cấp chính quyền mới. Căn cứ vào điều tra thực địa ở 61 xã, ông phát hiện, cộng 4 loại thuế, phí: lương thực cho nhà nước, phụ gia địa phương, quyên hiến cho chống Mỹ viện Triều và phân bổ cho xã thôn lại với nhau thì đã chiếm tới 21,53% thu nhập của nông dân, ngoài ra còn có nhiều hạng mục khó mà thống kê nổi, ví dụ như các hệ thống có liên quan đến nông nghiệp như ngân hàng, mậu dịch, hợp tác xã, bưu chính, nhà sách Tân Hoa v.v…, đều dùng cái mã “phát triển nghiệp vụ” để cưỡng bức nông dân “nhận mua” và “vui lòng tặng”, quần chúng có ý kiến rất nhiều, nói cán bộ thôn, xã đã trở thành người bán tranh, bán tem, bán chè, bán miến… ảnh hưởng cực xấu, vì đã tạo ra “đóng góp nặng nề, hà khắc” của nông dân.
Báo cáo của Liễu Lỗ Ngôn đã được Mao Trạch Đông coi trọng, theo đó chính phủ Trung ương đã có quy định riêng, khống chế nghiêm khắc thu phụ gia địa phương trong thuế nông nghiệp, giới hạn phụ gia địa phương không được quá 15% thuế chính.
Thế nhưng, các địa phương do sự thúc đẩy của lợi ích địa phương, không những thu đủ phụ gia địa phương trong thuế nông nghiệp như Trung ương quy định mà còn không ngừng phân bổ thu thêm bừa bãi, thậm chí so với trước còn nghiêm trọng.
Sau khi biết được tình hình, Mao Trạch Đông rất không yên. Để dẹp yên bất mãn của nông dân, lập tức chỉ thị Quốc Vụ viện đưa ra một quyết định quả đoán: thủ tiêu mọi loại thuế phụ gia, đưa trợ cấp của cán bộ thôn xã, chi phí văn phòng của chính quyền thôn, xã và lương giáo viên vào do tài chính nhà nước cấp; xây dựng sự nghiệp công ích ở nông thôn phải do sự tự nguyện hoàn toàn của quần chúng, cho phép tự lo kinh phí có điều kiện, và quy định các loại kinh phí tự lo không được vượt quá 7% thuế nông nghiệp chính gốc.
Biện pháp này không những về căn bản, giảm nhẹ đóng góp của nông dân, dộng viên được tính tích cực sản xuất của nông dân vừa mới vươn mình mà còn thể hiện được tính ưu việt của Trung Quốc mới, được nông dân khen hay.
Thế nhưng, Trung Quốc mới vừa thành lập, chiến tranh Triều Tiên đã không hẹn mà tới, ngay sau đó, các nước phương Tây do Mỹ đứng đầu lại thực hiện “phong tỏa kinh tế” với Trung Quốc, trước những khó khăn trong và ngoài nước lúc đó Trung Quốc không thể thong dong và ổn thỏa tốt đẹp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa tình hình đó còn buộc nước ta, một nước lớn nông nghiệp kinh tế lạc hậu chỉ còn cách chọn con đường ưu tiên phát triển công nghiệp nặng để “tự lập trong khu rừng thế giới”. Loại tích lũy cho công nghiệp hóa quốc gia ấy, ngoài việc buộc nông thôn và nông dân hy sinh ra, dường như không có sự lựa chọn nào khác.
Nếu như không có một loại chế độ đặc biệt và sự sắp xếp về tổ chức, bất kỳ chính phủ nào cũng đừng hòng giải quyết được mâu thuẫn do những thặng dư sau thuế nông nghiệp mà 400 triệu nông dân phân tán cao độ nắm được trong tay. Vì thế nông dân Trung Quốc sau khi được chia ruộng đất không lâu, dưới sự tổ chức lại có kế hoạch của chính quyền Trung ương đã từ tổ tương trợ, hợp tác xã, rồi lại từ hợp tác xã cấp thấp quá độ lên hợp tác xã cấp cao, cuối cùng là công xã nhân dân. Dùng một câu đây hình tượng của Mao Trạch Đông, là: “Đầu tóc rối bời, không sao tóm được, kết thành đuôi sam, sẽ dễ nắm”. Thế là chế độ cơ bản tập thể hóa nông thôn cao độ phục vụ cho công nghiệp hóa thành thị quốc gia đã hình thành dần dần. Dưới thể chế kinh tế lũng đoạn tập trung cao độ đó, nhà nước rất thuận tiện trong việc chiếm lĩnh các loại tài nguyên của nông thôn Trung Quốc; khống chế toàn bộ quá trình kinh tế như sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng của nông nghiệp Trung Quốc và các ngành sản xuất khác, do đó mà thực hiện được việc chính quyền chiếm hữu không phải là đền bù toàn bộ giá trị thặng dư lao động của nông dân Trung Quốc, rồi chuyển hóa những cái đó thành tích lũy nguyên thủy tư bản công nghiệp thành thị.
Trong thời gian dài hơn 30 năm đó, đóng góp của nông dân Trung Quốc là to lớn và nặng nề nhưng còn tiềm ẩn chưa bùng nổ. Bởi vì sự đóng góp của nông dân đã từ “trước sân khấu” chuyển ra “sau màn”, từ đó nhà nước không còn phát sinh quan hệ kinh tế trực tiếp với hàng trăm triệu nông dân nữa, số hộ mà nhà nước thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ ở nông thôn vốn từ 130 triệu nông hộ, rất nhanh biến thành 7 triệu tổ đổi công; rồi giảm bớt còn 790.000 hợp tác xã nông nghiệp; đến năm 1958 nhảy vọt lớn, chỉ cần 3 tháng trong tiếng trống, tiếng thanh la đã tổ chức không để sót một nông dân nào vào 52.781 công xã nhân dân.
Chúng ta không thể nào biết được, nông dân Trung Quốc rốt cuộc đã hy sinh bao nhiêu cho việc tích lũy nguyên thủy tư bản công nghiệp thành thị Trung Quốc, nhưng có thể nói thế này, ngôi nhà lớn công nghiệp của nước cộng hòa là do xương máu của nông dân Trung Quốc xây nên, bản nhạc huy hoàng nhất của xây dựng thành thị Trung Quốc, cũng là do xương máu và mồ hôi của nông dân Trung Quốc viết thành.
Ngay từ phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, do không tôn trọng ý nguyện của nông dân, tập thể hóa được thực hiện thông qua biện pháp chính trị to lớn, và từ đó đẻ ra dùng biện pháp hành chính chỉ huy mù quáng sản xuất nông nghiệp. Đến trước sau vụ thu hoạch mùa thu năm 1956, lợi ích của nông dân đã bị tổn thất nghiêm trọng, thu nhập giảm sút rõ rệt, nhiều nơi trong cả nước lục tục xuất hiện cơn sóng gió ra hợp tác, nhiều nông dân lên Bắc Kinh phản ánh, yêu cầu, còn có hàng ngàn nông dân hội họp, tuần hành, đòi ra khỏi hợp tác xã, có nơi thậm chí còn chia ruộng, chia lương thực, tự giải thể. Dự đoán theo thống kê, số hộ ra hợp tác lúc đó đã chiếm 5% hộ xã viên, không ít hợp tác xã tan vỡ.
Lúc đó về hai mặt yêu cầu ra hợp tác xã và xử lý vấn đề ra hợp tác xã đều xuất hiện hiện tượng quá khích: có nông dân bao vây công kích lãnh đạo, đập phá ủy ban huyện và phòng công an; cũng có cán bộ địa phương coi việc ra hợp tác xã là phá hoại và tiến công vào chủ nghĩa xã hội, phê đấu nông dân, thậm chí do đó mà đến nỗi chết người hoặc tự sát, tạo ra ảnh hưởng xã hội cực xấu.
Thế nhưng làn gió ra hợp tác xã với khí thế hung dữ mạnh mẽ, không lâu sau đã bị chặn lại dưới sức ép chính trị cao của phong trào chống “phái hữu”.
Phong trào công xã hóa sau đó, có thể nói là ào ào vũ bão, triều dâng sóng dậy. Vào lúc hợp tác xã cấp cao còn đứng chưa vững chân đã vận dụng sức ép chính trị cực lớn, tổ chức trăm triệu nông dân vào công xã nhân dân, với 5,04 triệu đội sản xuất. Những ruộng đất, trâu cầy, nông cụ, lương thực cho đến phần lớn tư liệu sản xuất mà nông dân vốn có hoặc được chia trong cải cách ruộng đất đều bị thu về sở hữu công xã không sót một thứ nào mà không được đền bù. Hơn 50.000 công xã đều biến thành đơn vị tài chính cơ sở ở nông thôn của nhà nước, từ đó có thể tùy nơi, tùy lúc vô cùng thuận lợi chiếm hữu không đền bù mọi tài nguyên và sức lao động trong phạm vi công xã.
Nông dân Trung Quốc đã trở thành người vô sản thực sự.
Cùng với việc phát triển nhanh mạnh của phong trào công xã hóa, “làn gió cộng sản” cũng càng quét càng mạnh ở nông thôn. Nhiều nơi làm thí điểm “Đi bộ tiến lên chủ nghĩa cộng sản”, để tiêu diệt chế độ tư hữu, mọi chiếc hòm, mọi chiếc tủ của từng nhà từng hộ đều quy về công hữu, đập nồi, mua gang vụn để “toàn dân ra sức luyện gang thép”, do tính tích cực sản xuất của nông dân một lần nữa bị đả kích mạnh mẽ, nên tiêu cực, lãn công như một trận dịch lan tràn các nơi, sản lượng nông nghiệp giảm sút lớn.
Có tư liệu cho thấy: năm thứ hai sau khi công xã thành lập, tổng sản lượng lương thực cả nước so với năm trước giảm 13,6%, nhưng số lương thực nhà nước trưng mua so với năm trước lại tăng mạnh lên 14,7%; năm 1960, tổng sản lượng lương thực toàn quốc giảm tới 15,6%, chỉ còn 143,5 triệu tấn, nhưng lượng lương thực nhà nước thu mua không giảm mà lại tăng. Để hoàn thành nhiệm vụ trưng mua, nhiều nông dân buộc phải nộp cả hạt giống và lương ăn.
Theo giới thiệu của một cán bộ công tác ở phòng công-nông nghiệp của huyện ủy Phì Tây, tỉnh An Huy, lúc đó làn gió bốc phét rất cao, huyện Phì Tây chỉ là một huyện nông nghiệp loại vừa mà sản lượng lương thực báo cáo lên là 100.000 tấn, vượt quá sản lượng thực tới hơn hai lần, không đói chết người thì cũng dọa chết người.
Nông thôn Trung Quốc thời gian này, đã không chỉ còn là vấn đề “đóng góp của nông dân quá nặng” mà là đã tạo ra không biết bao nhiêu nông dân bị chết đói.
Đến bây giờ chúng ta cũng không làm thế nào để biết được, rốt cuộc vì loại chế độ đó mà đã có bao nhiêu nông dân Trung Quốc bị chôn? Chỉ nghe nói, riêng địa khu Phụ Dương tỉnh An Huy số nông dân Trung Quốc chết không chính thức dường như gấp hai lần tổng số tướng sĩ trận vong của cả hai bên ta và địch trong toàn bộ chiến dịch Hoài Hải.
Một huyện Phụng Dương chết 60.245 người, chiếm 17,7% tổng số nhân khẩu nông nghiệp; trong đó xóm Hạ Hoàng, công xã Đại Miếu, số người chết lên tới 68,6%. Số gia đình bị chết hết, cả huyện có 240 hộ; do chết, do bỏ đi mà thôn xóm vắng không lên tới 27 cái.
Không trách, hồi “cách mạng văn hóa” khi “ôn nghèo, nhớ lúc sung sướng”, không ít bần nông và trung nông lớp dưới vẫn nhớ tới năm 1960. Không phải là bọn họ thiếu cảm tình với Trung Hoa mới, mà là vì cuộc tai họa đặc biệt lớn đó rất đáng sợ, có thể nói là thảm khốc ác liệt chưa từng có.
Lịch sử của chúng ta gọi bi kịch do chế độ tạo thành đó là “ba năm thiên tai”.
Mặc dù sau đó, Mao Trạch Đông đã kịp thời chế định “60 điều công xã nhân dân”, đổi công xã nhân dân thành sở hữu ba cấp (công xã, đại đội sản xuất, đội sản xuất) lấy đội sản xuất làm cơ sở (đại đội là đơn vị hạch toán cơ bản) làm cho công xã các nơi lùi về quy mô sơ cấp. Quá độ là thời kỳ khó khăn nhất, nhưng những vấn đề tồn tại của nông nghiệp vẫn chưa được giải quyết về căn bản, tài sản giữa công xã và đại đội vẫn có thể điều động lẫn, đội sản xuất “ăn nồi cơm to” và làm việc “theo kẻng” của xã viên vẫn chưa bị chạm tới, đường lối tư tưởng “tả” càng không được thanh toán và uốn nắn, mãi đến cuối những năm bẩy mươi, nông dân Trung Quốc vẫn không sao thoát khỏi gông cùm của chế độ “một là công, hai là lớn” của công xã nhân dân. Và cho đến lúc đập tan “lũ bốn người”, mức sống của một bộ phận tương đối nông dân thậm chí còn xa mới bằng thời kỳ đầu xây dựng nước.
Vào thời kỳ “cách mạng văn hóa” cực tả, Trung Quốc đã đẩy phong trào phê phán chủ nghĩa tư bản lên đến cực đoan, ngay gia đình nông dân nuôi mấy con gà, trồng được ít rau mang ra chợ bán, cũng nói là đi con đường tư bản chủ nghĩa. Số liệu thống kê về phân phối của công xã nhân dân cả nước năm 1997 cho thấy rõ: giá trị một ngày lao động bình quân của nông dân lúc đó chỉ có một hào một xu, có nghĩa là thù lao của một ngày lao động chỉ đủ để mua được nửa bao thuốc lá loại xấu nhất; nông dân ở nhiều nơi từ đầu năm đến cuối năm không những chỉ trơ hai tay không, ngược lại còn nợ tiền đội sản xuất!
Chính là trong cao trào tuyên truyền khắp nơi “oanh ca yến múa”, “tình hình rất tốt” đó, tỉnh An Huy lúc ấy cũng như nhiều tỉnh khác của Trung Quốc, lương thực do mỗi sức lao động sản xuất ra vẫn không bằng thời Hán, hơn hai ngàn năm trước.
Có thể nói nông dân Trung Quốc đang sống trong “nước sôi lửa bỏng!”
Mãi cho đến khi kết thúc mười năm động loạn, Vương Quang Vũ, phó bí thư tỉnh ủy, người đã nhiều năm chủ trì công tác nông nghiệp của tỉnh An Huy, đã đi sâu vào điều tra nghiên cứu ở khu căn cứ cách mạng cũ Đại Biệt Sơn, khi ông vào nhà một hộ nông dân, tình cảnh trước mắt làm ông không ngăn được nước mắt chảy đầy mặt: một ông già trần truồng nằm trên giường, co rúm tại đằng sau bếp là hai cô gái mười bảy, mười tám tuổi áo không che kín người, nghèo đến mức không có quần mặc! Nơi đây chính là cái nôi của cách mạng Trung Quốc đấy, những năm chiến tranh cách mạng, nhân dân khu căn cứ cách mạng cũ Đại Biệt Sơn đã có những hy sinh và cống hiến lớn biết bao nhiêu! Vương Quang Vũ cảm khái nói: “Tôi biết nông dân nghèo, nhưng tôi không nghĩ là nông dân của chúng ta nghèo đến mức như vậy. Chúng ta làm chủ nghĩa xã hội, làm đã ngần ấy năm, rốt cuộc tính ưu việt ở đâu? Chúng ta có phải đạo với nông dân không?”
Người làm ruộng ăn không no bụng, nhân dân cả nước cũng được nếm vị đắng. Lúc đó, tuyệt đại đa số người thành thị, mỗi người mỗi ngày không được đủ 500 gram lương thực, một tháng chỉ được cung cấp 250 gram thịt, 100 gram đường, 200 gram dầu ăn, 200 gram bánh bích quy, 250 gram đậu phụ, một miếng đậu phù nhự. Những thành phố, thị trấn điều kiện kém thì ngay tiêu chuẩn đó cũng không bảo đảm được.
Tóm lại không ngừng cấp phát phiếu, không ngừng xếp hàng. Một cuộc sống như vậy không có người Trung Quốc nào thoát khỏi trong nhiều năm.
Lúc đó, các nơi trong cả nước đều lưu truyền một câu chuyện nội dung tương đối giống nhau: một nông dân cuốc đất, vừa cuốc vừa nói: ba nhát cuốc đầu tiên của ta là làm cho chính phủ, phải nộp lương thực nộp thuế; ba nhát cuốc tiếp là mệt nhọc vì chủ nhiệm công xã, đại đội trưởng sản xuất và đội trưởng sản xuất, phải trả lương cho họ; ba nhát cuốc nữa là để cho các loại phân bổ bừa bãi, bọn đánh chén không biết chán; đến nhát cuốc thứ mười này mới thuộc về mình.
Nông dân đóng góp nặng nề từ tinh thần đến vật chất như vậy, làm sao không oán trời trách đất!
Thế nhưng không làm tốt nông nghiệp, xưa nay chúng ta đều đổ trách nhiệm cho thiên tai, hoặc là chỉ trích cán bộ các cấp không nắm tốt “nông nghiệp học Đại Trại”, cuối cùng là quy kết cho sự phá hoại của kẻ địch.
Sau khi kết thúc mười năm động loạn, chế độ trách nhiệm khoán gắn sản lượng đến gia đình ở nông thôn còn gọi là “khoán lớn” bắt đầu từ tỉnh An Huy, đã cách cái mạng của “làm ào ào” và chủ nghĩa bình quân, Trung Quốc đã nhanh chóng xuất hiện cục diện vui mừng “trên đến người già bẩy ba, dưới đến em bé nhỏ tuổi, một nhà ba thế hệ, đều bận rộn sản xuất”. Vương Quảng Hữu, nguyên bí thư đảng ủy công xã Đại Bách, huyện Phì Tây, tỉnh An Huy đã đưa ra một ví dụ sinh động: “Trước đây xã viên giống như đàn vịt trong lồng, bị nhốt lâu chỉ biết kêu quàng quạc. Bây giờ khoán đến hộ, giống như đàn vịt được thả, những con vịt bị nhốt lâu trong lồng nay được ra ao vỗ cánh vầy nước, con thì lặn, con thì đuổi nhau, rất vui vẻ!” Liễu Tự Tài, một nông dân ngoài sau mươi tuổi cũng phấn khởi nói: “Chế độ trách nhiệm tốt, cái cống ngầm nhà tôi, cuối cùng đã thấy nổi váng mỡ rồi. Cứ tiếp tục làm thế này, chẳng bao lâu nữa sẽ không còn phân biệt thành thị và nông thôn, người nông dân chúng tôi sẽ có cuộc sống như người thành phố!”
Cuộc cải cách lớn phát sinh vào cuối những năm 70 ấy, là một cuộc đại cách mạng nông nghiệp của Trung Quốc mới tiếp sau cải cách ruộng đất. Nó mang lại sự phát triển nhanh như bay cho kinh tế nông thôn Trung Quốc, sáng tạo ra thành tích tốt thu nhập bình quân thực tế của nông dân tăng trưởng hàng năm là trên 15% trong thời gian từ 1978 đến 1984. Tất nhiên đây là sự phát triển mang tính khôi phục. Bất kể là bí thư đảng ủy công xã hay là ông già nông dân, họ đều đánh giá quá lạc quan nông thôn sau “khoán lớn”. Bởi vì từ sau hội nghị Trung ương lần thứ ba khóa 11 đến giữa những năm 80 của cải cách mở cửa, hàng loạt chế độ thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ ràng buộc nông dân Trung Quốc hơn 20 năm rồi vẫn không bị đụng chạm đến. Nhà nước xác định số lượng và giá cả thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ các sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm phụ vẫn chỉ căn cứ vào yêu cầu của thành phố và nhu cầu xuất khẩu của nhà nước mà định ra, về cơ bản không tính toán đến nhu cầu thực tế của nông dân và nông thôn, hơn nữa nhiều năm nay cái việc thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ, nghiêm trọng làm tổn hại quan hệ giữa thành thị và nông thôn ấy lại được coi là phép báu, nhà nước thiếu cái gì là thu mua, phân bổ cho nông dân thứ ấy, kết quả là số nông sản và sản phẩm phụ nông nghiệp bị thu mua, phân bổ ngày càng nhiều, như một trái núi lớn đè lên người nông dân Trung Quốc.
Cho đến năm 1984, nhà nước còn thực hiện thống nhất thu mua của nông dân bốn loại sau: lương thực, bông, dầu ăn, gỗ; còn thực hiện thống nhất phân bổ thì là một danh sách dài đủ để một người thở không ra hơi khi đọc: lợn sống, trâu bò thịt, cừu dê thịt, trứng sống, đay, gai, thuốc lá, chè, tơ tằm, da trâu bò, da cừu, da dê, da lợn, lông cừu, lông vũ, ruột cừu khô, ruột dê khô, ruột lợn khô, lông lợn, tre, mây, chiếu, mật ong, táo, mộc nhĩ, dầu bạc hà v.v…
Ngoài ra còn có 21 loại thủy sản và 53 loại cây thuốc, tổng cộng tất cả là hơn 132 loại, dường như gồm toàn bộ các loại nông sản, sản phẩm phụ, thổ sản, đặc sản, không để lại cho nông dân Trung Quốc một chút không gian nào để sản xuất hàng hóa!
Người thành phố thông qua các phương tiện truyền thông đều biết là nông dân Trung Quốc đang đón cuộc giải phóng thứ hai, biết nông thôn Trung Quốc đang phát sinh những cuộc đổi thay long trời lở đất, biết là, cuối cùng trên mảnh đất khoán của mình, họ có thể tự do tự tại gieo trồng mùa xuân, thu hoạch mùa thu, chứ không biết rằng những thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ vẫn đang trói chặt họ.
Phải thừa nhận rằng, thực hiện thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ, ở một mức độ rất lớn đã bảo đảm cho nhu cầu xây dựng đất nước, cung cấp cho thành phố và xuất khẩu, nhưng nó đã thô bạo tước đoạt quyền xử lý sản phẩm của mấy trăm triệu nông dân, chặt đứt con đường hướng nông nghiệp Trung Quốc đi vào sản nghiệp hóa, cắt đứt mối liên hệ giữa thành thị và nông thôn. Đặc biệt là việc xác định giá cả và số lượng thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ nông sản và sản phẩm phụ là có tính cưỡng chế, rất ít suy tính tới nhu cầu của nông dân và nông thôn, tạo thành tình trạng, nông sản và nông sản phụ do nông dân sản xuất nhưng nông dân lại không được ăn, nông dân mua không được, giá thu mua thấp hơn giá thành, không nói đến sự gian khổ suốt đời, mà có một số người đành phải mua sản phẩm với giá cao để bán lại cho nhà nước với giá thấp để “hoàn thành” nhiệm vụ thu mua.
Loại đóng góp nặng nề và bất hợp lý này, nông dân có khổ mà không nói được, có lý mà không có nới trình bày.
Cuối cùng thì Hồ Diệu Bang, Tổng bí thư đã đứng ra nói. Sau khi điều tra ở một số địa phương, ông nói: “Từ nay trở đi, đối nội phải mạnh dạn làm sống động, đối ngoại phải mạnh dạn mở cửa. Phàm là những việc mà nông dân có thể tự mình làm được hãy để cho nông dân làm, những việc nông dân chưa thể làm, địa phương phải làm, những việc địa phương không làm, nhà nước sẽ làm. Trung ương hy vọng, nông dân sớm giầu lên!”
Vạn Lý, phó thủ tướng chủ quản công tác nông nghiệp cũng chỉ rõ như vậy: “Phải loại bỏ những cản trở không có lợi cho việc phát triển sản xuất hàng hóa”.
Sau đó, Trung ương đảng và Quốc Vụ viện Trung Quốc đã chế định chính sách mười điều làm sống động nền kinh tế nông thôn hơn nữa, điều khiến người ta chú ý trong chính sách mười điều là “cải cách chế độ thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ sản phẩm”.
Cải cách chế độ thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ nông sản và sản phẩm phụ, là một trong hai hạng mục có cùng ý nghĩa trong cải cách nông thôn Trung Quốc - cái trước là thực hành “khoán sản lượng đến hộ, về cơ bản nó là một đột phá trọng đại giảm nhẹ gánh vác cho nông dân”.
Tất nhiên, lúc đó kinh tế kế hoạch vẫn là chúa tể của cuộc sống đương thời, vì vậy chế độ thu mua lương thực cực bất hợp lý đã không thể giải quyết triệt để, chẳng qua là sửa thống nhất thu mua thành hợp đồng định mức thu mua mà trong cái “hợp đồng định mức thu mua” cấp, về cơ bản, nông dân không có quyền phát ngôn, vừa không thể hiện được sự công bằng hiệp thương và cùng có lợi trong hợp đồng, nói chung giá định mức thu mua lương thực, của nhà nước đều thấp hơn giá thị trường rất nhiều, hơn nữa phần “chênh lệch mức” vẫn mang theo tính chất “thuế”, bị nông dân coi là “thuế ngầm”, trở thành “đóng góp có tính che giấu” của nông dân.
Thế nhưng dù nói thế nào, chính sách nông nghiệp thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ đã trói chặt nông dân Trung Quốc trong hơn ba mươi năm, cuối cùng đã lỏng ra được một chút.
Đối mặt với sự “lỏng dây trói” bắt đầu xuất hiện ở nông thôn Trung Quốc và do đó mang lại cảnh tượng khiến người ta vui lòng, Đặng Tiểu bình, tổng thiết kế sư cuộc cải cách vĩ đại này đã vô cùng tỉnh táo nhắc nhở: “những vấn đề trong nông nghiệp còn rất nhiều, chúng ta vẫn còn chưa phá đề xong”.
Thế nhưng vào lúc bài viết về nông nghiệp còn “chưa phá đề xong”, việc đi sâu cải cách nông thôn còn đang tiếp tục thì hội nghị Trung ương ba khóa 12, ngày 20 tháng 10 năm 1984 đã ra quyết định hình thành cuộc cải cách thành thị, chuyển trọng tâm cải cách của Trung Quốc từ nông thôn vào thành phố.
Việc khởi động cuộc cải cách thành thị, xét từ lý luận thấy, nó vừa đề xuất yêu cầu cho cải cách nông thôn và kinh tế nông thôn, vừa cũng vì cuộc cải cách nông thôn, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến thành phố tạo ra những cơ hội mới; một cục diện phối hợp với nhau thúc đẩy lẫn nhau giữa cải cách thành thị và nông thôn sẽ xuất hiện.
Thế nhưng, cục diện lý tưởng mà người ta hy vọng nhìn thấy đó đã không xuất hiện.
Đó là vì bất kỳ cuộc cải cách nào đều đòi hỏi phải bỏ vốn. Chuyển dời trọng tâm của cải cách, có nghĩa là, quan hệ phân phối thu nhập quốc dân tất nhiên sẽ nghiêng về thành phố, và điều này tất nhiên sẽ làm cho kinh tế nông thôn một lần nữa lâm vào cảnh vô cùng khó khăn.
Sự thực của lịch sử là, bắt đầu từ năm 1982, mỗi năm Trung ương đều chế định “văn kiện số 1” chỉ đạo cải cách nông thôn, trong năm năm liền, ra năm văn kiện Trung ương số một. Những văn kiện đó, đã có tác dụng to lớn không thể đánh giá thấp đối với công cuộc cải cách của Trung Quốc. Có thể người ta còn nhớ là, năm 1984, khi thủ đô cử hành cuộc diễu hành chào mừng lần thứ 35 ngày thành lập nước, nông dân ngoại thành Bắc Kinh đã khiêng tấm khẩu hiệu khổng lồ “văn kiện số 1 của Trung ương tốt” đi qua quảng trường Thiên An Môn, nó đúng là đã đại biểu cho tâm tình của trăm triệu nông dân Trung Quốc. Thế nhưng từ sau khi trọng tâm cải cách của Trung Quốc chuyển từ nông thôn vào thành thị, những chính sách có thể “buông” về nông nghiệp đã không có nhiều nữa, và điều này sau đó làm cho các văn kiện số một của Trung ương, liên quan đến cải cách nông thôn chỉ có thể càng viết càng trừu tượng, càng viết càng nguyên tắc, không có nội dung mới và liệu pháp mới, cuối cùng văn kiện số một dùng để chỉ đạo cải cách nông thôn đã lặng lẽ mất đi.
Thế là một sự thực mà người ta không muốn nhìn thấy lại nổi lên trên mặt nước: sau 32 năm bị bỏ quên, vấn đề “đóng góp của nông dân” do Liễu Lỗ Ngôn đề xuất từ thời kỳ đầu thành lập nước, vào ngày 6 tháng 12 năm 1984 cũng là vào cuối năm, năm di chuyển trọng tâm cải cách lại được đề xuất một lần nữa tại hội nghị công tác nông thôn toàn quốc họp ở Bắc Kinh.
Lúc đó, kinh tế nông thôn vừa mới bắt đầu sống động, số giầu lên trước chỉ là cực ít, nhưng chính quyền các cấp lại cứ cho là nông dân đều đã rất giầu, nhiều ngành liền thông qua con đường như nâng cao giá tư liệu sản xuất nông nghiệp, tăng thêm thuế, phí v.v… lũ lượt móc tiền từ túi nông dân.
Mặc dù trong thời gian này, Đặng Tiểu Bình đã từng nhắc nhở: “nếu như trong nông nghiệp có một khúc quanh, thì ba, năm năm chuyển không nổi”. Ông còn nhấn mạnh: “phải đặt nông nghiệp vào vị trí thích đáng”. Thế nhưng sự thực sau này vẫn là: để giải quyết tiền của phải tiêu mà cải cách thành thị đòi hỏi, đồng thời để giảm thấp tới mức lớn nhất tiền giao dịch phải tiêu khi nhà nước thu thuế nông dân, nông thôn cả nước sau khi giải tán công xã nhân dân đã sửa đổi, chế tạo ra 61.766 chính quyền xã trấn có lợi ích tài chính độc lập của mình và quyền thu thuế tương ứng. Sau này những cửa hàng chính quyền cơ sở nông thôn ấp càng mở càng to, hễ bên trên có cơ cấu gì, thì ở đây đều có cả, không chỉ trước sau thành lập sáu ban lãnh đạo là đảng ủy, ủy ban, ban kỷ luật, hội đồng nhân dân, mặt trận, lực lượng vũ trang, mà theo cấp bậc hành chính, thì sáu ban lãnh đạo đó đều là “cấp trưởng của xã”, ủy ban xã, trấn càng ngày càng mở rộng, còn tiếp tục sản sinh ra “bảy sở, tám trạm” đại biểu cho các ngành của chính quyền cấp trên, thế là tài chính, thuế vụ, công an, công thương, giao thông, y tế, quản lý lương thực, kỹ thuật nông nghiệp, thủy lợi, giống má, bảo vệ thực vật, máy móc nông nghiệp, chăn nuôi, thực phẩm, nghề cá đã ra đời đúng thời cơ. Đúng là chim sẻ tuy nhỏ, nhưng vẫn có đầy đủ ngũ tạng.
Những đơn vị ngày một bành trướng và số nhân viên ngày một phức tạp ấy, không có cái nào không cần nông dân nuôi sống.
Đóng góp của nông dân từ đó đã từ “sau màn” chạy ra “trước sân khấu”, hơn nữa ngày càng nghiêm trọng.
Điều khiến người ta dở khóc dở cười là, loại sửa đổi chế tạo đó, đã có một dạo được coi là “thành công có tính đột phá mà cải cách nông thôn Trung Quốc thu được, khiến mọi người chú ý”.
Sau đó, nhà nước không những không hạ quyết tâm tinh giản những cơ cấu phù thũng đó với rất nhiều nhân viên thừa, để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu không ngừng gia tăng của tổ chức đảng, chính quyền địa phương và các bộ môn phụ thuộc, đã không ngừng dùng các loại hình thức “văn kiện đóng dấu đỏ” cứng rắn đòi nông dân và nông nghiệp gia tăng các loại đóng góp, không những từ trong thuế nông nghiệp đặt thêm thuế đặc sản nông nghiệp, công bố “điều lệ nông dân gánh chịu chi phí và quản lý dịch vụ”, thậm chí còn đem vốn tích lũy, tiền công ích, thù lao của cán bộ thôn và chi tiêu quản lý của tổ chức cấp thôn cũng như những nhu cầu về việc học tập, sinh đẻ có kế hoạch, trợ cấp gia đình chính sách, huấn luyện dân quân và xây dựng sửa chữa đường xá nông thôn, đặt lên đầu nông dân, và coi là qui định cứng rắn trong tiêu chuẩn trưng thu. Trong đó có rất nhiều cái vốn phải do chính quyền cấp tiền giải quyết, nhưng cuối cùng đã phát triển thành nội dung gánh vai chủ yếu của nông dân.
Vì sao lại qui định tiêu chuẩn các loại đóng góp của nông dân không được vượt quá mức 5% thu nhập ròng bình quân đầu người của nông dân năm trước? Chúng tôi đã từng đem vấn đề này thỉnh giáo mấy vị chuyên gia ở Bắc Kinh, cánh nhìn tương đối nhất trí của các vị là: trình độ sức sản xuất lao động hiện nay ở nông thôn Trung Quốc còn rất thấp, thặng dư của nông dân kinh doanh nông nghiệp rất nhỏ, nếu như đóng góp của nông dân ngoài thuê nông nghiệp và thuế đặc sản ra, bằng hoặc vượt 5% thu nhập ròng bình quân đầu người của nông dân năm trước, thì ngay việc duy trì tái sản xuất giản đơn trong nông nghiệp đã có khó khăn.
Những điều nghe được làm tâm tình chúng tôi vô cùng nặng nề. Bởi vì căn cứ vào các tài liệu có liên quan và điều tra thực tế của tiến sĩ Ôn Thiết Quân khi theo đuổi “tam nông” hiển thị, con số bình quân báo cáo lên trên của ngành thống kê cao hơn 54% so với con số thống kê của ngành nông nghiệp, điều này có nghĩa là nếu trưng thu các khoản theo số liệu của ngành thống kê báo cáo lên trên thì rõ ràng là sẽ lớn hơn nhiều so với con số thống kê của ngành nông nghiệp. Và các nơi khi trưng thu các khoản lại thường chỉ lấy thu nhập ròng bình quân đầu người của ngành thống kê báo cáo lên trên làm căn cứ!
Nếu đóng góp ngoài hai loại thuế nông nghiệp ra “đạt tới” hoặc “vượt quá” 5% thu nhập ròng bình quân đầu người của nông dân năm trước, thì ngay việc duy trì tái sản xuất giản đơn, nông nghiệp đã có khó khăn, vậy thì tình huống thực tế đâu chỉ có “đạt tới” hoặc chỉ “vượt quá” thôi à?
Nông dân Trung Quốc trong sự đóng góp nặng nề của phí sự nghiệp hành chính không biết dừng cùng các loại phân bổ, tập trung vốn, phạt tiền, đang mất đi chỗ dựa đối với Đảng và chính phủ, tình cảm mãnh liệt bừng bừng như lửa cháy mà “khoán lớn” mang lại năm xưa nay không còn nữa?
Vạn Lý, người đã từng lãnh đạo cuộc cải cách nông thôn lan khắp toàn quốc, sau này làm phó thủ tướng Quốc Vụ viện, Ủy viên trưởng ủy ban thường vụ quốc hội, trong một hội nghị đã nhấn mạnh: “Những lợi ích mà nông dân có, không thể thu hồi, nhất định phải ra một văn kiện nữa tiếp tục cổ vũ nông dân, nếu không, nông dân sẽ không nghe lời đảng cộng sản nữa”.
Thế nhưng, những lợi ích nông dân có được, đã từng tí từng tí một bị thu hồi.
Hội nghị Trung ương ba khóa 11, xác định đầu vào của nông nghiệp phải từng bước đạt yêu cầu bằng 18% tổng đầu tư của nền kinh tế quốc dân, đã không bao giờ thực hiện được. Năm nào cũng nói tăng thêm, cuối cùng đều để cho nông dân tự tăng thêm. Nông dân oán thán gọi cái loại chỉ nói không thực hiện đó là “chỉ gõ mõ mà không bán dầu”.
Từ khi trọng tâm cải cách của Trung Quốc từ nông thôn chuyển vào thành thị, thì chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, dân thành phố và nông dân từng bước được mở rộng, những việc mà chúng ta không muốn nhìn thấy nhất vẫn phát sinh: thành phố các nơi đang biến thành lớn, biến thành cao, biến thành đẹp một cách nhanh chóng; mức sống của người thành phố cũng đang thay đổi từng ngày; nhưng ở nông thôn rộng lớn của Trung Quốc, ngược lại đã xuất hiện hiện tượng “tăng sản không tăng thu”. Lần “tăng sản không tăng thu” đầu tiên xuất hiện từ năm 1989 đến năm 1991, trong tình hình sản xuất nông nghiệp mừng vui được mùa lớn, nếu trừ đi nhân tố giá cả, thu nhập ròng bình quân đầu người của nông dân chỉ tăng 2%; năm 1992 đã trở thành tăng trưởng âm; sau khi lần gia tăng thứ hai xuất hiện vào năm 1996, thu nhập ròng bình quân đầu người liên tục giảm lớn trong hai năm liền, năm 1997 tỷ lệ tăng trưởng từ 9% giảm xuống còn 4,6%, năm 1998 lại giảm xuống còn 4%.
“Hiện tượng đóng góp của nông dân tăng trưởng với tốc độ cao từ 1989 đến 1992, chính phủ đã có nhận thức tương đối nhất trí từ sớm, nhưng từ sau năm 1992, nhất là trong mấy năm gần đây nhận thức về mức độ đóng góp của nông dân đến nay vẫn chưa có sự phán đoán rõ ràng”.
Câu nói trên lấy từ bút ký của Ôn Triết Quân. Ông là một chuyên gia “tam nông” trẻ tuổi, đã tham gia khu thí nghiệm cải cách nông thôn Trung Quốc ngay khi vừa sáng lập. Tất nhiên khi chúng tôi gặp ông ở Bắc Kinh, ông đã không còn trẻ nữa, câu nói trên đã trở thành của Ôn Triết Quân, một trung niên viết khi được giải thưởng loại một về tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp của nhà nước, qua tác phẩm “Nghiên cứu chế độ kinh tế cơ bản nông thôn Trung Quốc”.
Trong điều kiện mức độ tăng thu nhập của nông dân giảm dần, việc phán đoán tình hình đóng góp của nông dân là rất quan trọng. Vì vậy từ sau năm 1992, nhất là mấy năm gần đây, nhận thức của chính phủ đối với mức đóng góp của nông dân thiếu sự phán đoán rõ ràng, mà nông thôn Trung Quốc lại xuất hiện “tăng sản không tăng thu”, thậm chí tăng trưởng âm, rõ ràng sự việc không còn là bình thường nữa.
Có người đã từng làm công tác sau, đưa các bài viết về những chính sách và bài bình luận của các văn kiện công khai của Quốc Vụ viện đăng trên “Nhân dân nhật báo” cơ quan Trung ương, vào máy tính điện tử, tiến hành xử lý, phân tích, kết quả phát hiện: trong phần bài viết liên quan đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân, đã xuất hiện một loạt từ ngữ mới chưa từng có trong lịch sử ngữ ngôn văn tự tiếng Hán của Trung Quốc: “ăn nông nghiệp”, “ăn hộ lớn”, “giấy biên nhận tay” “nông nghiệp cửa miệng”, “đóng góp của nông dân” v.v… mà từ ngữ được sử dụng nhiều lần nhất, là “giảm nhẹ đóng góp của nông dân”.
Đó đúng là một sự phân tích đáng suy nghĩ.
Khi chúng tôi bắt tay viết tác phẩm này, một hội nghị chuyên đề quốc tế nghiên cứu, thảo luận tại diễn đàn tầng lớp cao phát triển Trung Quốc được triệu tập ở Bắc Kinh, trong hội nghị không ít chuyên gia kêu gọi: để thích ứng với yêu cầu gia nhập Tổ chức mậu dịch thế giới, chính sách nông nghiệp của nước ta phải tiến hành điều chỉnh trọng đại, không những phải tăng thêm sức giúp đỡ nông nghiệp, mà còn phải giảm thuế.
Các chuyên gia chỉ ra rằng, các nước trong Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) trợ cấp cho nông nghiệp mỗi năm 250 tỷ USD, nước Mỹ trợ cấp cho mỗi trang chủ trồng ngô là 30.000 USD, con số này gần bằng 100 lần thu nhập ròng bình quân đầu người hàng năm của nông dân trồng ngô tại vùng Đông Bắc nước ta. Các nước đều phổ biến trợ cấp nông sản phẩm, dùng bàn tay con người hạ thấp giá cả nông sản phẩm trên thị trường quốc tế, còn nước ta không những là một trong số ít quốc gia không trực tiếp trợ cấp nông nghiệp cho nông dân, mà còn là một trong số không nhiều nước còn thu thuế của nông dân. Từ năm 1990 đến năm 2000, chỉ trong thời gian mười năm, nước ta đã từ nông dân thu tổng mức thuế các loại từ 8,79 tỷ NDT tăng nhanh lên tới 46,5 tỷ NDT, tăng 45 lần. Mức thuế bình quân đầu người của nông dân cao tới 146 NDT, trong khi mức thuế bình quân đầu người của cư dân thành thị chỉ có 37 NDT, trong tình hình thu nhập thực tế của cư dân thành thị đã gấp 6 lần thu nhập của nông dân thì số thuế mà nông dân nộp, ngược lại đã gấp 4 lần của cư dân thành phố, thị trấn! Đó là một sự bất công to lớn, nông dân phải đóng góp nặng nề, ngoài việc phải nộp thuế nông nghiệp và thuế nông sản đặc biệt ra, còn phải có rất nhiều các loại đóng góp xã hội nữa. Hơn nữa, không nói đến chuyện nông dân Trung Quốc khổ không sao kể hết, mà điều này về cơ bản còn làm cho nông nghiệp Trung Quốc ở vào vị thế yếu kém trong cạnh tranh quốc tế.
Các nước tư bản chủ nghĩa như Mỹ, Tây Âu v.v… cho rằng xiết chặt lạm phát hợp lý có thể tạo được bằng, một mặt thì giảm lãi, một mặt thì giảm thuế, giảm với mức độ lớn nhân viên hành chính và chi tiêu của chính phủ, chẳng lẽ nhà nước xã hội chủ nghĩa chúng ta chỉ có thể giảm lãi mà không thể giảm thuế, giảm đóng góp cho những người nghèo đó ư?

20. Thuế phí nhiều như ruồi bâu
Trong gần hai năm trời, chúng tôi không biết mệt nhọc bôn ba khắp ruộng ngang, bờ dọc của An Huy, để muốn làm rõ một vấn đề làm chúng tôi nghi hoặc: rốt cuộc có bao nhiêu hạng, mục thuế, phí trưng thu của nông dân? Sau này mới hiểu được là, điều này là một sự kiện mà chẳng ai nói rõ được.
Bởi vì danh mục này nhiều lắm, khiến người ta nhìn thấy là giật mình! Theo thống kê của bộ môn quản lý giám sát đóng góp của nông dân của Trung ương, thì các loại văn kiện, hạng mục do các cơ quan và bộ môn thuộc Trung ương chế định có liên quan đến sự đóng góp của nông dân như thu phí, quĩ, tập trung vốn v.v… đã có hơn 93 danh mục, liên quan tới 24 Bộ, Ban, Văn phòng, cục của Nhà nước; còn danh mục thu phí do chính quyền địa phương chế định đã nhiều tới 269; còn có một lượng lớn thu phí “ăn theo” không thể nào thống kê được.
Trong điều tra chúng tôi phát hiện, có nhiều cái về căn bản là tùy theo ý muốn của các cán bộ xã, thôn. Có một số, vừa nghe các bạn có thể cho là hoang đường; có một số, thậm chí còn mang theo mấy phần khôi hài màu đen, tựa như làm trò cười, nhưng những cái trưng thu thì dù anh nộp thiếu một xu cũng không được.
Mặc dù chúng tôi đã đi theo kiểu cuốn chiếu hơn 50 huyện (thị) của tỉnh An Huy, sau đó mới ngồi lại tính xem đóng góp của nông dân có bao nhiêu hạng mục, nhưng kết quả làm được chỉ là “dùng bát đong thúng”.
Các loại tập trung, đóng góp tiền có: xây dựng văn phòng làm việc cho xã, trấn; xây dựng trung tâm hoạt động của đảng viên trấn; xây dựng trạm tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch của xã, trấn; xây dựng trạm phát thanh của xã, trấn; xây dựng nhà chiếu phim diễn kịch của xã, trấn; xây dựng xí nghiệp do xã, trấn làm, cải tạo môi trường xã, trấn cũng như kinh phí giúp thêm cho việc đả kích tội phạm hình sự.
Chi phí quản lý có: chi tiêu cho việc sửa chữa văn phòng làm việc của xã, thôn; chi phí cho cán bộ xã, thôn đi công tác, chiêu đãi khách; chi phí cho hoạt động của Đảng và đoàn thanh niên xã, thôn; chi phí cho đại hội đảng, hội nghị của hội đồng nhân dân xã, thôn v.v…
Chi phí cho cán bộ thôn và các nhân viên phi sản xuất có: trợ cấp định mức cho bí thư chi bộ đảng, chủ nhiệm ủy ban thôn, kế toán, trợ cấp cho đại đội trưởng dân quân, ủy viên trị an, bí thư đoàn thanh niên, chủ nhiệm phụ nữ, tổ trưởng thôn dân nhân viên thú y, nhân viên đưa báo chí thư từ, nhân viên làm vệ sinh; trợ cấp cho công nhân điện, nước, mộc, nề và mọi công việc tạp vụ khác mà thôn sắp xếp v.v…
Chi phí cho giáo dục có: lương giáo viên dân lập; trợ cấp cho giáo viên quốc lập; chi phí xây dựng, sửa chữa trường; chi phí cho hoạt dộng bình thường của nhà trường, chi phí cho báo chí, sách, tài liệu; chi phí cho dụng cụ dạy học, dụng cụ thể thao, văn nghệ v.v…
Chi phí cho sinh đẻ có kế hoạch có: chi phí bảo vệ sức khỏa cho con độc sinh; chi phí bồi dưỡng cho những người làm tuyệt dục; trợ cấp cho ủy viên sinh đẻ có kế hoạch, trợ cấp cho tiểu phân đội sinh đẻ có kế hoạch v.v…
Chi phí cho huấn luyện dân quân có: trợ cấp sinh hoạt khi tham dự huấn luyện dân quân; trợ cấp vì mất ngày công do huấn luyện dân quân; trợ cấp cho người giữ gìn, bảo quản súng, đạn v.v…
Chi phí cho sự nghiệp công cộng và trợ cấp xã hội có: xây dựng nhà dưỡng lão, trợ cấp cho nhân viên phục vụ ở nhà dưỡng lão; xây dựng nơi chữa trị hợp tác; trợ cấp cho nhân viên y tế nông thôn; ưu đãi cho gia đình liệt sĩ; ưu đãi cho thương, bệnh binh; ưu đãi cho gia đình có người đang làm nghĩa vụ quân sự, ưu đãi cho quân nhân phục viên già, yếu, bệnh; chiếu cố dân công vì làm việc công mà bị thương; chiếu cố gia đình có khó khăn v.v…
Ngoài ra còn có trợ cấp cho công nghĩa vụ xây dựng giao thông; trợ cấp cho công xây dựng thôn văn minh; phí mở đường xây chợ, phí qui hoạch nền nhà; phí kiểm dịch hạt giống, phí phòng dịch cho gia cầm, gia súc; phí xây dựng đường dây điện, phí diệt chuột thống nhất; và những chi phí thêm vào cho cảnh sát và nhân viên tư pháp, mua mô tô, dụng cụ liên lạc v.v…
Có nơi, chỉ trường học xã, trấn đã từng thu thêm phí khen thưởng, phí phụ đạo, phí thi thử, phí tài liệu, phí chổi quét; chỉ riêng mục lợn nuôi đã có thuế lợn sống, thuế sát sinh, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập và thuế xây dựng thành thị, nhiều thôn, trấn nhất loạt theo đầu người thu thuế đầu lợn bất kể là anh có nuôi lợn hay không …
Trong điều tra chúng tôi còn phát hiện ở một số xã, trấn chỉ riêng việc đăng ký kết hôn đã trưng thu 14 loại phí. Ngoài việc thu phí giấy chứng nhận kết hôn còn thu phí thư giới thiệu, phí công chứng, phí kiểm tra trước khi kết hôn, phí bảo vệ sức khỏe phụ nữ và trẻ em, phí bảo hiểm con độc sinh, phí tổ chức lễ cưới, phí giết lợn, phí trồng cây xanh khi kết hôn, phí xây dựng vườn trẻ, phí bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch, tiền bảo hiểm sinh chậm, tiền bảo hiểm vợ chồng chung thủy, tiền bảo hiểm hôn nhân vàng v.v…
Kể từ khi nhà nước công bố “Luật bảo vệ môi trường”, có địa phương cá biệt coi việc khói thổi cơm bay lên từ bếp của nông dân là “ô nhiễm môi trường:, và đầy lý lẽ thu “phí thải vật ô nhiễm” tới từng hộ, từng nhà. Có nông dân dám đến cửa nhà cán bộ có ý kiến, không nói thì thôi, hễ nói là bị tòi ra thêm một khoản “phí thái độ”, hơn nữa còn sử dụng một lý luận lưu hành trong thời “cách mạng văn hóa: vấn đề không ở chỗ nhỏ hay lớn, mà then chốt là ở thái độ”, trưng thu nhiều ít là do “thái độ” tốt xấu của người đó mà định.
Có một số, dứt khoát không nói thuộc danh mục nào, ai thò tay ra là đòi tiền, ai dám nói chữ không, hoặc nhăn mày nhăn mặt là lập tức đánh đập đến nơi đến chốn.
Khi một loại quyền lực dùng lợi ích trực tiếp làm bánh xe dẫn động sự vận chuyển của quyền lực, thì sự bành trướng của dục vọng lợi ích sẽ làm cho quyền lực dị hóa thành ma qủy vận chuyển với tốc độ điên cuồng, và tất nhiên sẽ dẫn tới quyền lực bành trướng vô hạn.
Ngày nay, quản lý là thu phí, đó là một chứng bệnh ngoan cố của nhiều bộ môn trong việc khéo cướp giỏi đoạt.
Vì thu các loại thuế phí của nông dân đã mang lại cho đông đảo đơn vị sự nghiệp, cơ quan Đảng, chính nhiều cái tốt đẹp, hơn nữa nhiều danh mục thuế, phí lại được cơ quan Trung ương “đóng dấu đỏ” gửi xuống dưới như là đồng ý, vì vậy các thông tri, điều lệ, qui định và quyết định giảm nhẹ đóng góp cho nông dân khi xuống đến dưới đã đồng loạt biến thành “từng cấp, từng cấp đọc cho nhau, chỉ là truyền đạt, có làm đâu”. Khi có sức ép lớn thì thu lại, giảm bớt; khi gió bão qua rồi lại ngóc đầu quay lại.
Thế là, trong công tác giảm nhẹ đóng góp cho nông dân đã xuất hiện một danh từ về lực học thường đề cập: sức bật lại.
Áp lực càng lớn, sức bật lại càng lớn, rồi nhanh chóng hình thành đặc sắc của mình: đó là trên có chính sách, dưới có đối sách.
Hiện nay không ai là không biết, sinh đẻ có kế hoạch đã trở thành quốc sách, là “đường cao áp” không vượt qua được. Thế nhưng, chính sách sinh đẻ có kế hoạch hay, vào tay một số cán bộ nông thôn nào đó đã được “phát triển” thành rất nhiều chính sách địa phương khiến người ta phẫn nộ: “xuống nước không cứu người, uống thuốc không bỏ lọ, leo cột không cởi thừng”, đồng thời còn coi sinh đẻ có kế hoạch là “một điểm tăng trưởng” của kinh tế mới; là thanh thượng phương bảo kiếm để thu tiền điên cuồng.
Một vị phó chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh An Huy nói với chúng tôi, khi các ông xuống dưới kiểm tra công tác, đã phát hiện một thôn ở huyện Tuy Khê, chỉ trong đợt kiểm tra đột kích ngắn trong một tháng về sinh đẻ có kế hoạch đã phạt hơn 3,1 triệu NDT. Vì cách làm của nơi này là dùng phạt tiền thay thế luật, cho phép người nộp phạt có thể đẻ, giấy chứng nhận cho phép đẻ biến thành “cây hái ra tiền”, nên trong những năm 90 của thế kỷ trước, riêng một huyện Tuy Khê đã đẻ nhiều thêm 100.000 “trẻ con lậu”.
Cơ quan tư pháp huyện Lợi Tân công bố kết quả thẩm tra một vụ án đặc biệt khiến người ta kinh ngạc không hiểu ra sao. Ba cán bộ xã Tôn Miếu thuộc huyện này là Lâm Minh, Viễn Chí Đông, Lý Bằng, bắt đầu từ ngày 3 tháng 12 năm 1998 đến thời gian phát giác ra vụ án tháng 5 năm 1998, dùng danh nghĩa xây dựng sĩ số trường học, đã mang người và chuyên xa, dùng các tội “có lẽ có” như “sinh đẻ vượt tiêu chuẩn”, “không có giấy chứng nhận cho phép đẻ”, “cản trở công vụ” v.v…, thậm chí không cần bất cứ lý do nào để bắt đi hơn 200 nông dân bất hạnh thuộc 22 thôn trong xã Tân Miếu, họ tự lập phòng giam riêng, thông qua các thủ đoạn giam cầm phi pháp ghê tởm, ra sức kiếm tiền.
Họ lập riêng 3 phòng giam, tối tăm, khủng bố, các cửa sổ đều đóng kín, trong phòng không có bất kể thứ gì để thắp sáng, ban ngày mà tối như ban đêm. Bởi vì đại tiểu tiện ở ngay tại phòng giam, nên suốt ngày hôi thối. Nông dân bị giam phải mang theo chăn, chiếu, ngủ ngay dưới đất làm bạn với ruồi nhặng.
Có 3 người bị giam hơn một tháng với tội danh “kiểm tra sai con dấu”; Lý Anh do đẻ khó, xã xử lý không được phải đưa lên bệnh viện huyện phẫu thuật, bị bắt vì tội “đẻ không đúng chỗ”; còn Khưu Kế Mai là vì “vừa cưới đã có chửa”; Chu Bình chủ động đến trạm xá xã nạo thai cũng bị giam 3 ngày…
Mục đích giam giữ là để moi tiền.
Thôn dân Nhữ Tử Bội thôn Song Miếu, làm thuê tại ngoại tỉnh nhiều năm, có chút dành dụm, đã trở thành trọng điểm moi tiền, ngày 12 tháng 12 năm 1998 bị bắt, giam 18 ngày, sau đó do nộp 8.000 NDT nên mới được thả.
Ba dân công Chu Lập Công, Chu Lập Quốc, Chu Quốc Vân cũng vì lý do như vậy bị bắt giam 5 ngày, sau khi ba người nộp 10.000 NDT tiền mặt, ngày 16 tháng 1 năm 1999 mới được tự do.
Mã Nguyệt Vinh ở thôn Nhữ Trại đã ngoài sáu mươi tuổi, vừa bị cháy, nên không lo nổi tiền, nên đã bị giam hơn 170 ngày, do bị giam lâu, nên khi ra khỏi phòng giam, tai đã bị điếc. Một sản phụ tên là Mã Dẫu vì không có “giấy phép cho chửa”, cuối cùng đã đẻ ngay trong phòng giam, khi người nhà đến thăm đã giữ lại 2 người để chịu tội thay.
Huyện Lợi Tân là huyện nghèo của quốc gia, nhiều nông hộ vì để nộp đủ tiền “phạt” đành đi vay nợ, có người biến thành kẻ mất nhà, từ đó nghèo rớt mùng tơi.
Mặc dù ba người Lâm Minh, Viễn Chí Đông, Lý Bằng mặc sức tác oai tác quái, và còn có nhiều hành vi vi phạm pháp luật như cung cấp chứng cớ giả, tham ô, lạm cụng công khoản và tạo thuận lợi cho cấp trên lạm dụng công khoản, nhưng tòa án địa phương chỉ xử nhiều nhất là phạt giam 3 năm, hoãn thi hành 3 năm, ít nhất chỉ xử 1 năm tù giam, hoãn chấp hành 1 năm. Xử trí nhẹ như vậy đã làm cho quần chúng xã Tôn Miếu rất thất vọng. Hơn nữa những sự việc đó xảy ra ngay trước mũi đảng ủy và ủy ban xã, trong thời gian dài như vậy, tính chất xấu xa đến thế, dân chúng cực kỳ phẫn nộ mà cuối cùng vẫn không có một cán bộ có liên quan nào chịu một chút trách nhiệm.
21. Trong thôn có Cục chống tham nhũng
Do con đường để nông dân có chỗ nói năng không thông suốt, nông dân muốn nói mà không thể biểu đạt bình thường, ngược lại còn bị đả kích và báo thù không thương tiếc, thế là những người nông dân thật thà chất phác bắt đầu không “nghe lời” nữa. Họ không lựa chọn phương thức biểu đạt bằng ngôn ngữ nữa, mà từ nhẫn nhịn đi tới phản kháng, thậm chí còn để lộ rõ sự giảo quyệt và hung hãn đáng sợ.
Thi Hoa, bí thư chi bộ thôn Đổng Lưu, trấn Phùng Miếu, huyện Linh Bích, tỉnh An Huy, hôm đó quyết định tới nhà nông dân thu thuế, phí. Để công tác trưng thu có sức làm cho người ta phải sợ hãi, ông ta đã đặc biệt mời nhân viên ủy ban trấn đến giúp thêm, đồng thời còn kéo theo một đám người từ lâu đã bị thôn dân chửi là bọn “ác ôn”.
Bọn họ lái máy kéo đến xóm Tiểu Cao trước.
Tại nhà thôn dân Cao Truyền Minh, nghe nói ông ta không có tiền, lũ “ác ôn” như thường lệ, xông vào nhà xúc thóc.
Thôn dân ôm nỗi oán hận từ lâu, một khi đã nổi giận liền đẩy máy kéo xuống chiếc ao ở đầu thôn.
Nếu như Vương Tích chủ chiếc máy kéo đó không khóc lóc van xin, thì chiếc máy kéo đó do ông ta lái tới đó sẽ bị các thôn dân dùng dao gậy xà beng phá nát.
Cán bộ trấn, thôn thấy thôn dân đông người lại đang nổi cơn hung, không muốn ăn quả đắng, nên vội vàng bỏ chạy, trốn ngay vào nhà thôn dân Trương Kế Đông.
Quần chúng bám sát nhanh chóng phát hiện ra như đàn ong ào tới, vây chặt nhà Trương Kế Đông, ồn ào trách hỏi:
“Các người có còn là cán bộ của đảng cộng sản nữa hay không?”
“Có còn lương tâm làm theo kỷ luật của Đảng và pháp luật của nhà nước nữa hay không?”
“Có để cho dân chúng sống được nữa hay không?”
Lúc này cán bộ thôn, trấn đâu còn uy phong trước đó nữa, đành cười cười giải thích “Đó là do trên bảo làm, thực tình không còn cách nào khác.” Rồi thề thốt: “Từ nay trở đi, bất kể như thế nào cũng không làm như thế nữa!”
Các thôn dân đã bị lừa ớn đến tận cổ rồi, nên đâu dễ tin cái trò ấy nữa? Đang lúc còn tranh cãi, chửi rủa ầm ĩ, một cán bộ trấn trong lúc cấp bách đã đứng ra bảo đảm với quần chúng, nhất định sẽ báo cáo ý kiến của các thôn dân lên lãnh đạo trấn.
Trong lòng Trương Kế Đông hiểu rất rõ, con sóng gió này không xảy ra, lương thực của gia đình khó mà tránh được bị xúc đi; bây giờ bọn họ thấy thế không có lợi, nói trước mặt mọi người mấy câu tào lao, về căn bản là không thể tin được…
Càng nghĩ ông càng thấy hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng, nên cố nhịn đau, móc túi lấy ra 100 đồng xương máu nhét vào tay cán bộ trấn, nói: “quả thực là không còn nữa, để các ông mua mấy bao thuốc hút cho vui. Hiện nay đời sống của nông dân thôn Đổng Lưu càng ngày càng khó khăn, trong lòng có chút bức bối, mong các ông đừng chấp”.
Không ra ngoài dự liệu của Trương Kế Đông, sau đó không lâu, Lưu Hoán Linh, trưởng ban quân sự trấn Phòng Miếu, dẫn một đội trưng thu thuế phí do hơn 300 người thuộc 10 thôn trong trấn tổ thành, kéo đến. Dẫn đầu là cảnh sát của đội công an mặc sắc phục cảnh sát tay cầm còng tay và dùi cui và các nhân viên trị an của các thôn mặc quần áo rằn ri, người nào người nấy đều sát khí đằng đằng, cực giống bộ đội phản ứng nhanh trên chiến trường hoặc như đội cảm tử; đi tiếp ngay sau đó là hai máy kéo bốn bánh và mười bảy chiếc xe ba bánh có động cơ phun khói đen mù mịt chở đầy cán bộ thôn, trấn.
Vì nông dân xóm Vương Dương có ý kiến nhất về việc phân bổ bừa bãi và tập trung vốn bừa bãi và cũng là nơi đồng lòng nhất, nên đội ngũ này kéo đến đó trước.
Đội ngũ trưng thu còn chưa vào được xóm, thì những thôn dân đang làm việc trên ruộng đồng đã phát hiện được, thấy những người kéo đến có thái độ không thân thiện, họ bỏ dở công việc đang làm, chạy vội về thôn.
Sau khi đội ngũ trưng thu đã phong tỏa các con đường ra vào xóm Vương Dương, các nhân viên trị an mặc quần áo rằn ri đã nhào vào thôn như hổ như báo, trước sau đã xúc đi của nhà Lư Thục Kỷ hơn 800 kg tiểu mạch, và hai nhà Vương Nhữ Tụ, Vương Nhữ Vỵ mỗi nhà hơn 200 kg tiểu mạch, nhà Vương Duy Từa hơn 300 kg tiểu mạch, lục lọi lấy đi 200 NDT của nhà Vương Sĩ Minh, số tiền chuẩn bị đi mua phân bón. Trong quá trình cưỡng bức trưng thu tiền, lương thực đó còn đánh bị thương hai thôn dân.
Đúng hôm đó, thương nhân Đài Loan vốn người xóm Vương Dương, vừa cử Vương Bội Văn đại biểu toàn quyền của mình từ Thanh Đảo về thôn khảo sát, chuẩn bị xây một nhà máy ở quê hương. Vương Bội Văn hoảng sợ trước cảnh khủng bố đó, kinh ngạc vô cùng vì môi trường đầu tư xấu xa quá, đã lấy máy ảnh định chụp mấy kiểu cũng bị đánh bị thương, dự tính tốt đẹp của thương nhân Đài Loan tự nhiên không thực hiện được.
Nhưng hôm đó, cuối cùng thôn dân xóm Vương Dương đã như ngọn núi lửa bùng nổ.
Bọn họ lũ lượt cầm cuốc, liềm, xẻng, dĩa xúc phân, cán chổi, dùi gỗ, không biết ai đó đã hét lên: “Chó bị đuổi gấp còn biết nhảy qua tường trốn, nữa là chúng ta lại là người!” Thế là đám đông hưởng ứng: “Phải liều mạng với bọn chúng!” Thế là từng người, từng người xông vào đội ngũ trưng thu.
Nhân viên trị an phát hiện già trẻ gái trai xóm Vương Dương chuẩn bị liều mạng với mình đã rối loạn hàng ngũ, phần lớn bỏ chạy. Số còn lại là cán bộ thôn, trấn không nhiều, trong chốc lát thành mục tiêu công kích của thôn dân. Tiếng hò đánh, tiếng chửi mắng ồn ào trong xóm ngoài xóm. Đội ngũ trưng thu, xung phong lẫm liệt, sát khí đằng đằng chỉ trong chốc lát hoàn toàn tan rã, chạy trốn khắp nơi.
Lúc này đang là mùa nước sông Tân Tương lên cao, mặt sông khá rộng, ít nhất cũng tới hơn 100 m, Lưu Hoán Linh trưởng ban quân sự trấn và mấy cán bộ trấn bị thôn dân truy đuổi không tha, vội chạy ra bờ sông, Lưu Hoán Linh nhảy xuống sông, mang hết sức liều mạng bơi sang bờ bên, mấy người không biết bơi, đành tìm chỗ trốn ven sông, có người chui vào cả nhà chứa phân vừa bẩn vừa hôi, ròi bọ bò cả lên chân, lên mặt, bám đầy quần áo mà không dám động đậy vì sợ phát ra tiếng động, sẽ bị thôn dân đang truy đuổi phát hiện…
Từ khi xóm Tiểu Cao và xóm Vương Dương thuộc trấn Phùng Miếu huyện Linh Bích phát sinh việc bị xúc lương thực, thôn dân bị đánh, nông dân ở trấn Hoàng Vu, huyện Tứ cạnh đó đã trở nên thông minh. Xóm Mục Chủ Hồ của trấn này là một xóm lớn có mấy trăm nhân khẩu, các thôn dân hễ thấy trấn hoặc thôn cử đội trưng thu đến là mọi người giống như những năm tháng chiến tranh, mỗi khi phát hiện “tình hình địch” đều có ám hiệu báo cho nhau: giả dụ họ đi vào phía đầu thôn, thì thôn dân ở đó sẽ gõ thanh la báo cáo, nếu họ vào từ phía cuối thôn thì thôn dân phía này sẽ thổi tù và báo hiệu. Các thôn dân nghe tiếng thanh la, tiếng tù và sẽ biết tình hình xảy ra ở đâu, để kịp thời kéo đến đó chi viện, cho dù lúc đó là giữa trưa hay chiều tối, đang lúc nấu cơm hoặc chuẩn bị ăn…
Hành động phạt tiền, vơ vét lương thực quanh năm không nghỉ của cán bộ thôn, trấn đã khiến những sự việc ác liệt trong nông thôn không ngừng phát sinh. Nhiều cán bộ thôn bị đốt đống củi dự trữ, nhà bí thư chi bộ thôn đang xây, một buổi tối bị người đẩy đổ, ruộng bông của một nhà cán bộ đang kết quả, chỉ trong một đêm bị người bẻ hết, nhiều gia súc của cán bộ bị đầu độc ngầm.
Quan hệ cán bộ và quần chúng xấu đến mức nghiêm trọng như vậy, ngoài ra còn lưu truyền những câu nói sau: Bắt một số cán bộ xếp hàng rồi bắn từng người một, sợ rằng có người bị oan;
Bắt một số cán bộ xếp hàng rồi cách một người bắn một người, sợ rằng có người lọt lưới.
Lần đầu tiên khi nghe thấy ở nông thôn xuất hiện “Cục chống tham ô” và do Diên Học Lý, một nông dân tự nhận là “Cục trưởng”, chúng tôi cảm thấy không sao tưởng tượng và hiểu nổi.
Cục chống tham ô có tên gọi đầy đủ là “Cục chống tham ô và hối lộ” là một bộ môn chấp hành pháp luật làm công tác kiểm sát kinh tế thuộc cơ quan kiểm sát quốc gia. Làm sao nông dân lại có quyền lực này?
Để hiểu được cái “Cục chống tham ô” ở nông thôn, xuất hiện tại thôn Trương Đại Vu, trấn Ngũ Câu, huyện Tương Khê, tỉnh An Huy, chúng tôi quyết định làm một chuyến đi riêng, thăm dò hư thực. Ngày 22 tháng 1 năm 2001, đã là ngày 29 tháng chạp âm lịch, các đoàn tầu đoàn xe lên Bắc xuôi Nam đều chở đầy người về quê ăn tết, chúng tôi vội vội vàng vàng đến thành phố Hoài Bắc, nơi từng đặt sở chỉ huy mặt trận của đồng chí Tiểu Bình trong chiến dịch Hoài Hải. Vì trấn Ngũ Câu huyện Tương Khê là một trấn vùng xa của thành phố Hoài Bắc, nên trước tiên chúng tôi ngồi xe lửa tới Hoài Bắc, sau đó đi ô tô đến Tương Khê, sau đó từ huyện thành chuyển sang đi ô tô theo tuyến về nông thôn, và phải đi khoảng hơn 60 km nữa mới tới trấn Ngũ Câu. Còn từ trấn về thôn Trương Đại Vu thì phải đi bộ.
Đây là đại bình nguyên Hoài Bắc rộng mênh mông, bằng phẳng. Và đây cũng là nơi trời cao, hoàng đế ở xa. Xã Đại Trạch, nơi Trần Thắng, Ngô Quảng dựng cờ vùng dậy làm một cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc ở rất gần thôn này.
Ở vào vùng xa, giao thông bế tắc, tin tức không nhanh nhạy nên sự phát triển kinh tế của trấn Ngũ Câu rất lạc hậu, thế nhưng đóng góp của nông dân so với nhiều địa phương khác lại nặng nề hơn rất nhiều, có một dạo, đóng góp trung bình đầu người lên tới trên 250 NDT, vượt xa dự tính của chúng tôi. Trưởng thôn và bí thư chi bộ thôn Thiện Trường Doanh, trấn Ngũ Câu là hai chú cháu, hai người nghiện trò phân bổ, không chỉ thu tiền bừa bãi, phạt tiền bừa bãi mà ngay việc mỗi nhà mua hạt giống, mua phân bón, họ cũng thọc tay vào, không nói đến việc giá cả cao hơn giá thị trường, mà chất lượng rất kém, làm thiệt hại cho thôn dân rất nhiều. Các thôn dân tố cáo người lãnh đạo thôn lên trấn, nhưng trên trấn không thèm để ý. Một năm, lãnh đạo thôn yêu cầu thôn dân phải trồng 12 ha dâu, nhưng giống dâu phải mua từ tay họ, một mầm gốc giá hơn một hào. Để trồng đủ 12 ha, không biết mất bao nhiêu tiền, nên các thôn dân không đồng ý. Bí thư chi bộ liền lên mặt: trồng hay không trồng cũng phải trả tiền! Sau đó các cây giống đều chết khô, chỉ dùng làm củi đun, nhưng chi phí vẫn phân bổ theo đầu người. Một năm vào thu hoạch vụ mùa, thôn dân yêu cầu tự thu hoạch, tự bán, những người lãnh đạo thôn không đồng ý, nhất luật do thôn thống nhất thu, thống nhất bán, qua hai chú cháu vừa thu vừa bán, thôn dân thiệt trên 1.000 kg. Thế là thôn dân không nhịn được nữa, kéo thành đoàn lên trấn tố cáo việc làm xằng bậy của cán bộ thôn. Nhưng trấn thoái thác không giải quyết, trong cơn giận dữ, thôn dân đã xé nát quần áo của trưởng ban tổ chức đảng ủy trấn.
Chi bộ thôn và ủy ban thôn không được dân tín nhiệm, chỉ huy của họ mất hiệu nghiệm, sự tồn tại của họ chỉ là bề ngoài, thôn Thiện Trường Doanh trở thành một thôn bị tê liệt của trấn Ngũ Câu.
Sau đó, cứ dần dần, trạng thái vô chính phủ giống như đám mù trên cánh đồng sau vụ thu, từ Thiện
Trường Doanh nhanh chóng lan khắp trấn Ngũ Câu. Toàn trấn có 29 thôn, đã có 22 thôn, nông dân chống thu mua lương thực, chống nộp thuế, có đến một nửa số cán bộ bị đánh, chửi, đến mức có người ban ngày không dám ra khỏi nhà. Trong một thời gian, tổ chức cơ sở của hầu hết các thôn trong trấn Ngũ Câu, làm vào trạng thái tê liệt.
Trong tình hình đó, Diêm Học lý của thôn Trương Đại Vu nổi tiếng.
Trương Đại Vu gồm thôn trước và thôn sau, mặc dù tên thôn là “Trương Đại Vu” nhưng chỉ có 5 xóm mà người dân phần lớn đều họ Diêm. Năm 1960, thôn này có hơn 300 nhân khẩu, nhưng sau đó chết đói hơn 130 người, hồi đó thôn có hơn 66 ha đất trồng trọt. Ngày nay, sau hơn 40 năm cũng mới phát triển lên thành hơn 330 nhân khẩu nhưng ruộng đất không tăng thêm mà lại còn bị lấn chiếm làm nhà mất hơn 7 ha. Ngoài một số người ra ngoài làm thuê, hầu hết thôn dân đều bám lấy ruộng đất “mặt trời mọc đi làm, mặt trời lặn về nghỉ”, cuộc sống vô cùng khó khăn. Trong 20 tiểu tổ thôn dân, có 3 tổ nghèo nhất và đều ở thôn sau. Diêm Học Lý là người thôn sau.
Kể từ cải cách ruộng đất, Diêm Học Lý đã làm đội trưởng thôn sau, làm 35 năm liền gần đây do tuổi cao mới không làm nữa, nhưng mọi người vẫn gọi ông là đội trưởng Diêm. Mấy chục năm nay người trong thôn đều gọi ông như thế và chẳng mấy người biết tên thật của ông là gì. Khi chúng tôi đến thôn Trương Đại Vu, hỏi nhà Diêm Học Lý ở đâu, những người được hỏi đều không biết. Nhưng khi chúng tôi vừa nói đến việc ông thành lập “Cục chống tham ô” thì một cô gái bật cười là một tiếng, vội nói: “Các vị định tìm “Cục trưởng Diêm” à!”
Xem ra ảnh hưởng của “Cục trưởng Cục chống tham ô” Diêm Học Lý không nhỏ.
Các thôn dân nói với chúng tôi, ngần ấy năm làm đội trưởng sản xuất, nhưng Diêm Học Lý vẫn giữ được tác phong của thời “cải cách ruộng đất”, không tham, không chiếm, không cậy thế hiếp người, có phần nghĩa hiệp. Mặc dù đời sống của mình chưa sung túc nhưng vẫn “nghèo mà rộng rãi”, thích giúp đỡ người khác, đặc biệt là dám nói lời nói thực với trên, dám nói sự thực, có uy tín nhất định trong thôn dân. Mấy năm nay, ông thôi chức đội trưởng mắt nhìn thấy thế sự thay đổi, đạo đức suy đồi, cán bộ thôn bất chấp nông dân sống hay chết chỉ biết thu bừa bãi, phạt bừa bãi, rồi mang số tiền thu được lấy tiêu xài tùy tiện. Không chịu nổi cái cảnh đó, ngày hôm ấy ông đã thốt ra một câu: “Chúng ta cần phải có “Cục chống tham ô”, kiểm tra sổ sách của bọn chó má này!”
Bí thư đảng ủy trấn Ngũ Câu lúc đó chính là cậu ruột nàng dâu cả của Diêm Học Lý. Diêm Học Lý nghĩ là người này không thể không ủng hộ yêu cầu trị cho cán bộ thôn một trận của ông, hơn nữa giảm nhẹ đóng góp cho nông dân đã được văn kiện của Trung ương nhiều lần nhấn mạnh, nên ông đã dẫn thôn dân lên trấn.
Những ngày ấy nông dân lên đảng ủy và ủy ban trấn rất nhiều, đoàn nọ nối nhóm kia. Mấy người đứng đầu trấn đón tiếp không ngơi, mệt mờ cả mắt, khi Diêm Học Lý dẫn thôn dân đến tìm bí thư, ông ta vừa tiếp xong một đoàn thôn dân về đến văn phòng.
“Bác tìm tôi có việc gì thế?” “Bí thư đảng ủy trấn phát hiện thấy có rất nhiều nông dân theo vào, không khỏi có chút căng thẳng.
Diêm Học Lý nói: “Không có việc không lên điện tam bảo”.
Bí thư đảng ủy trấn hỏi: “Bác cũng đến gây chuyện”.
Diêm Học Lý vừa nghe đã thấy không vừa ý: “Loại như tôi mà đi gây chuyện à?”
Bí thư đảng ủy trấn nổi cáu: “Bác thấy trấn Ngũ Câu này chưa đủ náo nhiệt ư?”
Chưa kịp nói vấn đề mà đã bị trách, Diêm Học Lý nổi giận, nói không có chút cảm tình: “Tôi đến đây, một là không tìm ông để kiếm chuyện; hai là cũng không muốn cùng người khác gây chuyện, mà chỉ muốn phản ảnh với ông một chút về vấn đề đóng góp của nông dân”.
Vừa nghe thấy lại là mấy chữ “đóng góp của nông dân”, bí thư đảng ủy trấn hỏi luôn: “Bác nói chuyện gì?”
Lúc này, những thôn dân đi cùng đua nhau nêu lên hết ý kiến này đến ý kiến khác của mình đối với cán bộ thôn.
Bí thư ngăn cản không nổi, lại không tiện nổi giận với mọi người, đành đưa ánh mắt bất mãn nhìn vào Diêm Học Lý. Ông ta nghĩ rằng Diêm Học Lý, với tư cách là người thân của cháu gái mình, không những đã không ủng hộ công tác của ông ta, ngược lại còn dẫn người đến làm loạn thêm.
Ông tay vung tay, mất bình tĩnh nói với Diêm Học Lý: “Ông về trước đi!”
Diêm Học Lý đâu chịu thôi: “Như thế là ông không ủng hộ ý kiến mọi người”
Rõ ràng là bí thư đảng ủy trấn không tiện nổi giận với Diêm Học Lý trước đông đảo thôn dân như vậy, nên cố nhịn không nói gì.
Đến nước này thì bí thư không nhịn được nữa, ông ta đứng phắt dậy, lớn tiếng nói: “Ông cút đi cho tôi nhờ!”
Diêm Học Lý sững người. Ông không ngờ bí thư đảng ủy, thân thuộc của con dâu mình lại làm ông mất thể diện trước mặt mọi người như vậy, trong cơn giận, ông đã tặng lại một câu cứng rắn: “Ông làm bí thư đảng ủy trấn cũng là cái quái gì? Được rồi, những việc cấp dưới làm bậy ông không quản thì tôi quản. “Cục trưởng “Cục chống tham ô” này, tôi làm!”
“Cái gì? “Cục chống tham ô?” Bây giờ đến lượt bí thư đảng ủy trấn ngạc nhiên.
“Chống tham ô! Chống hối lộ! Chống gia tăng đóng góp của nông dân!”
Diêm Học Lý khẳng khái, sôi sục nói, nói xong không thèm quay đầu dẫn mọi người bỏ ra về.
Sau này câu chuyện đó, một truyền mười, mười truyền trăm đi khắp huyện khắp thành phố: Diêm Học Lý ở thôn Trương Gia Vu, trấn Ngũ Câu muốn thành lập “Cục nông dân chống tham ô” và tự giữ chức “Cục trưởng”.
Sau khi thành ủy và ủy ban thành phố Hoài Bắc biết được tình hình nông dân chống thu lương thực, thu thuế vì trấn Ngũ Câu làm ăn “bừa bãi” đã quyết định nhân cơ hội bầu cử khóa mới, từ thành phố, huyện lựa chọn ra bốn cán bộ đắc lực tăng cường cho công tác đó, nhưng một trấn trưởng và ba phó trấn trưởng được lựa chọn đều không trúng cử, không ngờ bị một lần bầu cử dùng tiền để mua chuộc có tổ chức, có dự mưu, có kế hoạch phá hoại.
Trong 63 đại biểu hội đồng nông dân trấn có 58 đại biểu với 148 lượt người đã nhận tiền và đồ vật ở mức độ khác nhau, trong bọn họ không chỉ có phó bí thư đảng ủy, phó trấn trưởng, bí thư ủy ban kiểm tra kỷ luật, bí thư chi đoàn, trưởng ban tuyên truyền, trưởng ban quân sự, chánh văn phòng đảng ủy, ủy ban trấn mà còn có cả thân nhân của chủ nhiệm ban khoa giáo, chủ nhiệm phụ nữ, chủ nhiệm hợp tác xã, trưởng phòng thuế, trưởng phòng công thương, trưởng trang lương thực, trưởng trạm kinh tế, bệnh xá trưởng v.v… Bị dùng tiền mặt và rượu, thuốc lá kéo xuống nước còn có chủ tịch hội đồng nhân dân trấn, đại biểu hội đồng nhân dân cấp thành phố và cả bí thư chi bộ thôn, chủ nhiệm ủy ban thôn.
Một sự phá hoại bầu cử qui mô lớn trắng trợn như vậy, một số đông đảng viên cán bộ ngang nhiên nhận hối lộ nhiều như vậy, thật hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc mới.
Dùng mấy tút thuốc lá và mấy chai rượu là có thể “đánh đổ” đại biểu nhân dân của chúng ta, điều này cố nhiên nói lên dụng tâm xấu xa của những kẻ đưa hối lộ, đồng thời cũng cho thấy, chế độ sản sinh ra đại biểu nhân dân của chúng ta đã có những vấn đề khiến người ta phải lo lắng. Chí ít, bầu cử như vậy, rất khó có thể đại biểu được nguyện vọng chân chính của nhân dân, hoặc là nói có khá nhiều đại biểu về căn bản không coi cuộc bầu cử thần thánh đó là một việc quan trọng gì cả, ai trúng cử ai không trúng cử, thực ra chẳng là cái gì trong cuộc sống của họ.
Điều làm cho người ta ngạc nhiên nhất là, trong cuộc bầu cử khóa mới lần đó của trấn Ngũ Câu, bị đồn công an mượn đến lái ô tô tạm thời, một nông dân thậm chí trình độ văn hóa hầu như chưa có gì, thế mà anh ta chỉ dùng có 41 tút thuốc lá, hơn 1.600 NDT tiền mặt, tổng cộng số tiền dùng để mua chuộc bầu cử không quá 4.000 NDT tiền mặt mà đã đánh đổ được rất nhiều đại biểu hội đồng nhân dân, được bầu một cách thuận lợi làm phó trấn trưởng ủy ban nhân dân trấn Ngũ Câu.
Việc dùng tiền mua chuộc bầu cử là sự bộc lộ lớn về trạng thái vô chính phủ mà trấn Ngũ Câu đã lâm vào từ lâu. Thất bại trong cuộc bầu cử khóa mới ở trấn Ngũ Câu đã tạo thành ảnh hưởng rất xấu trong xã hội, khiến công tác bầu cử khóa mới các xã, trấn trong kế hoạch đã định của thành phố Hoài Bắc buộc phải đẩy lùi. Trần Đức Thắng bí thư thành ủy sau khi biết sự nghiêm trọng của vấn đề đã cảm thán: “trấn Ngũ Câu đã đến bước không trị không được!”
Huyện Tương Khê đã nhanh chóng cử tổ điều tra liên hợp, thành phố Hoài Bắc cũng nhanh chóng tập trung hơn 100 người từ các cơ quan của thành ủy và ủy ban tỉnh, tổ chức thành “đội công tác xóa nghèo” có bí thư thành ủy đi cùng, để ra thời gian một tuần lễ, đi sâu vào hai thôn có vấn đề lớn nhất của trấn ngũ Câu, cùng ăn ở với quần chúng, quan sát thể nghiệm dân tình, tìm hiểu dân ý, nghiêm túc lắng nghe ý kiến của thôn dân.




[1]Tên gọi đồng tiền Trung Quốc.
[2]Đơn vị hành chính của Trung Quốc, dưới tỉnh trên huyện.
[3]Tức nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
[4]Một mẫu Trung Quốc bằng 1/15 ha (khoảng 666 m2).
[5]Người Trung Quốc có thói quen gọi tôn cấp phó lên thành cấp trưởng.

<< Chương 4 | Chương 6 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 974

Return to top