16- Thái-độ vua Hiệp-hòa Đối với vua Dực-tông Đặng yên mừng hãy chút may,
Kíp lo sắm sửa định ngày
ninh lăng.
Bỗng đâu sinh chuyện bất bằng,
Bấm-be chẳng kính dám rằng ly hoang.
Lại rằng mất cửa Thuận-an,
Bởi vì ở trước vụng toan
phòng nhàn.
Lại truyền phô kẻ triều quan,
Chế-cân chẳng đặng lập ban đứng chầu.
Than thay chửa đặng bao lâu.
Nỡ nào vội đã trước sau khác lòng.
Lại nghe vu-hoặc cáo rong,
Nặng lời quở trách khiêm-cung phi tần.
Nghe ai mưu khử quyền thần,
Sự-cơ bất mật, tai truân lập tùy.
Đều là những sự
quải phi,
Chẳng gìn lễ nghĩa, phúc gì đặng lâu.
Họa thai bởi ấy rất mau,
Sự sinh sinh sự há đâu bởi trời,
Tưởng trông đau-đáu lòng người,
Con vua chính vị dân trời thảy ưng.
17- Tường và Thuyết tâu bà Thái-hậu bỏ vua Hiệp-hòa Nhân cơ hai gã đại-thần,
Cũng rằng vì nước, cũng rằng vì thân.
Đồng lòng ủng lập ấu quân,
Toan mưu phế trí, sớ văn tâu bày.
Tính vừa
bốn tháng mười ngày,
Đặt lên cất xuống sự này tại ai ?
Chúng quan tề tập quanh ngoài,
Sớ dâng kể hết mọi lời
vân-vây.
Bởi lòng ở chẳng biết lời,
Ngồi trên
muôn cộ ai vầy khứng theo.
Chỉn lo nhà nước nghiêng nghèo,
Làm tôi vậy phải quyết liều trước toan.
Chịu thời đều đặng vẹn an,
Người hay theo phép, dám can phạm gì.
Đã vầy còn hãy nói chi,
Xin cho phiên phục lại về là may.
Lạy xin cứu mẹ con nay,
Nghe lời người cũng xót thay những là.
Phán rằng: "Sự ấy mặc ta,
Có truyền ý-chỉ dám là chẳng vâng."
Lãng-công nghe vậy,
lòng mầng,
Soạn đồ bảo ấn giao dâng tức kỳ.
Bèn ban ý-chỉ dụ tri :
"Phụ thần nay phải tuân y lời già.
Sự này há bởi người ta,
Nay dù có lỗi cũng tha mới đành.
Huống đà chịu phép, phục tình,
Rộng dung cho đặng toàn sinh thoái hồi."
Hai quan Phụ-chính vâng lời,
Gửi: "Xin chực võng mời người kíp ra."
Sợ e đâu dám dần-dà,
Một đoàn hầu thiếp, cùng là con dâu.
Ra vừa tới chốn thành đầu,
Phủ ông Dục-Đức, truyền hầu vào ngay.
18- Giết vua Hiệp-Hòa đã thoái vị và ông Trần Tiễn Thành Mẹo lừa gạt gẫm khéo thay,
Sẵn dành thuốc độc ép vầy giết tươi.
Than ôi phúc họa nghĩ bài,
Cũng vì phú-quí hại người thương thay !
Quyền thần khinh mạn dường này,
Có lời truyền trước, dám rày cải sau.
Vả đồng Phụ-chính với nhau,
Trần-công chẳng thuận, đem mưu giết liền.
Làm cho rõ mặt uy quyền,
Hẳn tình hiếp-chế không kiêng đã rồi.
19- Lập vua Kiến-phúc Tự-quân lẻn rước phản hồi,
Tịch-điền hãy dọn tạm ngồi một khi.
Túc-thanh cung điện hộ-trì,
Mệnh quan
quyên cát cập kỳ đăng quang.
Trong người đều dạ hân hoan,
Gẫm xem thiên đạo tuần hoàn rất mau.
Bấy giờ đặng toại sở cầu,
Mặc-phò nhờ có trên đầu khiến xui.
Tháng mười năm ấy Quí-mùi,
Mồng-ba
hiệp-cát lên ngôi cầm quyền.
Hiệu xưng Kiến-phúc kỷ nguyên,
Trong ngoài yên định, dưới trên thuận tuỳ.
Giúp trong nhờ có
mẫu nghi,
Ngoài thời thứ chức cơ nghi giữ-gìn.
Ý thân lại lựa đấng hiền,
Gia-hưng phụ-chính Chỉ truyền kính vâng.
Nhưng cùng Pháp-quốc giao-lân,
Cũng cho triều yết, cũng
thân ước điều.
20- Làm lễ nimh lăng cho vua Dực-tông Âu lo việc nước hãy nhiều,
Ninh-lăng đại lễ phải điều trước toan.
Đến tuần tháng chạp
công thoan,
Mồng hai hiệp-cát nghinh sang
bảo-thành.
Chú thích:
ninh lăng: là nói lo việc làm lễ táng vua Dực-tông.
Bấm-be: là chê bai. Nói vua Hiệp-hòa chê-bai vua Dực-tông.
phòng nhàn: là ngăn-ngừa sự ra vào.
Chế-cân chẳng đặng lập ban đứng chầu: Vua Hiệp-hòa không cho các quan mặc đồ để tang vua Dực-tông vào chầu.
Sự-cơ bất mật, tai truân lập tùy: Vua Hiệp-hòa quở trách phi tần của vua Dực-tông ở Khiêm cung rồi lại mưu trừ Tường và Thuyết cho nên mới gây ra mối họa cho mình.
quải phi: là trái ngược.
Họa thai: là mầm họa.
Toan mưu phế trí, sớ văn tâu bày: Tường và Thuyết làm sớ tâu bà Từ-dụ xin bỏ vua Hiệp-hòa.
bốn tháng mười ngày: Vua Hiệp-hòa làm vua được có hơn bốn tháng.
vân-vây: là lấy vần, chính chữ là vân-vi. muôn cộ: là dịch nghĩa chữ vạn thặng,
Xin cho phiên phục lại về là may: Vua Hiệp-hòa xin về giữ chức làm tôi.
Có truyền ý-chỉ dám là chẳng vâng: Lời bà Từ-dụ nói.
lòng mầng: Câu này trong bản nôm đề : mầng lòng, nhưng để chữ lòng ở cuối câu thì lạc vân, cho nên để là lòng mầng thì đúng vần mà cũng không sai nghĩa.
Trần-công chẳng thuận, đem mưu giết liền: Trần Tiễn Thành cùng với Nguyễn văn Tường và Tôn-thất Thuyết làm phụ-chính, nhưng sau vì không đồng ý làm sự phế-lập, ông thôi quan về ở nhà tư. Bấy gìờ sai người đến giết đi.
Tự-quân: lúc ấy là ông Dưỡng-thiện, con nuôi thứ ba của vua Dực-tông.
Túc-thanh: dọn dẹp chỉnh tề.
quyên cát: là chọn ngày tốt lành.
hiệp-cát: là bói được ngày tốt.
mẫu nghi: Đây là bà Từ-dụ Thái-hậu.
thân: là nhắc lại những điều ước.
công thoan: là công việc xong rồi.
bảo-thành: là khiêm-cung, lăng vua Dực-tông.