1- Lời mở đầu nói sự kế truyền ở nước Việt-nam Ngẫm cơ tạo-hóa khôn lường,
Trải xem trị loạn lẽ thường xưa nay.
Thịnh suy thế vận lần xoay,
Non sông như cũ đổi thay không cùng.
Nước ta Nam-Việt phân phong,
Hiệu Hồng-bàng-thị vốn dòng Thần-nông.
Trị đời mười tám vua Hùng,
Hai ngàn năm lẻ đều cùng nối noi.
Thói quen chất-phác
ít-oi,
Nào từng biến hóa, những vui yên lành.
Đến tuần
thái cực bĩ sinh,
Bị người Trung-quốc đánh giành lần sang.
Đều là phút dậy phút tàn,
Mấy trăm năm ấy rối loàn xiết chi.
Nổi lên Đinh, Lý, Trần, Lê,
Bởi vì phúc hậu mệnh kia trời dành.
Lại hay sửa trị chính lành,
Vậy nên đặng hưởng tôn vinh nghiệp dài.
Mục lân thần phục nước người,
Giữ-gìn cương thổ mấy đời trị-an.
Đến sau chính sự
đãi hoang,
Ngụy Tây thiết cứ bạo cường ngược dân.
2- Vua Gia-long ra đời Cứu đời mừng có
thánh nhân,
Hoàng triều khải vận dẹp quân hung-tàn.
Mở-mang bờ cõi
phong cương,
Thay Lê diệt Trịnh sửa-sang mối giường.
Lựa bày lễ nhạc, văn-chương,
Thần truyền thánh kế muôn phương đức nhuần.
Dân vui
cõi thọ đài xuân,
Sáu mươi năm lẻ,
hưu-trưng thái-bình.
Nào dè bĩ vận gần sinh,
Hoàng-kỳ-tặc tới Bắc-kinh quấy rầy.
Lại thêm thủy hạn thường ngày,
Ơn ra nhờ chúa khéo xoay khỏi nàn.
3- Pháp sang lấy Nam-Việt Lạ thay cái nước Pháp-lan,
Băng ngàn vượt biển lướt sang giòm hành.
Thẳng vào Gia-định tung hoành,
Cậy nghê tàu súng phá thành như chơi.
Ngăn-ngừa không mặt hùng tài,
Cát lầm, thương bấy dân trời một phương.
Chước hòa vậy phải tạm khoan,
Ghi thù sau sẽ liệu toan rửa hờn.
Quyền nghi hết sức lo
lường,
Sai quan đi sứ trăm đường tổn hao.
Cầu hòa ba tỉnh cắt giao,
Hãy còn ba tỉnh lẻn vào cướp không.
Liều mình dốc vẹn niềm trung,
Nhịn ăn cho chết, Phan công hết lòng,
Tóm thu sáu tỉnh Nam Trung,
Lại đòi tiền bạc bồi cùng năm năm.
Chịu mềm chỉn đã rất căm,
Lòng tham nào khác như tằm ăn lên.
Làm cho nhọc lượng lo phiền,
Càng ngày càng thấy những thêm việc vàng.
4- Giặc ở Bắc-Việt. Tây, Tàu ỷ thế dọc ngang,
Thêm đoàn Bắc Khấu quân
ngoan cùng dòng.
Song nhờ chế biến khéo dùng,
Chòm ong, lũ kiến đều cùng quét thanh.
Vua Tàu tuy có giúp binh,
Lấy rồi việc cũng khoe mình rằng công.
Giặc chưa tắt, việc chưa xong,
Biết bao tiền của cấp cung hao phiền,
Mấy năm sau mới chút yên,
Tàu vừa dẹp đặng, Tây liền lại gây.
5- Pháp đánh Bắc-Việt lần thứ nhất Bắc-kỳ gắm ghé bấy nay,
Quyết lòng trở mặt ra tay cướp vầy.
Thình-lình lửa dậy đạn bay,
Sa cơ trí dũng tướng rày bị thương.
Trượng-phu
trác trác gan vàng,
Lăm bêu đầu giặc, sá màng thuốc hay.
Đã đành chín suối chơi mây,
Danh thần tiết liệt xưa nay cùng truyền.
Dâng công,
An-nghiệp tài hèn,
Bị Lưu Vĩnh-Phúc giết liền,
rất ưng.
Sài lang thói dữ chút răn,
Đất thành giao lại, quan quân tha về.
Hiểm sâu chước quỉ khôn dè,
Miễn là đặng của kể gì ước giao.
Những người lấy đức rộng bao,
Tín thành cảm đến Mọi Lào mến ân.
Vậy nên dẹp thói lung-lăng,
Mấy mươi năm ấy dân chăng khốn nghèo.
Chú thích:
ít-oi: đây có nghĩa là thực-thà.
thái cực bĩ sinh: Tháí và bĩ là hai quẻ trong kinh Dịch. Thái là thịnh-vượng, bĩ là suy-đồi.
Mục lân: là nước láng-giềng hòa-thuận, không hay sinh sự.
đãi hoang: là lười-biếng phóng-túng.
Ngụy Tây: là nói Tây-sơn (quan niệm hẹp hòi của nhà Nguyễn về nhà Tây-Sơn)
thiết cứ: là cướp trộm mà lấy.
thánh nhân: là nói vua Gia-long.
phong cương: là bờ cõi.
cõi thọ đài xuân: là do chữ xuân-đài thọ vực tức là cõi người sống lâu dài và đền mát mẻ.
hưu-trưng: cũng như cát trưng là điềm tốt.
[Back to the top]
Hoàng-kỳ-tặc: là giặc cờ vàng; Bắc-kinh là nói Bắc-Việt.
Lại thêm thủy hạn thường ngày: Mấy năm ở Bắc-Việt bị đê vỡ nước-lụt và hạn hán luôn dân rất cực-khổ.
lường: tiếng hờn, người đàng trong đọc là hờng, cho nên câu dưới mới hạ vần lường .
Sai quan đi sứ trăm đường tổn hao: Bấy giờ Triều-đình sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy-Tiếp vào Gia-định giảng-hòa.
Hãy còn ba tỉnh lẻn vào cướp không: Hòa-ước ký năm Nhâm-tuất (1862) Triều-đình ở Huế phải nhường ba tỉnh Biên-hòa, Gia-định và Định-tường và phải trả 4 triệu bạc tiền binh phí. Đến năm Đinh-mão (1867) là 5 năm sau, nước Pháp lấy nốt ba tỉnh Vĩnh-long, An-giang và Hà-tiên.
ngoan: ngoan là ngoan-ngạnh. Đây nói các bọn giặc ở Bắc-Việt.
Lấy rồi việc: nghĩa là làm qua loa cho xong việc. Thủa ấy quan nhà Thanh có cho một toán quân sang Việt-năm đánh một bọn giặc Tàu.
Sa cơ trí dũng tướng rày bị thương: Đây nói Nguyễn Tri-Phương, khi Pháp đánh thành Hà-nội lần thứ nhất, ông bị thương, không chịu để buộc thuốc mà chết.
trác trác: là vững bền.
An-nghiệp: là tên ta đặt để gọi Francis Garnier, hải quân sĩ-quan đánh lấy thành Hà-nội lần thứ nhất.
rất ưng: là ý nói rát đích-dáng, rất hài-lòng.