Thục Sơn Thành là một danh sơn của Trung Hoa. Ba mươi sáu ngọn núi liên tiếp nhau, khí thế rất hùng vĩ, cây cối mọc um tùm...
Mùa đông vừa qua, mùa xuân lại tới, ba mươi sáu ngọn núi Thanh Thành vẫn còn nhiều ngọn tích đầy tuyết, gió núi vẫn lạnh lùng như mùa đông vậy.
Vì thế mà các nhân sĩ phong nhã thường hay lên núi ngao du cũng phải bó cẳng, không dám lui tới, nên ba mươi sáu ngọn núi không có hình bóng người nào cả.
Ngọn núi cao nhất của dãy Thanh Thành có khắc một thạch tượng hình nho sinh, cao chừng năm, sáu trượng. Người điêu khắc quá tài ba nên trông thạch tượng đó như một người sống vậy.
Trên vách núi chỗ cách đỉnh đầu của thạch tượng hơn thước có khắc bốn chữ sơn son thực lớn: “Vĩnh chỉ can qua” (ngừng đánh nhau vĩnh viễn).
Pho tượng đó là di tượng của Nhất Tôn, một vị tiên hiệp đã chấn động hoàn vũ vào hồi trăm năm về trước.
Tuy Nhất Tôn coi kẻ ác như kẻ thù nhưng suốt đời hai bàn tay của vị tiên hiệp ấy chưa hề dính qua máu tanh. Các đại môn phái thấy thế muốn dẹp hẳn sát nghiệp của võ lâm mãi mãi mới cùng lập di tượng của vị tiên hiệp này để trấn hung trị sát. Trong suốt trăm năm nay tuy thỉnh thoảng cũng có vụ đổ máu xảy ra nhưng toàn là những việc xích mích nho nhỏ, nên thời kỳ an ninh này quả thực từ khi có lịch sử võ lâm đến giờ chưa lúc nào lại được như thế cả.
Chỗ cách thạch tượng chừng mười trượng có một cái đình tên là Nhật Quan đình, có bốn cái ghế đá hình như cái trống. Tuy lúc này gió lạnh buốt xương, tuyết phủ đầy núi mà vẫn có bốn ông già áo đen đang lẳng lặng ngồi yên ở trên bốn cái ghế ấy.
Bốn ông già áo đen sắc mặt nhợt nhạt, thần thái lờ đờ, nhắm mắt ngồi xếp bằng tròn.
Tha hồ gió lạnh thổi buốt xương, những mảnh tuyết dính đầy râu tóc, nhưng không một người nào nhấp nháy mắt một chút, không khác gì bốn pho tượng sống vậy.
Đột nhiên bốn ông già áo đen ngồi cứng ngắt đó bỗng cùng rung động một cái. Tám đôi mắt sắc bén đều nhìn thẳng xuống con đường núi rất dốc, nhưng chỉ liếc nhìn qua một cái thôi, rồi cả bốn lại nhắm nghiền hai mắt lại như cũ.
Một lát sau, con đường núi rất dốc, phủ đầy tuyết kia bỗng xuất hiện một cái bóng trắng. Bóng người nọ với tuyết cùng trắng toát, nếu mắt của người nào hơi kém là không sao có thể phân biệt được.
Bóng người trắng như tuyết kia vừa lên tới trên đỉnh núi, hơi ngừng chân một chút, đã vội lướt nhanh như bay đến trước mặt bốn ông già áo đen kia liền.
Lúc ấy người ta mới trông thấy rõ cái bóng trắng như tuyết ấy là một thiếu niên anh tuấn, mặt đẹp như Phan An tái thế, mình mặc bộ ngồi phục màu trắng.
Chàng rảo bước tiến lên, thái độ rất cung kính và có vẻ không yên, vái chào bốn ông già, ngập ngừng một hồi mới nói :
- Ngọc nhi tới chậm khiến bốn vị thúc thúc phải chịu lạnh đợi chờ...
Chàng chưa nói dứt, bốn ông già áo đen bỗng cùng trợn mắt lên nhìn chàng một hồi.
Thiếu niên áo trắng thấy bốn ông già nhìn mình như vậy nên rùng mình đến thót một cái, đang định nói tiếp lại vội ngậm miệng ngay.
Ông già ngồi bên trái cao lớn, vạm vỡ, trông rất oai mãnh, lạnh lùng nhìn thiếu niên xong, vơ giọng nói thiếu cảm tình mà lên tiếng nói rằng :
- Trên mặt tuyết vết chân vẫn ngập hàng nửa thước! Ba năm không gặp mặt cháu mà không thấy cháu tiến bộ được chút nào khiến ngu thúc các người thất vọng vô cùng.
Thiếu niên nọ hổ thẹn đến mặt đỏ bừng, chỉ lẳng lặng cúi đầu xuống thôi chứ không dám trả lời.
Ông già cao lớn ấy lại lạnh lùng nói tiếp :
- Không phải ngu thúc các người vô tình mà quá nghiêm khắc, vừa thấy mặt cháu đã khiển trách như vậy đâu. Sở dĩ ngu thúc vừa có lời lẽ này cũng vì lo ngại cho họ Độc Cô của cháu có mối thâm thù lớn tựa bể máu như thế mà chỉ trông mong ở một mình cháu trả huyết hận. Không ngờ công lực của cháu lại tiến bộ một cách chậm chạp đến như thế. Đừng nói là không thể so sánh nổi với kẻ thù, mà chỉ đối phó với cách đại môn phái cũng hãy còn kém người ta xa! Như vậy bốn vị thúc thúc không lo ngại sao được. Ba năm nay, ngu thúc bốn người ngậm đắng nuốt cay, cửu tử nhất sinh, đi khắp hoàn vũ như vậy cũng chỉ vì mấy việc đại sự của họ Độc Cô của cháu thôi, mà cháu lại không chịu khó, không...
Ông già gầy gò ngồi cạnh đó bỗng lên tiếng xen lời :
- Đại ca! Lúc này đã muộn lắm rồi, có việc gì dặn bảo nó thì đại ca mau dặn bảo đi.
Ông già cao lớn, vạm vỡ liếc nhìn thiếu niên một cái rồi lại lạnh lùng nói tiếp :
- Ba năm nay, ngu thúc bốn người đi khắp hoàn vũ, cũng may đã tìm kiếm ra được kẻ đại thù đã giết hại cả gia đình họ Độc Cô của cháu...
Thiếu niên áo trắng nghe tới đó rất hồi hộp vội đỡ lời :
- An thúc, chẳng hay hung thủ đã giết hại cả gia đình họ Độc Cô của cháu là ai?
- Cháu nóng lòng như thế làm chi?
Ông già cao lớn vạm vỡ lạnh lùng quát như vậy và nói tiếp :
- Ngu thúc bốn người chỉ có rất ít thời giờ ở lại đây thôi, có mấy việc đại sự quan trọng lắm, cháu phải lắng tai nghe cho kỹ, không được xen lời hỏi.
Thiếu niên bị mắng rùng mình đến thót một cái rồi vội cúi đầu xuống. Ông già cao lớn dùng giọng mũi kêu “hừ” một tiếng rồi nói tiếp :
- Huyết hải thâm cừu của họ Độc Cô cháu là do Long Phan lệnh chủ, là người cùng với Tuyết Y Huyết Thần được thiên hạ gọi là Vũ Nội nhị đại hung nhân. Người này rất độc ác, công lực cái thế, cơ trí tuyệt luân. Mười mấy năm nay không ai trông thấy rõ mặt thực của y cả, mà cả đến tên họ thực của y cũng thế. Chỉ biết lá cờ lệnh thêu con rồng của y gọi là Long Phan lệnh, hễ đi tới đâu thì xác người nằm ngỗn ngang tới đó.
Chỉ căn cứ vào điểm ấy, cháu muốn tìm kiếm kẻ thù không đội trời chung không khó khăn chút nào. Đây là đại sự thứ nhất...
Ngưng giây lát, ông ta lại nói tiếp :
- Trước kia hãy còn mồ mã cha cháu, gia đình của cháu có cuốn võ học bí kíp tên là Quy chân kinh. Người trong võ lâm ai ai cũng muốn cướp được cuốn bí kíp ấy. Bí kíp còn có chia ra làm hai, cuốn thượng và hạ. Cuốn thượng đã bị Long Phan lệnh chủ cướp mất, còn cuốn hạ thì lưu lạc vào tay của các đại môn phái. Bí kíp này là vật báu gia truyền của nhà cháu, dù sao cháu cũng phải thu hồi lại mới được. Nếu có phải dùng máu rửa các đại môn phái cũng không nên tiếc tay. Đại trượng phu sống ở trên đời phải dùng chữ Khẩn, nghĩa là độc ác xử sự mới được. Huống hồ người của các đại môn phái vẫn tự cho mình là giới hiệp nghĩa, nhưng thực ra chúng lại đều là những kẻ thậm gian ác, đối với những kẻ ấy cháu khỏi cần phải nương tay. Đấy là việc thứ hai, cháu có làm được không?
Hơi do dự giây lát, thiếu niên nghiến răng, mím môi đáp :
- Ngọc nhi có thể làm được!
Ông già cao lớn vạm vỡ mặt lầm lỳ như thế mà nghe thấy thiếu niên trả lời như vậy cũng hơi mỉm cười. Ông ta gật đầu một cái rồi lại tiếp :
- Hổ phụ không bao giờ có khuyển tử. Nếu cháu không làm nổi hai công việc ấy sẽ là đứa con bất hiếu và còn phụ lòng ngu thúc mấy người dạy dỗ cháu mười mấy năm nay và xả thân bôn ba đây đó. Còn việc sau cùng, là ngu thúc đã tầm được danh sư cho cháu rồi. Công việc ở đây xong, cháu phải đi ngay đến núi Thái Mụ ở phía đông tỉnh Phúc Kiến, mang theo nửa miếng tín phù, tìm kiếm một vị kỳ tài cái thế tên là Bách Hiểu lão nhân rồi ông ta sẽ chỉ đường cho cháu đi đến một chỗ không ai biết tới mà tầm sư học nghệ. Duy chỉ có ông ta giới thiệu vị thế ngoại cao nhân nọ để cháu học võ của vị ấy mới hy vọng trả thù được cho cha mẹ cháu. Vì chỉ có võ công của vị kỳ nhân ấy mới khắc chế nổi võ công của kẻ thù rất lợi hại kia thôi. Nửa miếng tín phù này quan trọng lắm, cháu phải coi trọng nó hơn cả tính mạng của mình, chớ để nó thất lạc. Bằng không, tất cả mọi việc sẽ bị tiêu tan hết. Cháu nên nhớ kỹ. Này, cầm lấy.
Nói xong, y thuận tay ném cho thiếu niên nọ một vật gì đen và vàng, không nhanh, không nhẹ, không nặng, bay tới người của thiếu niên. Công lực như vậy hiển nhiên đã thuộc hạng nhất lưu cao thủ rồi.
Ông già áo đen ném xong miếng tín phù cho thiếu niên lại bỗng thở dài một tiếng và nói tiếp :
- Anh em ngu thúc mấy người là bạn thân mấy chục năm của cha cháu. Đáng lẽ phải toàn lực trợ giúp cháu đến cùng, nhưng vì nửa năm trước đây, anh em ngu thúc mấy người đầu voi Vũ nội nhị quân và người của các môn phái một trận rất kịch liệt nên nội tạng của anh em ngu thúc đã bị thương nặng, chắc không sống được bao lâu nữa...
Thiếu niên nghe ông già áo đen nói như vậy mặt liền biến sắc và tỏ vẻ rất lo âu, đang định lên tiếng đỡ lời.
Ông già áo đen vội xua tay, không để cho chàng nói, lạnh lùng tiếp :
- Người ta sống ở trên đời, ai ai cũng chết một lần, chỉ có sớm hay muộn thôi. Anh em ngu thúc tuổi đã quá năm mươi rồi, bây giờ có chết cũng không phải là chết yểu.
Tuy vết nội thương cũng không hại đến nổi tính mạng nhưng sau khi chữa lành mạnh, thể nào cũng biến thành phế nhân. Sở dĩ sống trộm ở trên đời như vậy là vì phục thù cho bạn thân nên hễ trả được thù rồi, anh em ngu thúc sẽ tự tử để xuống dưới chín suối gặp cha cháu. Đại trượng phu đành đổ máu chứ không chịu nhỏ lệ. Cha cháu lừng danh suốt đời ai cũng biết là anh hùng cái thế, vậy cháu đừng có thái độ nhỏ lệ như con gái. Cách biệt phen này không khác chi vĩnh biệt. Mọi sự thành bại đều trông mong vào mình cháu. Nghĩ đến cha mẹ, cháu phải nên cố gắng. Nếu cháu hoàn thành được những việc đó tức là đại hiếu và cũng đền ơn anh em ngu thúc mấy người đã trông nom cháu mười mấy năm nay.
Thiếu niên áo trắng nghe ông già nọ nói xong, dù trong lòng rất lo âu và đau đớn mà không dám để lộ ra ngoài mặt. Chàng cứ phải dằn lòng, không để cho nước mắt ứa ra, rồi cương quyết đáp :
- Xin bốn vị thúc thúc cứ yên tâm, Ngọc nhi quyết không phụ lòng bốn vị đâu, dù bị rụng đầu, đổ máu, tan xương, nát thịt...
Ông già áo đen cao lớn đột nhiên xua tay ngắt lời, nói tiếp :
- Đủ rồi, nếu cháu hoàn thành được các đại sự ấy thì cha mẹ cháu và anh em ngu thúc mấy người đều yên dạ dưới suối vàng. Cháu cần nhớ kỹ câu này: “Muốn hoàn thành cả việc đại sự thì dù có giết chóc nhiều một chút cũng không sao”. Bây giờ cũng đã muộn rồi, cháu phải cẩn thận để ý xem, anh em ngu thúc bốn người sẽ lần lượt truyền thụ cho cháu một thế võ tuyệt kỹ nhất đời mình. Với công lực của cháu hiện thời, tuy không giết nổi kẻ địch nhưng vẫn có thể bảo tồn được tính mạng. Bốn thế võ tuyệt kỹ của anh em ngu thúc ấy là: Liêm Quyển Tây Phong (gió tây cuộn mạnh), Ngân Hán Phi Tinh (Sao bay Ngân Hà), Lộ Hoa Đảo Ảnh (Bóng phủ trên sương) và Quế Tử Phiêu Hương (Quế tỏa mùi thơm). Cháu phải coi thật kỹ nhé!
Nói xong, ông ta múa song chưởng biểu diễn luôn thế võ tuyệt kỹ của mình rồi lần lượt đến ba ông già kia. Chỉ trong nháy mắt bốn người đã biểu diễn xong. Tuy mỗi người chỉ giở có một thế võ ra thôi nhưng chưởng phong kình khí đều biến hóa vô song, huyền ảo khôn lường.
Bốn người biểu diễn xong các thế võ ấy, ông già cao lớn lạnh lùng hỏi thiếu niên :
- Thế nào? Cháu có cần ngu thúc biểu diễn lại một lần nữa cho cháu xem không?
Thiếu niên áo trắng rất cảm động, cung kính đáp :
- Đa tạ bốn vị thúc thúc. Ngọc nhi đã nhớ thuộc lòng và tâm lĩnh thần hội rồi.
Ông già cao lớn thấy chàng nói như vậy, vẻ mặt hơi hớn hở nhưng lạnh lùng nói tiếp :
- Anh em ngu thúc ở gần cháu mười mấy năm nay mà không biết cháu thông minh và có trí nhớ hơn người như thế. Quý hồ cháu cố chịu khó luyện tập, không bao lâu việc gì cũng sẽ thành tựu ngay chứ đừng có nản chí. Thôi! Cháu đi đi!
Thiếu niên áo trắng nghiến răng, mím môi và quỳ xuống, cung kính vái lạy bốn ông già đó một lạy rồi đứng dậy quay người đi luôn chứ không hề nói nửa lời. Chàng mới đi được nửa bước bỗng nghe thấy phía sau có mấy tiếng rú lên vừa dài, vừa thảm khốc.
Chàng rùng mình đến phắt một cái, vội quay đầu lại nhìn, đã thấy bốn cái bóng đen ở trên Nhật Quan đình đâm đầu nhảy xuống dưới vực thẳm sâu nghìn trượng. Chàng hoảng sợ đến mất hồn mất vía, liền rú lên một tiếng, vội chạy tới chỗ mép sườn núi, cúi đầu nhìn xuống vực thẳm. Chàng chỉ thấy gió lạnh thổi vù vù, hoa tuyết bay phất phới chứ không thấy tung tích của bốn ông già áo đen đâu nữa. Chàng đau lòng khôn tả, sụt sùi khóc, nước mắt đã chảy ròng ròng xuống như mưa. Dần dần, thần sắc chàng đã biến đổi hẳn. Bộ mặt đang hồng hào bỗng nhợt nhạt đến kinh người, hai mắt đỏ ngầu, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau đến kêu “ken két” vào còn rỉ máu tươi ra nữa.
Đột nhiên, chàng cất tiếng cười thật dài, thật bi đát. Những ngọn núi ở quanh đó cũng bị rung động, những mảnh tuyết ở trên sườn đồi núi ấy để lở xuống liên tiếp.
Chàng quay người một vòng, chạy theo đường lối cũ như điên, như khùng, chỉ trong nháy mắt đã mất dạng ở dưới chân núi đang có mây bay lơ lững...
Bóng người của thiếu niên vừa mất hút thì đột nhiên có tiếng kêu long trời lở đất vang lên. Những lớp tuyết tích tụ ở trên sườn núi bắt đầu vỡ lở, đổ xuống như thác lũ.
Lại có tiếng kêu nữa, pho tượng đá Nhất Tôn đứng ở trên đỉnh núi trấn hung chỉ sát gần trăm năm nay lúc này cũng gãy làm đôi, theo những vỡ lở của tuyết mà đổ xuống.
* * * * *
Hôm ấy vào tết Nguyên Tiêu, khắp vùng Nhạc Dương tuyết phủ cả bầu trời. Không khí lạnh lẽo, gió bấc thổi mạnh, vạn vật hầu như bao phủ bởi tuyết.
Lầu Nhạc Dương cao lớn sừng sững như một tường thành. Nơi đây từ xưa đến nay nổi tiếng là nơi thanh lịch, thi vị và cũng là một danh lam thắng cảnh nữa.
Những món ăn ở đây đặc biệt ngon. Rượu cũng thơm ngon hơn những nơi khác nên tuy trời rét mướt mà vẫn có khách đến thưởng thức.
Lúc ấy vào buổi chiều, trên lầu Nhạc Dương đang có mấy người khách ngồi uống rượu ngắm cảnh. Bàn ở phía bên trái lầu có hai người đang ngồi đối ẩm đàm luận. Một người đàn ông và một thiếu niên. Người đàn ông trạc độ ngoài ba mươi tuổi, người cao lớn, mặt vuông mày rộng, gương mặt chữ điền, bận một bộ võ phục màu xám, bó sát lấy thân hình lực lưỡng, trông thật là oai vệ. Còn người thiếu niên mày thanh mục tú, lông mày nhỏ cong như hình lá liễu trên đôi mắt phượng hơi xếch lên, mũi thon cao trắng muốt thật tương xứng với cặp môi hình trái tim ửng hồng, gương mặt trái soan, trông chẳng khác một nàng thiếu nữ tuyệt sắc. Thiếu niên này da trắng mịn, khoác trên mình trong bộ áo thư sinh màu xanh da trời, cặp má luôn ửng hồng trông thật đẹp. Có lẽ Phan An tái thế cũng chỉ đẹp đến thế là cùng. Tại một bàn gần đấy, sát bên cửa sổ có một thư sinh áo trắng ngồi lặng lẻ một mình ngắm phong cảnh bên ngoài. Thư sinh này gương mặt chữ điền, lông mày như như lưỡi kiếm, hai mắt hơi xếch, ánh mắt lấp lánh không giận mà oai, mũi cao miệng rộng, trông thật là tuấn tú phi phàm. Vẻ đẹp của thư sinh này trông nam tính hơn thiếu niên áo xanh nhiều. Thư sinh này bận một cái áo nho sinh trắng buốt từ cổ tới chân. Màu trắng của áo hòa lẫn màu tuyết trắng phau phau thật chẳng khác gì một hàn sĩ trong tranh.
Lúc ấy, tại cái bàn mé trái của người khách trung niên và chàng trai nọ dường như đang bàn luận điều gì. Chỉ nghe thấy thiếu niên nọ cất giọng trong trẻo nói :
- Cổ nhân nói: “Trời cao còn có trời khác cao hơn, người giỏi lại còn có người khác giỏi hơn”, lời này quả thực không sai chút nào. Nếu đệ không có chuyến đi Nga Mỹ ấy thì thế nào cũng thông cảm lời nói của huynh, nhưng nhờ có nửa năm đi Nga Mỹ đó, đệ mới phản đối lời này.
Đại hán nọ ngạc nhiên hỏi lại :
- Sao hiền đệ lại nói như thế?
Thiếu niên vừa cười vừa đáp :
- Huynh chỉ biết tán dương Đại Bi thượng nhân với Bách Hiểu lão nhân là tài ba như vậy và cũng là Vũ nội nhị đại kỳ nhân nhưng huynh có biết đâu Đại Bi thượng nhân lại phục và khen ngợi hai người khác và tự cho mình với Bách Hiểu lão nhân là kẻ vô dụng bất tài.
Đại hán nọ nghe thấy chàng ta nói như vậy rất kinh ngạc, vội hỏi tiếp :
- Hiền đệ nói gì thế? Chả lẽ Đại Bi thượng nhân với Bách Hiểu lão nhân xuất chúng như vậy mà còn kém hai người khác như một trời một vực hay sao? Mỗ không tin mỗ lại là người ngu si dốt nát đến nổi đại sự như vậy mà cũng không hay biết gì cả. Hiền đệ thử nói cho mỗ nghe xem hai người ấy là ai?
Thiếu niên vừa cười vừa đáp :
- Có lẽ Đại Bi thượng nhân với Bách Hiểu lão nhân là hai thần tượng đã in sâu vào đầu óc của huynh lâu năm rồi nên huynh mới có ý nghĩ như vậy. Sự thực không riêng gì huynh mà ngay cả đệ cũng vậy. Lúc mới nghe thấy Đại Bi thượng nhân nói lại cứ cho thượng nhân là quá khiêm tốn. Nếu huynh không tin đệ cũng không dám cưởng ép huynh đâu. Nhưng chờ tới khi đệ nói tên tuổi hai người kia ra rồi có lẽ lòng tin tưởng của huynh mới bị lay đổi, thậm chí còn thay đổi hẳn sự quan sát và nhận xét của huynh là đằng khác.
Nói tới đó, chàng như hữu ý mà vô ý, đưa mắt liếc nhìn thư sinh áo trắng ngồi cạnh một cái rồi mới nói tiếp :
- Hai người này người ta đã đồn ầm là đã quy tiên ngót một con giáp rồi. Một người tên là Tuyết Y Huyết Thần Liễu Vô Kỵ...
Đại hán nọ rùng mình đến thót một cái, vội đỡ lời, thất thanh hỏi :
- Thiên hạ đồn ầm ư? Chả lẽ Tuyết Y Huyết Thần chưa chết thực hay sao?
Thiếu niên tủm tỉm cười đáp :
- Nếu y đã chết thì khi nào Đại Bi thượng nhân lại phải tôn y làm Vũ Nội đệ nhất kỳ nhân như thế?
Đại hán nọ ngồi im một hồi mới gật đầu nghiêm nghị hỏi tiếp :
- Hiền đệ nói đúng đấy! Tuy Đại Bi thượng nhân là người bác học, võ công cao tuyệt thực, nhưng so sánh với Tuyết Y Huyết Thần thì quả còn kém xa! Mỗ nhìn nhận hiền đệ nói đúng. Thế còn người thứ hai là ai thế?
Thiếu niên bỗng trợn ngược đôi lông mày lên, mặt lộ sát khí, nhưng chỉ thoáng cái thôi, chàng ta lại mỉm cười nói tiếp :
- Người thứ hai này, lúc đệ mới nghe tới cũng cảm thấy hơi ngạc nhiên và theo ý đệ thì người đó không thể được liệt vào hàng Đại kỳ nhân được, mà phải gọi là đại hung nhân mới đúng!
Đại hán nọ ngạc nhiên hỏi lại :
- Ai thế?
Thiếu niên khẽ đáp :
- Long Phan lệnh chủ!
Đại hán kia nghe nói mặt liền biến sắc, buột miệng hỏi lại :
- Cái gì? Hiền đệ nói Long...
Y chưa kịp nói chữ Phan thì thiếu niên ngồi cạnh y đã thoáng thấy thư sinh áo trắng bỗng rùng mình đến thót một cái, suýt tí nữa thì đánh rơi đôi đũa xuống mặt bàn nên chàng vội xua tay bảo đại hán đừng nói tiếp nữa.
Đại hán đã cảnh giác vội ngắt lời không nói nữa. Thiếu niên dường như hữu ý và cũng như vô ý, giơ bàn tay phải trắng như tuyết ra vẫy về phía cửa sổ một cái. Nước tuyết ở trên mái nhà đang rỏ ròng ròng xuống như bị một cái gì thu hút bay ngay vào trong lầu, rơi xuống mặt bàn của chàng ta, thế là trên mặt bàn của thiếu niên đã có mấy giòng nước ngay. Thiếu niên mỉm cười, dùng ngón tay chấm vào những giọt nước ấy viết mấy chữ lên mặt bàn cho đại hán kia xem như sau :
“Thư sinh ngồi bàn kế bên hình tích rất khả nghi...”
Đại hán đọc xong mấy chữ ấy thần sắc hơi biến đổi và cau mày lại ngay.
- Thưa Thiếu trại chủ! Rượu và thức ăn đã dọn ra, mời Thiếu trại chủ nếm món cá chép băng ở hồ Động Đình này.
Tên phổ ky đã bưng cái khay, trong có một đĩa cá chép với hủ rượu ra mời. Đại hán ngẩn người ra giây lát, rồi vừa cười vừa hỏi lại :
- Cá chép băng có phải là cá chép đã câu được ở dưới lớp băng chưa tan của nửa hồ bên phía Bắc phải không?
Y vừa nói vừa đưa mắt liếc nhìn thư sinh áo trắng ngồi cạnh đó một cái.
Tên phổ ky cười nịnh đáp :
- Thiếu trại chủ quả thực là danh trấn Lưỡng hồ có khác. Cá chép băng chính là thứ cá chép đã câu được dưới lớp băng của nửa hồ phía Bắc...
Y vừa nói vừa để thức ăn và rượu xuống bàn, rồi hỏi lại đại hán kia rằng :
- Thiếu trại chủ còn dặn bảo điều gì nữa không?
Đại hán xua tay nói :
- Không! Khi nào có việc gì ta sẽ gọi sau.
Tên phổ ky cung kính vái chào rồi rút lui ngay.
Đại hán nọ cầm ấm rượu lên rót cho thiếu niên với mình mỗi người một chén rồi nhúng tay vào rượu, viết lên mặt bàn như sau :
“Thư sinh thường là kẻ vô dụng, hiền đệ lo âu như vậy là chuyện thừa!”
Thiếu niên tủm tỉm cười, cũng chấm tay vào rượu viết tiếp :
“Hiền đệ cho y là Long Phan lệnh chủ chăng? Đệ chỉ nghi ngờ thôi chớ không dám nói chắc là thực, nhưng dù sao chúng ta cũng nên đề phòng thì hơn.”
Đại hán cau mày lại viết tiếp :
“Nếu y là hung thần thực thì lời nói đã lọt vào tai y, biết làm sao bây giờ?”
Thiếu niên trầm ngâm giây lát, hai má nóng bừng, nhưng lại trợn ngược đôi lông mày lên, cương quyết viết tiếp :
“Đại ca thử mời y sang đây nói chuyện đi.”
Đại hán ngẩn người ra giây lát mới viết tiếp :
“Hiền đệ có đủ tài đấu với Long Phan lệnh chủ không?”
“Hà tất phải đấu bằng tay chân, đấu khẩu cũng được chứ sao! Chúng ta tùy cơ hành sự là được rồi.”
Đại hán ngẫm nghĩ giây lát đột nhiên đứng dậy, đi tới bàn kế bên chắp tay chào mỉm cười nói :
- Xin thứ lỗi sự đường đột của tiểu đệ! Huynh đài độc ẩm như thế này hình như có vẻ hơi lẻ loi và buồn tẻ một chút nên đệ mới sang đây mời huynh đài tới bàn của anh em chúng tôi để chúng ta cùng nhau say sưa một phen.
Thư sinh áo trắng ngẩn người ra giây lát, rồi đứng dậy vái chào và đáp :
- Không dám! Tại hạ chỉ là một tên nho hủ rất thường tục, nếu sang ngồi uống rượu với nhị vị, chỉ e làm giảm hứng thú của hai vị thôi.
Đại hán vừa cười vừa đáp :
- Huynh đài hà tất phải nói như thế! Tại hạ đây là một tên vũ phu thô lỗ, với nghĩa đệ hai người đã để ý đến huynh đài từ lâu. Tuy chưa được tiếp chuyện nhưng rất ngưỡng mộ huynh đài cho nên mới dám táo gan sang mời như thế này.
Thư sinh áo trắng trầm ngâm giây lát rồi đáp :
- Chúng ta mới gặp nhau lần đầu đệ đâu dám sang quấy nhiễu hai vị như thế!
Đại hán chưa kịp trả lời thì thiếu niên đang ngồi ở phía sau y bỗng đứng dậy, quay người trở lại vừa cười vừa đỡ lời :
- Chúng ta gặp nhau nơi đây kể cũng là duyên phận. Huynh đài là nhà nhã sĩ thì hà tất phải câu nệ tiểu tiết như thế?
Thư sinh áo trắng nghe nói vậy, quay đầu lại nhìn thiếu niên nọ một cái rồi đáp :
- Được hai vị cho mời như thế nếu đệ còn từ chối nữa thì thực là không biết điều chút nào. Tại hạ xin quấy nhiễu hai vị một bữa vậy.
Chàng ta nói xong, quay người định chuyển chén và bát đũa của mình sang bàn bên kia, ngờ đâu đại hán nọ đã dọn hộ chàng trước rồi. Chàng ngẩn người ra vội nói :
- Tại hạ đã sang bàn hai vị quấy nhiễu, đâu dám phiền hai vị dọn hộ cho như thế...
Đại hán trung niên vội đỡ lời :
- Tại hạ là một tên võ phu không biết gì hết, xin mời huynh sang bên này.
Y vừa nói vừa đứng dậy giơ tay ra mời. Bất đắc dĩ thư sinh áo trắng phải gượng cười một tiếng, mồm vừa nói cảm ơn, chân đã bước sang bàn kế bên ngay. Còn thiếu niên kia không hiểu vì việc gì mà đang ngẩn người ra suy nghĩ, thấy thư sinh đã sang tới nơi vội thâu liễm tâm thần, chắp tay chào mời khách vô ngồi.
Ba người khiêm tốn một hồi. Đại hán trung niên cầm ấm rót luôn cho thư sinh một chén rượu rồi nói :
- Ngu huynh đệ ngày hôm nay được ăn nhậu cùng một cao nhân nhã sĩ như huynh quả thực không phụ Tiết Nguyên Tiêu đêm nay. Nhưng sự gặp gỡ này cũng phải nói là có duyên, xin huynh đài cho phép đệ kính mời một chén.
Nói xong, đại hán cầm chén rượu của mình lên uống cạn luôn.
Thấy đại hán tửu lượng cao như vậy, thư sinh cũng phải chau mày lại bẽn lẽn đáp :
- Tại hạ không dám! Đáng lẽ tại hạ phải mời hai vị xơi cạn một chén trước mới phải nhưng tửu lượng của hai vị rất cao mà tại hạ thì rất kém, xin hai vị cho phép chỉ uống nửa chén thôi, chứ uống một hơi như vị huynh đài này thì đệ sẽ bị say ngay.
Nói xong, chàng đưa chén lên miệng nhắp một chút. Đại hán trung niên thấy thế cũng không bắt ép, chỉ mỉm cười cầm ấm rượu rót thêm vào chén của chàng thực đầy mới thôi. Nhưng khi chén rượu sắp đầy thì tay của đại hán bỗng lại trĩu xuống một cái.
Bỗng một tiếng kêu “cong cong” nổi lên, thư sinh cầm không vững chén rượu liền đánh rơi ngay xuống mặt bàn.
Đại hán trung niên đã nhanh tay đỡ lấy chén rượu nên mới không bị rơi vỡ. Tuy vậy, cái áo dài của thư sinh bị bắn phải cũng đã ướt rất nhiều chỗ. Chàng hổ thẹn đến mặt đỏ bừng... liền ngẩn người ra, mồm há hốc.
Thiếu niên ngồi cạnh đó vội đứng dậy lau chùi áo cho thư sinh, còn đại hán thì xin lỗi luôn mồm :
- Tại hạ đáng chết thực! Làm bẩn hết áo quần của huynh đài.
Thư sinh vội khua tay, gượng cười đỡ lời :
- Sao huynh đài lại nói như thế! Đó chính là tại hạ không cầm vững...
Chàng vừa nói tới đó, bỗng ngửi thấy một mùi thơm như lan như xạ xông lên mũi, vội nhìn xuống để xem là vật gì mà lại có mùi thơm như thế, mới hay là chiếc khăn lụa trắng của thiếu niên nọ đang cầm ở trên tay để lau chùi vạt áo cho mình bốc lên, nên chàng lại càng ngạc nhiên thêm.
Hình như thiếu niên nọ biết vậy nên có vẻ hổ thẹn, gượng cười một tiếng và nói :
- Minh huynh của tại hạ lỡ tay làm dơ áo lụa trắng của huynh đài khiến tại hạ không yên tâm chút nào.
Chàng vừa nói vừa bỏ cái khăn lụa vào trong túi.
Thư sinh hơi định thần rồi mới gượng đỡ lời :
- Chuyện nhỏ nhặt như thế hà tất hai vị phải bận lòng làm chi! Nếu việc này mà khiến hai vị mất hết hứng thú uống rượu thì tại hạ mới thực là áy náy không yên.
Thiếu niên nọ tủm tỉm cười, lẳng lặng trở về chỗ ngồi và đưa mắt ra hiệu cho đại hán trung niên một cái rất nhanh.
Rượu qua ba tuần, thiếu niên nọ bỗng để chén xuống bàn rồi nói :
- Tại hạ là Gia Cát Quỳnh Anh, còn vị này là người anh kết nghĩa của tại hạ tên là Gia Cát Đởm, biệt hiệu là Thần Mục Kim Cương và cũng là Thiếu trại chủ của Động Đình nhị thập bát trại. Còn huynh đài quý tánh là chi, xin cho anh em tại hạ được hay biết?
Thư sinh nghe nói vội đáp :
- Thưa Cát huynh cùng Thiếu trại chủ. Chỉ xem bề ngoài của hai vị cũng đủ biết không phải là người thường. Không ngờ Gia Cát huynh là Thiếu trại chủ của Động Đình nhị thập bát trại mà tại hạ đã ngưỡng mộ đại danh từ lâu. Đêm hôm nay được hai vị cho phép tại hạ kết giao như thế này tại hạ lấy làm vinh hạnh và nhận thấy mình rất thất lễ.
Đại hán bỗng cười khì, hớn hở nói :
- Xin huynh đài đừng có nói cái gì là hân hạnh với thất lễ như thế nữa! Huynh càng nói những lời lẽ ấy càng làm cho Gia Cát Đởm này hổ thẹn thêm. Xin huynh đừng có nghe những lời nói bậy bạ của minh đệ. Chính vì minh đệ của tại hạ đây mới thực là nhân phẩm và tài hoa xuất chúng nhưng lại cứ thích khen ngợi bừa người khác như thế.
Thư sinh tủm tỉm cười không nói năng, chỉ hơi trầm ngâm một chút mới nói tiếp :
- Tại hạ là Đỗ Ngọc.
Thiếu niên lại lên tiếng :
- Thế ra huynh đài họ Đỗ đây! Tại hạ đường đột hỏi một câu này, xin huynh đài miễn chấp cho. Hình như Đỗ huynh không phải là người ở nơi đây phải không?
Thư sinh gật đầu đáp :
- Cát huynh nói rất đúng. Tại hạ là người ở Biện Lương.
Thiếu niên kêu “ạ” lên một tiếng, nói tiếp :
- Biện Lương ở Trung Châu là nơi địa linh nhân kiệt, phải những nơi như thế mới có những nhân vật như Đỗ huynh.
Thư sinh vội đỡ lời :
- Cát huynh cứ quá khen đấy thôi. Đất Biện Lương tuy là chỗ nhân kiệt địa linh thực, nhưng Đỗ Ngọc tôi lại sinh trưởng ở chốn rừng núi.
Thiếu niên nghe thấy thư sinh nói như vậy, mặt hơi đỏ bừng, có vẻ ngượng nghịu, không biết nói năng gì nữa. Gia Cát Đởm thấy thế cười thầm, vội nói lảng sang chuyện khác và hỏi thư sinh tiếp :
- Thế Đỗ huynh ở đâu tới thế?
Thư sinh đã biết là mình vừa lỡ lời nên rất hối hận, mặt lộ vẽ không yên, nhìn Gia Cát Quỳnh Anh mà ngẩn người ra. Chàng thấy Gia Cát Đởm hỏi như vậy mới vội đáp :
- Tiểu đệ ở Tứ Xuyên tới.
Quỳnh Anh nghe nói vội xen lời, hỏi :
- Tứ Xuyên cách đây hàng ngàn dặm, Đỗ huynh không quảng ngại đường xá xa xôi, đi một mình tới Động Đình này, chắc phải có việc gì quan trọng lắm nên huynh mới đi xa như thế phải không?
Đỗ Ngọc chần chừ giây lát mới thở dài một tiếng rồi đáp :
- Tiểu đệ không dám giấu diếm gì hai vị. Vì mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ nên tiểu đệ chỉ có một thân một mình. Vả lại bình sinh không có chí lớn như người ta, nói riêng chỉ thích đi ngao du khắp mọi nơi. Đệ nghe người ta nói Động Đình hồ với lầu Nhạc Dương này có rất nhiều kỳ tích nên mới không quảng ngại xa xôi ngàn dặm đến đây...
Nghe tới đó, Gia Cát Đởm đã cười ha hả và đỡ lời :
- Đêm nay chúng tôi được gặp một người nho nhã như huynh và được huynh hạ cố khiến Động Đình này càng tăng thêm vẻ đẹp, và hai mươi tám Trại chủ của anh em tại hạ cũng được vẻ vang lây. Nào xin mời huynh cạn với đệ một chén nữa!
Nói xong, đại hán liền cầm chén lên uống cạn luôn, rồi mỉm cười nói tiếp :
- Có phải chuyến đi này của Đỗ huynh chỉ có tới Động Đình này là ngừng chân đấy không?
Đỗ Ngọc mới gật đầu, chưa kịp trả lời thì Quỳnh Anh đã cười và nói với Gia Cát Đởm rằng :
- Nghe giọng nói của minh huynh, thì hình như có ý muốn mời Đỗ huynh về Nhị thập bát trại để được tận tình của một địa chủ là tiếp khách vài ngày phải không?
Nhưng chỉ e Đỗ huynh là nhân vật tao nhã như thế, khi nào lại có hứng thú hạ cố Động Đình nhị thập bát trại, nơi đã oai trấn võ lâm của huynh?
Đỗ Ngọc định biện bạch thì Gia Cát Đởm đã cướp lời nói :
- Phải! Chính mỗ có ý định mời Đỗ huynh tới tệ trại một vài ngày thực, nhưng không biết Đỗ huynh có nễ mặt cho không?
Nói tới đó, y tỏ vẻ rất thành khẩn, nhìn thẳng vào mặt Đỗ Ngọc để chờ trả lời. Còn Quỳnh Anh thì tủm tỉm cười, làm như không có chuyện gì hết, rồi cứ cầm chén lên uống một mình nhưng thỉnh thoảng chàng lại đưa mắt liếc nhìn Đỗ Ngọc, mặt lộ vẻ mong đợi và hơi có một chút lo âu.
Đỗ Ngọc có vẻ khó xử, chần chừ giây lát mới trả lời :
- Tiểu đệ được Thiếu trại chủ mời như thế, đáng lẽ không nên từ chối mới phải nhưng vì tiểu đệ còn có việc khác, sáng sớm mai phải đi tỉnh Phúc Kiến ngay, cho nên tiểu đệ chỉ xin tâm lĩnh tấm thịnh tình của Thiếu trại chủ. Đồng thời nếu tiểu đệ có điều gì sơ xuất cũng mong Thiếu trại chủ lượng thứ cho.
Gia Cát Đởm thấy chàng từ chối, hơi trợn ngược đôi lông mày rậm lên, đang định nói tiếp thì Quỳnh Anh lại xen lời nói trước :
- Đấy! Đệ nói đúng không? Đỗ huynh không có hứng thú tới Động Đình nhị thập bát trại của huynh, có sai tí nào đâu?
Gia Cát Đởm xếch ngược đôi lông mày rậm lên hỏi lại Đỗ Ngọc :
- Đỗ huynh, chẳng hay lời nói của minh đệ mỗ nói có đúng không?
Đỗ Ngọc vội lắc đầu, gượng cười đáp :
- Đâu có! Động Đình nhị thập bát trại oai trấn võ lâm như vậy, người thường đừng có hòng tới gần một bước. Tiểu đệ tuy chỉ là một kẻ nho sinh nhưng xưa nay vẫn ngưỡng mộ các vị trong giới võ lâm, nay được hân hạnh mời đi du ngoạn một nơi danh thẫm võ lâm như thế, khi nào tiểu đệ lại chịu bỏ lỡ dịp may hiếm có này? Nhưng quả thật tiểu đệ có nỗi khổ riêng, sáng sớm mai phải lên đường ngay...
Quỳnh Anh vội ngắt lời hỏi :
- Không hiểu Đỗ huynh có việc khẩn cấp gì mà sáng sớm mai đã phải đi tỉnh Phúc Kiến ngay như thế?
Chần chừ một hồi, Đỗ Ngọc mới đáp :
- Đó là việc riêng của tiểu đệ...
Quỳnh Anh lại cười và ngắt lời, nói tiếp :
- Nếu Đỗ huynh tin được Động Đình nhị thập bát trại, hay là việc của huynh không lấy gì làm quan trọng cho lắm, thì mong Đỗ huynh cứ yên tâm nhận lời để Thiếu trại chủ phái một tên thủ hạ đắc lực cỡi ngựa đi tỉnh Phúc Kiến thì việc gì của huynh chắc Thiếu trại chủ cũng có thể giúp cho xong ngay.
Chàng vừa nói xong thì Gia Cát Đởm đã vỗ ngực, trợn ngược đôi lông mày lên và rất thành khẩn đỡ lời :
- Tệ tiểu đệ nói rất đúng! Bất cứ việc gì chỉ cần Đỗ huynh dặn bảo một tiếng, đừng nói là sai một ngựa mà dù có trăm người, trăm ngựa...
- Thiếu trại chủ...
Đỗ Ngọc mặt đỏ bừng, chân tay cuống quít như muốn ứa lệ, nhưng nhất thời không sao tìm ra được lời lẽ để từ chối. Vì vậy chàng lưỡng lự muốn nói rồi lại thôi.
Lúc ấy đột nhiên có tiếng âm nhạc rất vui tai và không khác gì tiếng nhạc vọng tới từ xa.
Nghe thấy tiếng đờn vui tai như vậy, các tửu khách đều im lặng, ai nấy cũng ngừng chén lắng tai nghe. Tiếp theo đó, lại có tiếng ca rất véo von và cũng như tiếng chim hoàng oanh hót, xen lẫn với tiếng nhạc vọng tới. Tất cả tửu khách ngồi trên lầu Nhạc Dương đều như ngây ngất, như say sưa.
Đỗ Ngọc cũng ngẩn người ra nghe rồi tán thưởng rằng :
- Thực là khúc này, giọng ca này, tiếng nhạc này như từ trên trời vọng xuống chứ ở dưới trần gian này đã có mấy ai được nghe. Thực không ngờ trên lầu Nhạc Dương này có người tiên xuất hiện như vậy. Đỗ Ngọc tôi thực không uổng chuyến đi này.
Quỳnh Anh mỉm cười đỡ lời :
- Đỗ huynh thực không hổ thẹn là người tri âm. Người đang đờn hát ấy không những tài sắc vẹn toàn mà cả văn học cũng xuất chúng nên đã có rất nhiều văn nhân, học sĩ cũng phải phục tài nàng ta. Chủ nhân của lầu Nhạc Dương này đã không tiếc tiền mướn nàng ta tới đây ca hát nên trong nửa năm nay đã không biết bao nhiêu người giàu có hay các vương tôn công tử say mê. Nhưng nàng đẹp như hoa đào hoa lý mà lại lạnh lùng như băng tuyết và chọn người yêu kỹ lưỡng lắm. Có một nhà tỷ phú ở trong thành Nhạc Dương này mấy lần định đến rước nàng ta về làm thiếp và hứa tha hồ nàng thách bao nhiêu cũng bằng lòng trả nhưng lần nào phú ông nọ cũng bị hắt hủi về tay không. Ngoài ra còn có mấy người quyền cao chức trọng đến cầu hôn cũng bị nàng cự tuyệt nốt.
Đỗ Ngọc nghe nói, vẻ mặt nghiêm nghị xen lời :
- Tài nữ như vậy khi nào lại chịu để bọn phàm phu tục tử phạm tới! Những người này quả thực không biết tự lượng sức chút nào.
Quỳnh Anh đưa mắt liếc nhìn Đỗ Ngọc rồi mỉm cười nói tiếp :
- Đỗ huynh nói rất đúng, “Túy ông chỉ ý bất tại tửu, người tri âm chân chính có mấy ai?”. Đệ chắc nếu cô này nếu mà gặp người tri âm như Đỗ huynh thì bề nào cũng động lòng chứ không sai.
Thấy chàng ta nói như vậy, Gia Cát Đởm liền lớn tiếng cười và nói :
- Phải, phải! Cổ nhân đã nói: “Bảo kiếm tặng anh hùng, danh mã phối hào kiệt”. Đỗ huynh với cô nàng ấy phải nói là tài tử giai nhân, quả thực không sai chút nào.
Đỗ Ngọc nghe thấy Gia Cát Đởm nói như vậy, mặt đỏ bừng, xua tay lia lịa đáp :
- Xin hai vị chớ nên nói đùa như thế! Tiểu đệ chỉ thán phục tài nghệ của cô ta mà nói như thế thôi, chứ không biết nàng ta sắc nghệ song tuyệt. Hơn nữa, tiểu đệ chỉ là một tên nho sĩ nghèo và hủ hóa, nếu đứng trước mặt thiếu nữ ấy cũng phải tự thấy mình nhơ bẩn chứ đâu dám...
Quỳnh Anh bỗng cười khì một tiếng đỡ lời :
- Đỗ huynh nói như by thật khiêm tốn quá! Người đẹp trai, nho nhã như Đỗ huynh thật là long phượng trong đám người, trên đời này có mấy ai bằng được? Từ xưa đến nay, danh sĩ nào mà chả phong lưu?
Vả lại người tri âm khó kiếm, cũng như Bá Nha vì người tri âm mà đập vỡ cây đàn vậy. Đỗ huynh...
Lời lẽ của Quỳnh Anh quá sắc bén, càng khiến Đỗ Ngọc mặt đỏ tía tai, chân tay luống cuống nên không đợi chờ đối phương nói dứt, chàng đã ngắt lời và đáp :
- Cát huynh chớ nên nói đùa như thế! Nếu nói là người đẹp trai như long phượng phải nói là Cát huynh mới đúng với câu khen ấy, chứ còn tiểu đệ thì quả thực...
Quỳnh Anh cũng không để cho chàng nói dứt lời đã vội lên tiếng :
- Bất cứ là huynh hay là đệ, chúng ta đừng nói đến câu hổ thẹn vội. Nay đệ chỉ nói người tri âm chân chính vì nghệ chứ không phải vì sắc. Vừa rồi huynh nghe thấy tiếng đờn mà đã khen ngợi như thế, nếu cô nàng Tuyết Diệm Cầm có mặt tại đây mà nghe thấy lời khen ngợi của huynh thể nào cũng an ủi bình sinh và hết lòng báo đáp lại huynh ngay chứ không sai. Đêm nay trời đẹp, ngồi trước cảnh nên thơ chúng ta không nên bỏ lỡ, nhất là rượu ngon đã có, duy chỉ thiếu mỹ nhân. Nếu huynh có ý thì tiểu đệ xin tạm làm bà Nguyệt se tơ để thành tựu mối nhân duyên ngàn dặm, mà tạo nên một giai thoại thiên cổ.
Nói tới đó, chàng ta quay lại bảo Gia Cát Đởm rằng :
- Cảm phiền minh huynh đi một phen, nếu không mời được cô nàng thì huynh đừng có trở lại nữa!
Gia Cát Đởm cười ha hả đáp :
- Ngu huynh xin tuân lệnh, nếu không mời được Tuyết Diệm Cầm lên đây thì Gia Cát Đởm này sẽ tự xách đầu quay trở lại tạ lỗi.
Đỗ Ngọc nghe nói rất lo âu, chưa kịp ngăn cản thì Gia Cát Đởm đã lớn bước đi luôn.
Đỗ Ngọc muốn ngăn cũng không kịp liền dậm chân oán trách rằng :
- Cát huynh hà tất phải làm như thế. Nếu việc này mà đồn ra bên ngoài, Đỗ Ngọc thể nào cũng bị thiên hạ chê cười là kẻ...
Nhưng vì đối phương là bạn mới quen, chàng không tiện oán thán một cách sổ sàng nên mới nói như vậy. Chàng chỉ dậm chân lia lịa và suýt soa hai bàn tay thôi.
Quỳnh Anh lộ vẻ vui tươi, nhìn thẳng mặt Đỗ Ngọc hỏi :
- Có thực Đỗ huynh không biết sắc đẹp của cô nàng khuynh quốc khuynh thành đấy không?
Đỗ Ngọc trang trọng hỏi lại :
- Sao Cát huynh lại nói như thế? Tuy Đỗ Ngọc chỉ là một hàn nho những vẫn còn biết tự trọng.
Quỳnh Anh biết Đỗ Ngọc không vui thực sự, vội cười và lắc đầu nói tiếp :
- Xin Đỗ huynh chớ có hiểu lầm! Ý của tiểu đệ chỉ nói...
Nhất thời chàng ta cũng không biết giải thích làm thế nào, ngập ngừng giây lát nhìn Đỗ Ngọc mặt lộ vẻ ngượng nghịu.
Đỗ Ngọc thấy thế thở dài nói :
- Nhất thời cuống quít, tiểu đệ ăn nói liều lĩnh xúc phạm đến huynh, mong huynh lượng thứ cho! Bây giờ tiểu đệ không thể ở lại được nữa, ngày khác có rảnh thể nào cũng đến thăm huynh và nhờ huynh xin lỗi hộ Thiếu trại chủ. Thôi! Tiểu đệ xin cáo lui đây.
Hiển nhiên là chàng không biết xử sự như thế nào cho phải nên định rút lui cho rãnh chuyện.
Khi nào Gia Cát Quỳnh Anh lại để cho chàng đi như thế. Chàng ta vội tiến lên một bước, giơ bàn tay trắng như tuyết kéo Đỗ Ngọc lại, gượng cười nói tiếp :
- Nếu Đỗ huynh bỏ đi lúc này thì lát nữa tiểu đệ biết nói năng làm sao với Thiếu trại chủ cùng Tuyết Diệm Cầm cô nương?
Đỗ Ngọc thấy một bàn tay mềm mại như không xương nắm vào cổ tay mình. Đồng thời chàng còn cảm thấy một cảm giác kỳ lạ truyền vào khắp người, nên nhất thời chàng đứng ngẩn người ra quên cả giằng tay ra và nói, nên chỉ trố mắt lên nhìn gương mặt xinh đẹp của Gia Cát Quỳnh Anh không chớp.
Quỳnh Anh thấy thế rùng mình đánh thót một cái, mặt càng đỏ thêm, vội rụt tay lại lắc đầu thở dài nói tiếp :
- Người quân tử như Đỗ huynh thực là hiếm có. Trong đời này Quỳnh Anh mới lần đầu gặp người như huynh, nên bây giờ rất ăn năn là vì đã trót đùa giởn bậc quân tử.
Nhưng lầm lỗi đó đã trót gây nên rồi, mong Đỗ huynh lượng thứ cho mà hãy ở lại giây lát để đệ đỡ ngượng với người ta.
Đỗ Ngọc định thần giây lát, nghe thấy Quỳnh Anh nói như vậy càng cảm thấy khó xử, đi không được mà ở lại càng nguy tai. Vì vậy chàng trầm ngâm một hồi, đang định cương quyết từ chối thì đã nghe co tiếng thở than của những tửu khách ngồi chung quanh đó. Chỉ trong nháy mắt tất cả các bàn ấy đều im lặng như tờ.
Thấy thế Đỗ Ngọc có vẻ hoảng sợ, nhưng đã nghe thấy Quỳnh Anh cười khì nói tiếp :
- Đỗ huynh, Thiếu trại chủ đã mời được Tuyết Diệm Cầm sang bên này rồi, bây giờ huynh có định đi cũng không đi được nữa. Chi bằng đường hoàng ở lại đây ứng phó một phen có hơn không?
Nhất thời Đỗ Ngọc khóc dở mếu dở, liền lắc đầu mấy cái rồi cương quyết quay người ngồi về chỗ. Trong khi chàng quay người thì vừa gặp ngay Tuyết Diệm Cầm đi theo Gia Cát Đởm tiến tới. Tầm mắt của hai người cùng va đụng nhau, chàng cảm thấy như bị điện giật, má đỏ bừng và nóng hổi. Chàng vội cúi đầu xuống.
Chàng mới trông thấy đôi mắt của nàng nọ thôi, nhưng chỉ đôi mắt đó cũng đủ làm cho chàng rùng mình và vội cảnh cáo thầm luôn.
Gia Cát Đởm cười ha hả, mời Tuyết Diệm Cầm ngồi vào bàn.
Quỳnh Anh chăm chú nhìn Đỗ Ngọc và mỉm cười nói :
- Để tôi giới thiệu cho Tuyết cô nương trước...
Nói tới đó, chàng chỉ tay vào Đỗ Ngọc và nói tiếp :
- Vị này là Đỗ tướng công, là tài tử ở Trung Châu, danh sĩ ở Biện Lương. Vừa rồi nghe khúc Nguyên Dạ của cô nương đã khen ngợi cầm và ca của cô nương là tiên âm, vì vậy Đỗ tướng công rất lấy làm say mê. Cổ nhân có câu: “Tri âm khó kiếm”, Tuyết cô nương nên đặc biệt kết giao với Đỗ tướng công đi.
Tuyết Diệm Cầm đưa mắt nhìn Đỗ Ngọc tủm tỉm khẽ cúi đầu vái chào và nhếch mép anh đào nói :
- Đỗ tướng công cứ quá khen đấy thôi chứ sự thực tiếng đờn, tiếng ca của thiếp hãy còn non nớt lắm, không xứng để lọt vào tai của Đỗ tướng công.
Thấy nàng nọ nói chuyện với mình, Đỗ Ngọc không tiện cúi đầu ngồi như trước, đành phải đánh liều đứng dậy nhưng hai má đã đỏ bừng. Chàng vừa đáp lễ vừa đỡ lời :
- Cô nương là người ở trên trời giáng xuống chắc, tài nghệ thực song tuyệt. Đỗ Ngọc chỉ là một tên nho tục, được nghe tiên âm như vậy thật là hân hạnh vô cùng.
Tuyết Diệm Cầm tủm tỉm cười nói tiếp :
- Thiếp xứng sao được với người trời và ca nhạc của thiếp cũng không xứng là tiên âm như tướng công vừa khen ngợi. Nếu tướng công không coi rẽ thiếp là người trong phong trần thì thiếp đã cảm thấy rất vinh hạnh rồi.
Đỗ Ngọc trợn đôi lông mày kiếm đang định trả lời thì Gia Cát Đởm đã cười ha hả xen lời :
- Thôi, thôi! Hai người cứ nói khách sáo với nhau như thế này mãi nói đến bao lâu mới hết được. Thôi! Mời hai người nên ngồi vào chỗ, đừng để phụ mất đêm cảnh đẹp này.
Tuyết Diệm Cầm tủm tỉm cười và từ từ ngồi xuống. Gia Cát Đởm cười giơ tay một cái rồi cũng cùng Đỗ Ngọc ngồi xuống một lúc. Duy có Gia Cát Quỳnh Anh hai mắt vẫn nhìn thẳng vào mặt Tuyết Diệm Cầm mà nói tiếp :
- Tuyết cô nương! Tiểu sinh đã giới thiệu Đỗ tướng công với cô nương rồi, nhưng tiểu sinh chưa hề tự giới thiệu. Tiểu sinh là...
Diệm Cầm đưa mắt liếc nhìn Quỳnh Anh một cái, rồi mỉm cười đỡ lời hỏi :
- Tướng công hà tất phải giới thiệu như vậy làm chi nữa. Tướng công biết thiếp, thiếp biết là được rồi.
Thần sắc của Quỳnh Anh hơi chấn động, chàng gượng cười đáp :
- Tuyết cô nương cũng không hổ thẹn là một vị cao nhân, chỉ đôi mắt sáng suốt này người thường đã ít ai so sánh bằng!
Tuyết Diệm Cầm vừa cười vừa cải chính :
- Thiếp đâu phải là cao nhân và cũng không có đôi mắt sáng suốt gì cả, nhưng còn tướng công vị anh hùng...
Gia Cát Đởm đột nhiên ngắt lời nói :
- Thôi, thôi! Cuộc kia vừa dứt thì cuộc này lại nổi lên. Để tôi làm người đứng giữa nói một câu rất công bình nhé, một người có đôi mắt sáng, một người thì là anh hùng.
Tuyết cô nương có đôi mắt sáng hơn người mới nhận thức ra được Cát hiền đệ của tôi là anh hùng như vậy. Thôi, câu chuyện này như thế là coi như kết liễu rồi, chúng ta không nên vì những câu nệ mà làm giảm bớt hứng thú của chúng ta đi.
Quỳnh Anh tủm tỉm cười, ngồi xuống luôn. Gia Cát Đởm đích thân rót rượu cho Tuyết Diệm Cầm và nói tiếp :
- Đêm nay là một đêm hiếm có, đã gặp tài tử lại ngộ giai nhân, mỗ với Cát hiền đệ đều nhờ được vẻ vang của Đỗ huynh mới được dự vào cuộc gặp gỡ hiếm có này. Đời người rất ngắn ngủi, chúng ta gặp được cuộc vui thì phải vui thú cho thực đã. Nào! Xin mời các vị nâng chén uống cạn.
Nói tới đó, y liền cầm chén rượu lên uống cạn luôn.
Tuyết Diệm Cầm rất bình tĩnh, mặt có nụ cười khiến ai trông thấy cũng phải say mê.
Còn Đỗ Ngọc thì lộ vẻ ngượng nghịu và cau đôi lông mày lại.
Quỳnh Anh đưa mắt liếc nhìn hai người một lượt rồi tủm tỉm cười hỏi :
- Đêm nay gặp được tài nữ như vậy sao Đỗ huynh lại không uống? Lần đầu tiên Tuyết cô nương được gặp người tri âm hữu hữu này, sao cô nương cũng không nâng chén? Nào để Gia Cát Quỳnh Anh tôi rót rượu cho hai vị nhé?
Nói xong, chàng đang định đứng dậy thì Tuyết Diệm Cầm đã tủm tỉm cười đỡ lời :
- Cát tướng công đã biết thiếp thì tất nhiên phải biết rõ thiếp không uống được rượu.
Nhưng Cát tướng công đã ra lệnh, nếu Tuyết Diệm Cầm không tuân theo thì sẽ mang tội bất kính nên đành phải mượn hoa hiến Phật để tỏ lòng cảm ơn ba vị. Nhưng thiếp chỉ uống một chén này thôi, nếu còn bắt thiếp uống thêm một hai chén nữa thì xin thứ lỗi, thiếp không thể nào tuân theo được.
Nàng vừa nói vừa cười, nhưng trong lời nói của nàng bao hàm một oai lực ngầm, khiến ai cũng không dám bắt bẻ.
Quỳnh Anh mỉm cười gật đầu đáp :
- Được, chúng ta chỉ uống cạn chén này thôi, còn những chén sau tôi không bắt cô nương uống nữa.
Tuyết Diệm Cầm vén tay áo, lộ ra chiếc tay trắng như ngọc, cầm chén rượu lên nhìn Đỗ Ngọc tủm tỉm cười và nói tiếp :
- Thiếp xin mượn hoa hiến Phật, chỉ một chén rượu này, nên nhân đây cùng xin mời cả Đỗ tướng công cùng một thể.
Nói tới đó nàng uống cạn luôn chén rượu ấy.
Quỳnh Anh thấy thế tủm tỉm cười, còn Gia Cát Đởm thì trợn ngược đôi mày rậm, giơ ngón tay cái lên và khen ngợi rằng :
- Giỏi thực! Gia Cát Đởm tôi cũng phải tự nhận không sao bằng được...
Y vừa nói tới đó liền đưa mắt nhìn Đỗ Ngọc vừa cười vừa nói tiếp :
- Đỗ huynh, theo chỗ tiểu đệ biết thì xưa nay Tuyết cô nương không hề uống một giọt rượu nào cả. Nếu chén rượu này mà huynh không chịu uống cạn thì thực là không nên không phải với Tuyết cô nương.
Đỗ Ngọc hơi chần chừ một chút rồi cương quyết đáp :
- Tuy Đỗ Ngọc không phải là người không uống được một giọt rượu nào nhưng quả thực tửu lượng rất kém. Nay Tuyết cô nương đã uống cạn chén rượu ấy tất nhiên Đỗ Ngọc tôi cũng phải uống cạn. Nhưng chén rượu này chỉ có thể coi như là Đỗ Ngọc mờ Tuyết cô nương chứ không phải là Tuyết cô nương mời.
Tuyết Diệm Cầm liếc nhìn chàng với vẻ mặt rất cảm động. Gia Cát Đởm thì vỗ tay kêu đến bốp một tiếng, chưa kịp nói câu nào thì Gia Cát Quỳnh Anh đã hớn hở lên tiếng hỏi Đỗ Ngọc rằng :
- Vừa rồi tiểu đệ đã nói khô hết nước miếng mà cũng không mời được Đỗ huynh uống nửa chén, nay Tuyết cô nương chỉ nói có một câu mà Đỗ huynh đã hăng hái uống cạn ngay. Sao Đỗ huynh lại kẻ khinh người trọng như thế?
Đỗ Ngọc thấy chàng ta nói như vậy hổ thẹn đến mặt đỏ bừng, chân tay cuống quít, không biết trả lời sao cho phải.
Tuyết Diệm Cầm thấy thế liếc nhìn Quỳnh Anh một cái tủm tỉm cười và đỡ lời :
- Cát tướng công nói như vậy là lầm rồi. Cổ nhân đã có câu “Thảo nam bất dữ nữ đấu”. Sao Cát tướng công lại vì chén rượu nho nhỏ này mà làm khó dễ thiếp, một người đàn bà bần tiện, sống ở trong cõi phong trần như thế.
Lời nói ấy của nàng có ý nghĩa bóng khiến Quỳnh Anh trố mắt và đờ người ra, không sao nói lại được. Bất đắc dĩ chàng ta lườm Tuyết Diệm Cầm một cái, gượng cười nói tiếp :
- Tuyết cô nương thực không hổ thẹn là một tài nữ, chỉ riêng khẩu tài lợi hại này cũng đủ khiến Quỳnh Anh tôi không sao theo kịp rồi.
Lúc ấy bỗng có tiếng chân người bước lên cầu thang rất nhộn nhịp. Bọn Đỗ Ngọc bốn người với tất cả các tửu khách đều quay mặt nhìn ra ngoài đầu cầu thang. Tiếp theo đó đã thấy có hai người mặc võ trang màu đen, trông rất thô lỗ, oai mãnh bước lên.
Trông thấy hai đại hán ấy, Gia Cát Đởm với Quỳnh Anh đều ngẩn người ra, sau lại thấy sắc mặt của họ hơi khác nên hai người cùng biến sắc mặt, vội đứng dậy.
Hai đại hán nọ vừa bước lên tới trên lầu đã trông thấy Gia Cát Đởm các người.
Chúng có vẻ hớn hở, vội rảo cẳng tiến tới gần và cung kính vái một vái.
Gia Cát Đởm trầm giọng hỏi :
- Việc gì mà các ngươi vội vàng hấp tấp như thế?
Hai đại hán nhìn Đỗ Ngọc với Tuyết Diệm Cầm một cái, muốn nói lại thôi. Gia Cát Đởm thấy thế biết ngay, liền bảo chúng rằng :
- Hai vị này đều là bạn tri kỷ của ta, có chuyện gì hai người cứ nói đi!
Một đại hán còn chần chờ nhưng tên thứ hai đã vội móc túi lấy ra một lá cờ ba góc màu đỏ nho nhỏ ra. Hai tay cầm lá cờ, hắn cung kính nói :
- Anh em tiểu nhân thừa lệnh lão Trại chủ đem Hồng Kỳ Phi Lệnh này tới để mời Thiếu trại chủ.
Gia Cát Đởm và Quỳnh Anh trông thấy lá cờ ba góc sắc mặt đã thay đổi hẳn, vội phất tay một cái và khẽ quát bảo rằng :
- Hai người hãy lui xuống đợi chờ ở dưới lầu.
Hai đại hán ấy tuân lệnh vội xuống dưới lầu ngay.
Gia Cát Đởm quay người lại xin lỗi Đỗ Ngọc với Tuyết Diệm Cầm rằng :
- Gia phụ cho gọi, ngu huynh đệ không thể nào ở lại tiếp hai vị, rất lấy làm...
Đỗ Ngọc vội đứng dậy đỡ lời :
- Lão Trại chủ đã sai người đến truyền dụ như vậy, chắc thể nào cũng có chuyện quan trọng lắm. Nhị vị nhân huynh mau về trại đi, đừng có bận lòng vì tiểu đệ.
Gia Cát Đởm chắp tay vái chào và nói tiếp :
- Nếu vậy ngu huynh đệ xin cáo lui, có điều gì thất lễ mong hai vị lượng thứ cho.
Nói xong y quay người đi ngay.
Gia Cát Đởm vừa đi khỏi, Quỳnh Anh đưa mắt nhìn Đỗ Ngọc và nói :
- Đêm nay chia tay không biết đến ngày nào chúng ta mới được tái ngộ, nếu sau này Đỗ huynh có rảnh thể nào cũng mời giáng lâm tệ trại để đệ được tiếp rước lại!
Mặt lộ vẻ rất cảm động, Đỗ Ngọc đáp :
- Xin mời Cát huynh mau trở về trại đi, hễ công việc của tiểu đệ làm xong thể nào cũng tới quý trại để thăm huynh ngay.
Gượng cười một tiếng Quỳnh Anh quay đầu lại nói với Tuyết Diệm Cầm rằng :
- Cảm phiền cô nương tiếp đãi người bạn tri kỷ này hộ tôi.
Nói xong, chàng phi thân qua cửa sổ nhảy xuống dưới lầu đi luôn.
Tuy Đỗ Ngọc mới quen biết Gia Cát Đởm và Gia Cát Quỳnh Anh không đầy nửa ngày, nhưng ba người rất tâm đầu ý hợp nên lúc này Đỗ Ngọc bỗng thấy hai người cáo lui liền cảm thấy trong người bức rức liền. Lại thêm chàng nghe thấy Động Đình nhị thập bát trại bỗng có biến xảy ra, khiến chàng càng lo âu thêm nên chàng cứ cau mày lại và không còn tâm trí gì chuyện trò cùng uống rượu với Tuyết Diệm Cầm nữa.
Hình như Tuyết Diệm Cầm đã biết rõ tâm sự của Đỗ Ngọc, liền mỉm cười nói :
- Tướng công không nên lo âu như thế, thiếp dám cam đoan Động Đình nhị thập bát trại vừa có biến cố ấy chỉ có kinh hãi chứ không nguy hiểm đâu.
Lúc này Đỗ Ngọc mới phát giác ra mình vì lo âu mà quên cả chuyện trò với vị phong trần kỳ nữ này. Chàng nghe thấy Tuyết Diệm Cầm nói như thế rất ngạc nhiên, vội hỏi lại :
- Sao cô nương lại biết Động Đình nhị thập bát trại chỉ có kinh hãi mà không nguy hiểm?
Tuyết Diệm Cầm vừa cười vừa đáp :
- Trong Động Đình nhị thập bát trại cao thủ đông như kiến cỏ nên oai trấn võ lâm hơn mười năm nay. Ngay cả người của chín đại môn phái cũng không ai dám vuốt râu hùm. Thần Mục Kim Cương Gia Cát Đởm tuy là Thiếu trại chủ nhưng công lực của chàng ta chỉ là hảo thủ hạng hai hạng ba của Nhị thập bát trại ấy thôi. Nên nếu có cường địch đến xâm phạm thì lão Trại chủ chỉ có ra lệnh cho các Đường chủ cũng đủ đối phó với cường địch rồi, chứ chả cần phải sai người đi xa triệu hồi Gia Cát Đởm với Gia Cát Quỳnh Anh về để cứu viện làm chi. Chẳng hay tướng công cho lời nói của thiếp có đúng không?
Thấy nàng ta phân tách rất hợp tình hợp lý, Đỗ Ngọc càng kính phục thêm. Tuyết Diệm Cầm vừa nói xong, chàng vội gật đầu lia lịa rồi trịnh trọng đáp :
- Đúng lắm, đúng lắm! Ý kiến của cô nương cao minh thực!
Diệm Cầm tủm tỉm cười và nói tiếp :
- Đây là thiển kiến của thiếp, chứ đâu dám nhận hai chữ cao minh ấy.
Đỗ Ngọc lắc đầu và đang định nói thêm gì nữa, nhưng chàng sực nhớ tới một việc gì liền nghĩ bụng :
- Sao nàng lại biết rõ tình hình của Động Đình nhị thập bát trại như thế?
Chàng định lên tiếng hỏi nhưng lại ngượng, không dám mở mồm. Sau chàng nghĩ tiếp :
- Có lẽ nàng kết giao với Gia Cát Đởm lâu ngày và nghe Gia Cát Đởm nói nên nàng mới biết rõ chuyện như thế cũng nên?
Chàng đang suy nghĩ thì Tuyết Diệm Cầm bỗng lên tiếng hỏi :
- Có phải tướng công cảm thấy thân phận như thiếp hình như không nên biết rõ tình hình của trại Động Đình khá nhiều như vậy phải không?
Thấy nàng ta hỏi như vậy, Đỗ Ngọc giật mình đến phắt một cái, mặt hổ thẹn, hai má đỏ bừng, cuống quít cả chân tay, không biết trả lời như thế nào cho phải. Tuyết Diệm Cầm thấy thế vừa cười vừa hỏi tiếp :
- Tướng công hà tất phải ngượng nghịu như vậy. Bất cứ người cũng đều có ý nghĩ ấy.
Nếu thiếp là tướng công thì thiếp cũng hết sức nghi ngờ. Sự thật lý do bên trong rất hiển nhiên vì thiếp quen biết Gia Cát Đởm đã lâu năm. Ngày thường, trong lúc nói chuyện với nhau, thiếp đã được nghe Gia Cát Đởm nói đến chuyện của Động Đình nhị thập bát trại luôn luôn nên thiếp mới biết rõ tình hình của trại đó như thế. Tuy không biết hết nhưng cũng có thể biết được tám chín mười phần trăm. Tướng công thử nghĩ xem thiếp nói như vậy có đúng không?
Trống ngực hãy còn đập rất mạnh, Đỗ Ngọc nghe nàng ta nói xong liền nghĩ bụng :
- Thiếu nữ này quả thật không phải là người thường. Không những sắc nghệ song tuyệt, tài hoa xuất chúng mà cả tâm trí cũng hơn người nốt. Xem như vậy, sau này ta phải cẩn thận lắm mới được...
Nghĩ tới đó, chàng liền mỉm cười đáp :
- Cô nương vừa có đôi mắt sáng suốt, đầu óc lại thông minh hơn người, Đỗ Ngọc tôi kính phục vô cùng...
Không đợi chờ chàng nói dứt, Diệm Cầm đã đỡ lời :
- Sao tướng công lại không bảo Tuyết Diệm Cầm mưu trí hơn người như lưỡi dao sắc bén, phải nên cẩn thận đề phòng mới được?
Đỗ Ngọc giật mình đến phắt một cái, ngẩn người ra giây lát lại nghĩ tiếp :
- Một vị kỳ nữ như thế này sao lại gửi thân ở trong chốn phong trần như thế? Ta với nàng không quen biết nhau bao giờ, và cũng không có thù hằn gì với nhau thì việc gì mà phải sợ hãi và phải đề phòng nàng?
Nghĩ tới đó, chàng mới thấy nhẹ nhỏm, vừa cười vừa đỡ lời :
- Không dám giấu diếm gì cô nương, vừa rồi tại hạ cảm thấy cô nương có chút đáng sợ...
- Còn bây giờ thì sao?
- Bây giờ trái lại, tại hạ cảm thấy quen biết được một tri kỷ hồng nhan như cô nương thì thật là vinh hạnh vô cùng.
Đôi mắt bỗng sáng ngời, nhưng chỉ thoáng cái thôi lại như thường ngay. Diệm Cầm mỉm cười hỏi tiếp :
- Chúng ta mới quen biết nhau chưa đầy nửa ngày, tướng công không nhận thấy lời lẽ đó hơi trắng trợn một chút hay sao?
Ngẩn người ra giây lát, Đỗ Ngọc đáp :
- Vâng, tôi cũng cảm thấy lời nói của tôi hơi đường đột một chút thật, nhưng không hiểu tại sao tôi bỗng dưng lại thốt ra những lời lẽ ấy? Có lẽ vì người ta kết giao với nhau phải trọng chữ chân thành. Cô nương là người sáng suốt tất phải biết rõ tôi là người thẳng thắng như thế nào và cũng không bao giờ biết giấu diếm sự thật.
Diệm Cầm lẳng lặng ngắm nhìn Đỗ Ngọc một hồi rồi mới hỏi tiếp :
- Có thật tướng công đã coi thiếp là một hồng nhan tri kỷ như tướng công vừa nói không?
Đỗ Ngọc nghiêm nét mặt lại, đáp :
- Sao cô nương lại hỏi như thế? tuy Đỗ Ngọc là một nho sinh nghèo nàn, vô tài đức thật, nhưng bình sinh không hề biết nói dối ai bao giờ.
Diệm Cầm mỉm cười hỏi tiếp :
- Tướng công là người có học, mà người có học bao giờ cũng coi trọng danh tiết hơn cả tính mạng. Nay tướng công coi một thiếu nữ phong trần là hồng phấn tri kỷ như vậy, chã lẽ tướng công không sợ người ta dị nghị hay sao?
Đỗ Ngọc bỗng đứng phắt dậy, nghiêm nét mặt lại đáp :
- Cô nương là tài nữ tất phải biết câu: người không gần thế lợi phồn hoa là trong sạch, gần mà không bị nhiễm phải lại càng trong sạch hơn. Cô nương là tài nữ trong chốn phong trần, tôi không kính phục sao cho được. Tuy Đỗ Ngọc tôi không dám tự khoe là người đầu đội trời, chân đạp đất, nhưng vẫn biết coi danh lợi như đất bùn, mặc cho thiên hạ chê bai, nói xấu, tôi chỉ biết ngửng đầu lên không hổ thẹn với trời, cúi mặt xuống không mắc cở với người. Cô nương đã coi người đọc sách là cao quý, gái phong trần là đê hèn như vậy thì quả thật tôi cảm thấy hơi trắng trợn thật. Thôi! Xin chào cô nương, nếu sau này có dịp may nào, chúng ta sẽ gặp lại nhau.
Nói xong chàng vội chắp tay vái chào rồi quay người đi luôn.
- Tướng công!
Chàng bỗng nghe thấy tiếng kêu gọi rất não nùng và bi đát của Diệm Cầm gọi theo, khiến chàng giật mình đến phắt một cái, vội ngừng chân, từ từ quay đầu lại. Mới thoáng trông, chàng đã thấy đôi mắt của Diệm Cầm đẫm lệ và đang ngẩn người ra nhìn mình như ngây ngất, trông bộ mặt và thái độ của nàng rất tội nghiệp và đáng thương.
Chàng không sao cầm lòng được, thở dài một tiếng và xin lỗi :
- Đỗ Ngọc nhất thời không suy nghĩ, đã lỡ lời xúc phạm đến cô nương...
Gượng cười một tiếng, Diệm Cầm lắc đầu đáp :
- Xin tướng công chớ có hiểu lầm. Vì thiếp thấy tướng công không coi rẽ giới phong trần mà thành tâm cúi mình để kết giao với thiếp khiến thiếp cảm động...
Nàng thở dài một tiếng rất não nùng rồi mới nói tiếp :
- Xem như vậy, câu “tri âm hãn hữu” của Gia Cát Đởm huynh muội hồi nãy không phải là lời nói bông.
Tiếng nói của nàng tuy rất khẽ, rất nhỏ, nhưng cũng đủ làm cho trái tim của Đỗ Ngọc bị chấn động mạnh. Chàng buộc miệng vội hỏi :
- Cô nương nói gì thế? Chả lẽ Cát nhân huynh là một vị cô nương chăng?
Diệm Cầm gật đầu đáp :
- Phải! Cô ta là Ngọc Diện La Sát Gia Cát Quỳnh Anh đấy. Võ công và tài nghệ của cô ta còn hơn người anh là Gia Cát Đởm nhiều. Gọi cô ta là tuyệt đời cân quốc thật không ngoa chút nào.
Như nằm mơ mới thức tỉnh, Đỗ Ngọc kêu “ồ” một tiếng, hồi tưởng chuyện vừa rồi, chàng thấy đầu óc bối rối, nhất thời không biết nói năng như thế nào mới phải?