Ở dưới tầng hầm, ngồi sau một cái bàn có bốn chân uốn cong kiểu chân nai, trước vô số máy điện thoại. Ned cầm máy lên nghe lập tức mỗi khi có dấu hiệu báo. Một cái đồng hồ chỉ giờ ở Luân Đôn, và một cái khác chỉ giờ ở Matxcơva treo trên tường, cả hai cái sáng như hai mặt trăng. Lúc đó là nửa đêm ở Matxcơva, 21 giờ ở Luân Đôn. Ned chỉ ngước mặt lên một chút khi người gác cửa để cho tôi bước vào.
Tôi đã không thể đến sớm hơn, vì sau một buổi sáng họp với các luật gia của Bộ Tài chính và một buổi chiều họp với các luật sư của Cheltenham, tôi đã phải mời một phái đoàn cao cấp của cơ quan tình báo Thuỵ Điển ăn tối.
Walter và Bob đang cúi xuống trên một bản đồ thành phố Matxcơva, Brock đang liên lạc với phòng mật mã nơi máy bộ đàm. Ned ra hiệu mời tôi ngồi và đẩy về phía tôi một chồng điện tín đã được giải mã.
9 giờ 54. Barley gọi điện thoại cho Katia ở Nhà xuất bản Tháng Mười. Họ hẹn gặp nhau tại khách sạn Odessa lúc 20 giờ 15. Còn tiếp.
20 giờ 18. Katia đến khách sạn Odessa. Barley và Katia nói chuyện với nhau ở phòng giải khát. Wicklow và một người của ta canh chừng. Còn tiếp.
21 giờ 5. Katia rời Odessa. Băng ghi âm cuộc gọi chuyện gửi tiếp bằng bưu kiện ngoại giao khẩn. Còn tiếp.
22 giờ. Katia hứa gọi điện thoại cho Barley tối nay. Còn tiếp.
23 giờ 25. Katia dùng một máy điện thoại của bệnh viện bị bỏ quên không ai dùng đến, để nói chuyện với ai đó trong ba phút và hai mươi giây.
Và đột ngột, không còn tiếp theo gì nữa.
Làm tình báo là phải chờ đợi.
- Đêm nay Clive có tiếp khách không? – Ned hỏi như thể sự có mặt của tôi làm cho ông ta sực nhớ ra một điều gì.
Tôi trả lời rằng Clive sẽ có mặt ở văn phòng của ông ta suốt đêm nay. Ông ta đã làm việc ở toà đại sứ Mỹ suốt ngày, đêm nay ông ta trực.
Tôi lái xe đưa Ned đến Tổng Cục.
Trong lúc chúng tôi và Clive thảo luận về chiến dịch Chim Xanh, thì Brock gọi điện thoại trên đường dây đỏ, báo cho Ned biết Katia vừa gọi điện thoại cho Barley ở khách sạn Odessa, để hẹn gặp Barley vào tối ngày hôm sau.
o0o
Barley đi một bên Katia. Hoàn hôn buồn bã bao trùm các ngôi nhà hư hỏng, dột nát của cái khu phố nghèo nàn. Cái sân thứ nhất tối lờ mờ, cái sân thứ hai tối om. Trên những đống rác, có những con mèo ngồi nhìn Barley và Katia với những cặp mắt sáng quắc. Hai thanh niên tóc dài chơi quần vợt với một hàng hộp các-tông thay lưới, và một thanh niên thứ ba tựa lưng vào tường làm trọng tài. Xa hơn một chút, có một cái cửa phủ đầy hình vẽ bậy bạ, và có hình vẽ trăng lưỡi liềm màu son. “Hãy đi theo những dấu hiệu đỏ” Wicklow đã dặn như thế. Hình như Katia mặt tái mét, và Barley tự hỏi phải chăng mình cũng như thế, và ông không hề lấy làm lạ về điều đó. Có những người không bao giờ sẽ là anh hùng, và có những anh hùng sẽ không bao giờ là con người, Barley tự nhủ và thành thật cám ơn Joseph Conrad (1). Và Barley sẽ không bao giờ là anh hùng hay chỉ là một con người. Ông cầm lấy tay nắm cánh cửa và lắc thật mạnh. Sau lưng ông, Katia đầu trùm khăn choàng và mình mặc áo mưa. Tay cầm cánh cửa xoay, nhưng cửa không nhúc nhích. Ông xô cửa bằng cả hai tay, càng lúc càng mạnh hơn. Các thanh niên tóc dài chơi quần vợt chạy tới nói gì đó với Barley bằng tiếng Nga. Ông ngừng tay lập tức, lưng ướt đẫm mồ hôi.
- Họ nói rằng ông phải lấy chân đạp thật mạnh mới mở cửa được- Katia phiên dịch và mỉm cười trước sự ngạc nhiên của Barley.
Nếu bà cười được trong lúc này, thì trong lúc tràn trề hạnh phúc bà sẽ vui tươi đến mức nào!
Nhưng đáng lẽ Barley chỉ nên nghĩ đến điều đó mà không nên nói ra, vì nàng không trả lời gì cả. Ông đạp thật mạnh và cánh cửa bật mở. Các thanh niên tóc dài trở lại với cuộc chơi của họ, vừa đi vừa cười. Barley bước vào trong phòng tối lờ mờ, có Katia đi theo sau. Ông bật một công tắc, nhưng đèn không cháy. Khi cánh cửa tự động ập lại, ông sờ soạng tìm cái tay cầm cánh cửa, nhưng không tìm ra. Thế là ông và Katia đứng trong bóng tối hoàn toàn, để phải ngửi mùi nước đái của mèo, mùi thiu của thức ăn thừa và nghe những tiếng nhạc hay tiếng cãi lộn phát ra từ các căn hộ chung cư. Barley quẹt một que diêm và thấy được ba tầng cấp, phía sau của một chiếc xe đạp và một thang máy dơ dáy trước khi bị phỏng tay vì cây diêm cháy đỏ. “ Nhưng làm sao tôi thấy được các dấu ấy trong bóng tối? Barley tự hỏi. Chúa gởi đến cho ông câu trả lời dưới hình thức một ánh sáng lờ mờ từ trên tầng chót rọi xuống.
- Ông vui lòng cho chúng tôi biết chúng ta đang ở đâu? – Katia hỏi.
- Đến căn hộ của một người bạn của tôi, anh ta là hoạ sĩ.
Ông ta kéo cửa thang máy, bước vào và nói: “ Bà theo tôi” . Nhưng Katia đã vào trong cabin rồi, nàng nông nóng muốn lên cho mau.
- Anh ta đi vắng vài ngày- Barley nói tiếp. Như thế chúng ta có thể nói chuyện một cách yên tĩnh.
Ông ta để ý đến hai hàng mi của nàng. Đột nhiên ông muốn an ủi nàng, nhưng cảm thấy nàng còn chưa buồn lắm.
- Anh ta là hoạ sĩ, ông lập lại như thể điều ấy chứng minh tình bạn giữa ông và người chủ nhà.
- Cô nhân viên à?
- Không .
Khi Barley sắp bấm nút thang máy, thì một thiếu nữ mang kính gọng đồi mồi nhảy vào trong cabin, chào ông và Katia một cách lễ phép. Gương mặt Katia sáng lên khi chào đáp lại. Đến tầng ba, thiếu nữ cũng chào từ giã Barley và Katia một cách lễ phép. Barley đẩy Katia ra ngoài và ra theo sau nàng. Trước mặt hai người là một hành lang sặc mùi hôi của tã lót trẻ con dơ bẩn. Ở đầu kia, trên một bức tường chắn ngang, một mũi tên đỏ chỉ về phía trái, và hai người đi tới một cầu thang hẹp bằng gỗ. Nằm chèo queo nơi đầu tầng cấp cầu thang như thằng lùn giữ kho báu ở địa ngục, Wicklow đang đọc một quyển sách to tướng. Wicklow không ngẩng đầu lên khi hai người bước lên cầu thang nhưng Barley để ý thấy Katia nhìn chằm chằm vào anh ta.
- Có việc gì thế? Bà đã thấy ma à?- Ông hỏi nàng.
Hai người ở trong cái gác hẹp mà dài, gần sát mái nhà. Qua các kẽ hở giữa các tấm ngói lợp nhà, họ có thể nhìn thấy trời. Rui nhà dính đầy phân dơi. Người ta có đặt một cái đầu nhỏ trên các rường nhà. Barley nắm tay Katia, lòng bàn tay rộng, chắc nịch và ấm áp. Nắm chặt bàn tay trần ấy trong tay mình, Barley có cảm giác như Katia đã hiến dâng trọn vẹn thân thể nàng cho mình.
Ông bước tới trên cầu nhỏ, một cách cẩn thận. Một mùi nhựa thông và hột gai phảng phất trong không khí, và những cơn gió mạnh đột ngột đập như búa bổ vào mái nhà. Barley lách mình vào giữa hai cái thùng sắt lớn và thấy một con chim hải âu bằng giấy to như chim thật, cánh xoè ra, quay tròn ở đầu một sợi dây buộc vào một cái đà. Barley kéo Katia đi theo sau mình. Xa hơn một chút, có treo một bức màn bằng vải sọc. “Nếu không có con chim hải âu, hãy bỏ cuộc”, Wicklow đã nói với Barley như thế. Barley vén màn lên và bước vào trong xưởng vẽ của một hoạ sĩ, luôn luôn nắm tay Katia để kéo nàng đi theo mình. Ở chính giữa có một cái giá vẽ và một cái bục bọc nệm dành cho các người làm mẫu. Một cái ghế dài cũ không có chân. “Đây là chỗ kín đáo chỉ để dùng một lần mà thôi”, Wicklow đã giải thích như thế, và Barley đã trả lời Wicklow: “Thì cũng giống như tôi vậy”. “Trên mái nhà, có một khung cửa được đánh dấu đỏ”. Ở đâu đâu nàng cũng sợ tai vách mạch rừng, Wicklow đã nói như thế”. – “Ở ngoài trời, nàng sẽ nói dễ dàng hơn”.
Barley mở cửa ấy ra, một bầy bồ câu và chim sẻ hốt hoảng bay đi. Barley mời Katia chui qua trước. Barley ngắm nghía vẻ duyên dáng tự nhiên của thân hình nàng khi nàng trườn qua cửa sổ. Ông trườn tiếp theo sau nàng một cách vụng về, va lưng vào cửa, và thốt ra một tiếng chửi thề như thói quen. Barley và Katia đang đứng trong một cái máng xối bằng kẽm, chỉ đủ rộng để họ đặt chân. Họ đứng sát bên nhau, mặt đối mặt. “Ôi, nếu hai ta sống được ở đây”- Barley mơ tưởng- chẳng có gì ngoài đôi mắt em, bầu trời và anh!”. Ông xoa bóp lưng, nhăn mặt vì đau đớn.
- Ông bị thương?
- Ồ, chỉ mới trẹo xương sống!- Ông nói đùa.
- Cái người chúng ta thấy nơi cầu thang là ai vậy?
- Anh ta làm việc với tôi. Anh ta là cố vấn văn học của tôi . Tôi đã yêu cầu anh ta canh chừng trong lúc chúng ta nói chuyện.
- Tôi đã thấy anh ta tối hôm qua ở bệnh viện.
- Bệnh viện nào?
- Tối hôm qua, sau khi từ giã ông, tôi đã phải đến bệnh viện.
- Bà bệnh ư? Vì sao đến bệnh viện?
- Không có gì quan trọng lắm. Nhưng còn anh ta thì đã đến đó vì hình như bị gãy một cánh tay.
- Điều đó không thể có được- Barley nói dối một cách trơ tráo- Anh ta ở với tôi suốt đêm sau khi bà ra về. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau về các tác phẩm của các tác giả người Nga.
Ông thấy sự ngờ vực từ từ biến mất trên nét nhìn của nàng.
- Tôi hơi mệt. Ông đừng tra hỏi tôi nhiều nữa.
- Đây, tôi đề nghị với bà như thế này, bà cho tôi biết như thế có được không. Chúng ta nói chuyện ở đây, sau đó tôi mời bà đi ăn tối với tôi. Nếu có ai nghê lén cuộc điện đàm của chúng tôi tối hôm qua, họ sẽ không lấy làm ngạc nhiên. Xưởng vẽ này là của một hoạ sĩ, một người bạn mê nhạc jazz như tôi. Tôi đã không nói tên của anh ta với bà, vì tôi không nhớ ra; có thể là tôi đã không bao giờ biết tên anh ta. Tôi nói là chúng ta đến đây để uống rượu với anh ấy, trong khi ngắm các bức tranh của anh ấy. Nhưng vì anh ấy đi vắng, nên chúng ta quyết định đi ăn tối với nhau, để nói chuyện về văn chương và hoà bình trên thế giới.
Mặc dù tôi có nhiều tai tiếng, tôi không đề nghị với bà những điều gì ám muội, bởi vì nhan sắc của bà đã làm cho tôi quá cảm kích. Bà nghĩ thế nào về sự dàn cảnh ấy.
- Thích hợp.
Barley ngồi chồm hổm, lấy nửa chai uýt-ky và mở nắp.
- Bà uống thử một chút thứ này chứ?
- Không.
- Tôi cũng không, theo nguyên tắc.
Barley hy vọng nàng ngồi xuống bên ông, nhưng nàng vẫn đứng, trong lúc ông rót một tí rượu vào nắp chai và để cái chai dưới chân.
- Cái ông tác giả là ai thế? Goethe, là ai thế?
- Không quan trọng.
- Ông ta làm nghề gì? Hãng buôn? Hay hòm thư tin tức? Ông ta làm việc ở đâu? Trong một bộ? Hay trong một phòng thí nghiệm?
- Tôi không biết.
- Ông ta ở đâu? Chắc bà sẽ không trả lời với ông ta rằng bà cũng không biết nốt, phải không?
- Ở khắp nơi, mỗi nơi một ít, điều đó tuỳ theo công việc của ông ta.
- Bà đã gặp ông ta bằng cách nào?
- Tôi không biết. Nói đúng hơn, tôi không biết những gì tôi không có quyền nói với ông.
- Ông ta đã cho phép bà nói với tôi những điều gì?
Bị bắt bí nàng do dự.
- Những điều tối cần thiết- Nàng đáp với vẻ lo âu- Ông ta đã nói với tôi rằng, tôi phải tin cậy ông. Ông ta đã tỏ ra sốt sắng với vấn đề của ông. Đó là bản tính của ông ta.
- Thế thì vì sao bà còn ngại ngùng?
Im lặng.
- Theo bà, vì sao tôi ở đây?
Im lặng.
- Có thể bà nghĩ rằng tôi thích chơi trò cảnh sát và kẻ trộm ở Matxcơva chăng?
- Tôi không biết.
- Vì sao bà gởi quyển sách cho tôi, nếu bà không tin cậy tôi?
- Vì ông ta đã yêu cầu tôi làm điều đó. Không phải tôi đã chọn ông, mà chính ông ta đã chọn ông- Nàng đáp với vẻ khó chịu.
- Bây giờ ông ta ở đâu? Bệnh viện à? Bà tiếp xúc với ông ta bằng cách nào? Hãy nói cho tôi biết ông ta là ai, bà là ai, và những gì ông ta làm trong đời?
- Tôi không biết gì cả.
- Ai trốn trong kho gỗ, đêm xảy ra án mạng, lúc ba giờ sáng?- Barley nói đùa.
Im lặng.
- Ít ra hãy nói cho tôi biết vì sao bà đã kéo tôi vào trong con thuyền ấy, vào trong cái việc nguy nan khổ ải ấy. Chính bà đã khởi đầu, chứ không phải tôi, Katia? Hãy nhìn tôi... Bà nhớ không? Barley Blair... Tôi kể chuyện tào lao, tôi bắt chước tiếng chim hót và tôi uống rượu. Tôi là bạn bà.
- Không có vụ án mạng nào cả- Nàng nói- Ông ta là bạn của tôi. Tên của ông và những công việc của ông ta, nói ra chẳng ích lợi gì.
- Ông ta có nói với bà về nội dung bản thảo của ông ta không?
- Có. Ông ta không bao giờ đưa tôi vào vòng nguy hiểm mà không có sự đồng ý của tôi.
- Bà tán thành việc ông ta chuyển qua phương Tây các tài liệu ấy?
- Ông ta không chuyển bất cứ tài liệu gì qua phương Tây hay nơi nào khác. Ông ta khâm phục người Anh, nhưng đó chưa phải là điều quan trọng hơn hết. Điều quan trọng hơn hết là: cử chỉ của ông ta sẽ đưa đến một sự cởi mở thật sự giữa tất cả các nhà bác học của tất cả các quốc gia. Và điều đó sẽ ngăn chặn được cuộc chạy đua vũ trang, cuộc sản xuất một thứ vũ khí vô nhân đạo, giết người hàng loạt và có sức huỷ diệt khủng khiếp.
- Ông ta là một nhà bác học, phải không?
- Phải.
- Tôi ghét các nhà bác học. Lãnh vực nào? Vật lý?
- Có thể là về... Tôi không biết rõ lắm.
- Bản thảo của ông ta đã đề cập đến tất cả các lãnh vực. Chỉ có một mình ông ta hay có những người khác công tác với ông ta? Làm sao ông ta biết được nhiều đến thế?
- Tôi không biết. Nhưng điều chắc chắn là ông ta hành động một mình, chứ không hề có một nhóm. Có thể ông ta kiểm soát lại và xét duyệt công việc của những người khác. Quả thật tôi không biết gì nhiều.
- Ông ta có một địa vị cao chứ? Ông ta là thủ trưởng? Ông ta làm việc ngay tại Matxcơva? Có phải ông ta ở trong một cơ quan đầu não? Nói tóm lại, ông ta là ai?
Nàng lắc đầu đáp:
- Ông ta không làm việc ở Matxcơva. Còn về các điều khác tôi đã không hề hỏi ông ta và ông ta cũng không nói gì với tôi cả.
- Ông ta thực hiện những cuộc trắc nghiệm?
- Tôi không biết. Ông ta đi khắp nước. Khi thì trở về từ các miền nắng nóng, khi thì từ các miền giá rét.
- Ông ta có nói để làm gì không?
- Không.
Điều tệ hại hơn hết là ông tin nàng. Nàng hoàn toàn có thể thuyết phục ông rằng phương bắc là phương nam, và rằng trẻ con sinh ra trong các bắp cải ông cũng tin. Nàng nhìn ông, chờ câu hỏi tiếp theo.
- Ông ta có nghĩ đến các hậu quả sẽ xảy ra sau khi các bản thảo ấy được xuất bản? Tôi muốn nói với các hậu quả cho ông ta. Ông ta có biết ông ta chơi với lửa không?
- Theo ông ta, có lúc phải hành động mà không nghĩ ngay đến các hậu quả.
Nàng có vẻ đợi ông nói tiếp, nhưng ông cố ý không hỏi dồn dập quá.
Nàng lại nói:
- Nếu người ta nhắm một mục đích nhất định, người ta có thể tiến một bước. Nếu người ta nhắm đồng thời tất cả các mục đích, người ta không bao giờ tiến bước được.
- Ông ta có nghĩ đến những hậu quả sẽ xảy ra cho bà, nếu chuyện này bị bại lộ?
- Ông ta đành phải cam chịu thôi.
- Còn bà?
- Lẽ tất nhiên tôi cũng cam chịu. Tôi cũng đã quyết định như ông ta. Nếu không thì sao tôi lại ủng hộ ông ta?
- Bà có nói, có lẽ ông ta là một nhà vật lý học- Barley nhắc lại.
- Ông ta cũng có những bằng kỹ sư nữa. Nhưng trong lĩnh vực ông ta làm việc, tôi nghĩ rằng người ta không quan tâm đến bằng cấp lắm.
- Ông ta học ở đâu?
- Ở trường trung học, người ta cho ông là một thần đồng. Mười bốn tuổi, ông ta đã đoạt được những giải thưởng quốc gia về môn toán. Sau đó ông ta đã đến Litmo, và đã tỏ ra là một nghiên cứu sinh vô cùng xuất sắc.
- Khi tôi còn đi học, tôi rất ghét cái loại học sinh ấy - Barley thú nhận nhưng lập tức lo âu vì thấy nàng có vẻ nhăn nhó khó chịu.
- Nhưng với Goethe, ông đã không thấy ghét ông ấy.
- Litmo là trường gì thế?
- Đó là Viện khoa học cơ khí và quang học Leningrad. Sau đại học, ông ta đã đến Novossibirsk, học ở Akademgorodok, thành phố các nhà bác học. Ông ta đã đậu bằng tiến sĩ khoa học. Ông ta đã đạt được tất cả những gì ông ta muốn.
Barley muốn hỏi Katia thêm về “tất cả những gì ông ta muốn”, nhưng sợ nàng giận, cho nên để nàng nói tiếp và nói một cách tự do.
- Bà hãy kể cho tôi nghe bà đã quen biết ông ấy lúc nào?
- Lúc tôi còn rất trẻ.
- Mấy tuổi?
Ông cảm thấy nàng trở về thể thủ, nhưng rồi nàng bớt căng thẳng, chắc là sau khi nhớ lại, nàng không còn gì phải lo sợ về ông...
- Lúc đó mới mười sáu tuổi, nhưng tôi đã là một trí thức – Nàng nói với một nụ cười nghiêm nghị.
- Và cái ông thiên tài ấy bao nhiêu tuổi?
- Ba mươi tuổi.
- Năm nào?
- 1968. Lúc đó tôi ở Leningrad, học năm chót trường trung học. Tôi học tiếng Pháp và tiếng Đức. Học sinh xuất sắc, yêu hoà bình, lãng mạn, cảm thấy minh đã trở thành đàn bà lúc mới mười sáu tuổi. Tôi đã đọc Erich Fromm, Ortega Y Gasset và Kafka(2). Bố tôi là giáo sư khoa học nhân văn trường Đại học Leningrad, và tôi học tại một trường trung học dành riêng cho con cái giới trí thức.
Hình như không có gì còn có thể ngăn cản Katia nói nữa cả. Barley muốn nắm tay nàng như lúc đi trong cầu thang. Ông muốn ôm lấy nàng, hôn nàng thay vì nghe nàng kể cuộc tình duyên của nàng với một người khác.
Katia kể tiếp:
- Lúc bấy giờ là tháng tám năm 1968, chúng tôi tin tưởng Đông và Tây nhích lại gần nhau. Khi các sinh viên Mỹ biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, chúng tôi khâm phục họ, chúng tôi coi họ là đồng chí hướng với chúng tôi. Và khi các sinh viên ở Paris nổi lên tranh đấu, chúng tôi ao ước được sát cánh với họ trên các chướng ngại vật.
Katia quay đầu về phía Barley và mỉm cười. Một vầng trăng lưỡi liềm cùng các ngôi sao xuất hiện bên trên phía trái của Katia. Một bầy chim hải âu đậu trên mái nhà trước mặt. Barley thầm nghĩ: “Anh sẽ không bao giờ bỏ em mà đi”.
- Trong chung cư của chúng tôi, có một người đàn ông biến đi đâu mất trong chín năm – Katia nói - Rồi một buổi sáng đẹp trời, ông ta xuất hiện trở lại, nói quả quyết rằng ông ta không bao giờ đi đâu cả. Bố tôi đã mời ông ta ăn tối.
- Lúc ấy mẹ của bà đâu?
- Mẹ tôi đã mất rồi.
- Bệnh gì?
- Ho lao. Mẹ tôi đã nhiễm bệnh ấy lúc mới sinh tôi. Ngày 20 tháng tám tại câu lạc bộ các nhà bác học, có tổ chức chiếu một phim của Godard. Mỗi giấy mời được đi hai người. Bố tôi không muốn dẫn tôi theo, vì ông sợ phim ấy có ảnh hưởng không tốt đối với tôi về phương diện đạo đức. Nhưng tôi đã năn nỉ mãi, viện lý do để tôi luyện thêm tiếng Pháp. Cuối cùng, bố tôi đành phải nhượng bộ. Ông có biết câu lạc bộ các nhà bác học ở Leningrad không?
- Lạy Chúa, không.
- Ông có xem phim À bout du souffle (Kiệt sức) không?
- Tôi là vai chính trong ấy đấy! – Barley nói đùa, làm cho Katia bật cười trong lúc ông nhấp nhấp cái nắp đựng uýt-ky của mình.
- Thế thì ông có nhớ tình hình lúc đó căng thẳng đến mức nào không?
- Có chứ.
- Đó là bộ phim bạo hơn hết mà tôi đã xem. Câu lạc bộ các nhà bác học nằm trên bờ sônng Neva, với vẻ vinh quang của thời quá khứ. Ở đó có những bậc cấp bằng đá cẩm thạch và những chiếc ghế xô-pha bọc nhung, không tiện ngồi khi phụ nữ mặc váy bó.
Ở đó cũng có một vườn hoa đẹp huy hoàng và một gian phòng giống như trong thánh đường.Hồi giáo. Bố tôi rất yêu quý tôi, ông luôn luôn lo lắng về tôi và vì thế tỏ ra rất nghiêm khắc. Sau khi xem phim xong, chúng tôi sang phòng ăn lộng lẫy, tường có ốp gỗ quý. Chúng tôi ngồi chung những cái bàn dài. Ở đó tôi gặp Yakov. Bố tôi giới thiệu ông ta với tôi: “Đây là một thiên tài mới trong giới các nhà vật lý”. Bố tôi có cái tính hay nói bông lơn với những người trẻ tuổi hơn ông. Yakov rất điển trai, nhưng không ai nói cho tôi biết ông ta là một khoa học gia song lại là một người có tâm hồn nghệ sĩ. Tôi đã hỏi ông ta làm nghề gì, và ông ta đã trả lời rằng ông ta ở Leningrad để tìm lại ở đó tính ngây thơ của mình. Lẽ tất nhiên tôi đã cười, và tôi đã nói với ông ta một câu sắc sảo của một con bé ranh mới mười sáu tuổi: “Một nhà khoa học mà muốn tìm lại tính ngây thơ! Tôi thấy đó là một điều kỳ cục!”. Ông ta đã giải thích với tôi rằng những thành tích vẻ vang ông ta đã đạt được ở Akademgorodok trong một số lĩnh vực, đã lôi kéo sự chú ý của các nhà quân sự. Về vật lý, hầu như không có ranh giới giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu có mục đích quân sự. Người ta đã trải thảm đỏ để mời ông ta cộng tác, nhưng ông ta đã từ chối tất cả các đặt quyền đặc lợi được đề nghị. Điều đó đã làm cho các nhà quân sự điên tiết, vì họ quen tuyển các phần tử ưu tú trong các nhà nghiên cứu mà không bao giờ bị ai từ chối. Và vì thế ông ta đã trở về Viện đại học cũ để tìm lại tính ngây thơ của mình.
Ông ta nói đùa, và tôi đã cười như một phụ nữ trưởng thành. Ông ta rất xuất sắc, nhưng cũng có những nhược điểm như bây giờ.
Ông ta uống rượu quá nhiều. Bố tôi cũng thế, nên ông dễ nổi giận. Bố tôi và Yakov bất đồng ý kiến về tình hình xảy ra tại Tiệp Khắc. Là một giáo sư lỗi lạc theo học phái nhân văn, bố tôi không thích bị một nhà bác học còn trẻ tuổi công kích, người mà ông cụ coi như một kẻ hãnh tiễn. Trong lúc bố tôi và Yakov cãi vã nhau kịch liệt, thì tôi mê tít Yakov rồi.
Barley lại nhấp một chút uýt-ky nữa.
- Bà không điều đó chướng tai gai mắt sao? Ông kêu lên với một giọng bất bình, trong lúc một nụ cười làm rạng rỡ gương mặt của Katia. Một cô bé mười sáu tuổi với một người đàn ông ba mươi tuổi đã từng trải?
Katia không trả lời Barley và kể tiếp:
- Sau bữa tiệc, tôi đã xin bố tôi ba rúp để đi ăn kem tại tiệm cà phê Sever với bạn gái của tôi. Có nhiều cô con gái của các giáo sư đại học đến dự cuộc tiếp tân ấy, trong đó có một số là bạn học của tôi. Tôi đã mời Yakov đi với chúng tôi. Giữa đường, tôi muốn biết ông ta ở đâu. Tôi hỏi, ông ta ở một mình hay ở trong căn hộ chung. Ông ta nói ông ta ở chung với một người bạn cũ. Người bạn ấy làm việc ban đêm tại một phòng thí nghiệm, nên rất hiếm khi hai người gặp nhau. Thế là tôi yêu cầu ông ta đưa tôi đến xem căn hộ ấy có đầy đuu tiện nghi hay không. Và ông ta đã là người tình đầu tiên của tôi. Ông ta tỏ ra vô cùng tế nhị, nhưng cũng cực kỳ say đắm.
- Hoan hô!... Barley lẩm bẩm trong miệng, nhỏ đến nỗi chắc chắn nàng không nghe thấy.
- Tôi đã ở lại với ông ta ba giờ trước khi đáp tàu điện ngầm chót trở về nhà. Suốt đêm ấy, tôi thao thức không ngủ được. Sáng hôm sau, thay vì đến trường, tôi đi tìm Yakov. Người bạn ở chung với Yakov nói với tôi rằng tôi sẽ tìm thấy ông ta tại một tiệm cà phê gần Nevski, ở đó các nhà thơ, bọn buôn bán ma tuý, lũ đầu cơ vặt... thường lui tới, chứ không bao giờ có con gái các giáo sư đại học bén mảng. Yakov đang uống cà phê khi tôi đến đó, nhưng ông ta say mèm vì đã uống quá nhiều rượu Vodka. Ba tháng sau, ông ta trở lại Novossibirk. Tôi lấy làm xấu hổ vì ông ta. Tôi đã nói với ông ta rằng ông ta làm cho tôi thất vọng sau khi đã là thần tượng của tôi. Tôi đã có đọc các tiểu thuyết của Stendhal (3) và tôi đã nói với Yakov với cái giọng của một bậc nữ anh hùng Pháp trong tiểu thuyết Stendhal. Tôi cũng đã báo cho ông ta biết rằng tôi sẽ không nói chuyện với ông ta nữa, cho đến lúc ông thay đổi cách sống. Nhưng rồi tôi đã nhượng bộ rất nhanh chóng, và chúng tôi đã nối lại quan hệ với nhau trong một thời gian, nhưng nó không còn đượm mùi lãng mạn như trước nữa. Chắc là tôi đã lấy làm xấu hổ về ông ta, và cũng là về cả tôi nữa.
- Thế rồi bà đã lấy Volodia làm chồng?
- Đúng.
- Nhưng Yakov vẫn còn là tình nhân của bà! – Barley nói thẳng thừng như điều đó là một chuyện bình thường.
Katia đỏ mặt.
- Đúng, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn thôi. Trong khoảng thời gian ấy, đôi khi tôi đến Yakov, nhưng rất thất thường. Ông ta nói chúng tôi là những anh hùng của một quyển tiểu thuyết viết chưa xong, mỗi người chờ đợi người kia giúp mình làm tròn thiên chức của mình. Ông ta nói đúng, nhưng tôi đã đánh giá thấp cường độ ảnh hưởng của ông ta đối với tôi và cường độ ảnh hưởng của tôi đối với ông ta. Tôi cho rằng nếu gặp nhau thường xuyên hơn, điều đó sẽ làm nhụt ảnh hưởng hỗ tương của chúng tôi. Tôi đã lầm, và khi hiểu ra, tôi đã chấm dứt quan hệ với Yakov. Tôi thật sự yêu ông ta, nhưng tôi đã không còn dan díu với ông ta nữa.
- Thế thì, khi nào Yakov và bà, hai người gặp lại nhau?
- Sau hội chợ triển lãm sách ở Matxcơva. Ông đã tác động đến ông ta như một chất xúc tác. Những lời ông đã nói, đi thẳng vào trái tim của Yakov. Những lời nói của ông đã cụ thể hoá những tư tưởng của Yakov vào một lúc cốt yếu của cả cuộc đời ông ta, vì ông đã liên kết lời nói và hành động, đó là một điều không dễ dàng đối với Yakov. Ngày hôm sau, ông ta đã bịa đặt ra một cái cớ nào đó để gọi điện thoại cho tôi tại văn phòng. Ông ta đã mượn căn hộ của một người bạn. Vào thời kỳ đó, quan hệ gia đình giữa tôi và Volodia đã đổ vỡ, nhưng chúng tôi còn sống chung trong lúc anh ấy chờ được cấp nhà. Tôi đã gặpYakov tại nhà của bạn ông ta, và ở đó ông ta nói với tôi rất lâu về mình. Ông đã làm cho Yakov thấy rõ những điều cần phải làm. Đúng như thế. Ông ta đã nói với tôi: “Người Anh ấy đã đem đến cho tôi một giải pháp. Kể từ nay chỉ có các hành động và sự hy sinh mới đáng kể. Lới nói phải đi đôi với hành động”.
Biết tôi có liên lạc với các nhà xuất bản phương Tây, Yakov đã yêu cầu tôi tìm tên ông trên danh sách các vị khách nước ngoài được mời đến dự cuộc triển lãm. Và Yakov đã lập tức viết một bản thảo mà tôi có bổn phận phải giao cho ông. Nhưng ông ta uống rượu quá nhiều, cho nên tôi rất lo ngại. Tôi nói: “Làm sao anh có thể viết trong khi say?”. Ông ta đã trả lời: “Anh phải uống mới sống lại được!”.
Barley lại uống một ngụm uýt-ky.
- Bà có nói chuyện về Yakov với Volodia không?
- Không.
- Volodia có khám phá ra việc bà có quan hệ với Yakov không?
- Không.
- Thế thì có ai biết.
- Yakov không nói gì với bạn bè của ông ta, tôi biết chắc như thế.
- Còn bạn bè của bà? Không tâm sự với nhau một chút nào sao?
- Không.
- Không có ai giúp Yakov trong việc viết bản thảo của ông ta chứ?
- Không.
- Ngay cả một trong những bạn nhậu nhẹt của ông ta cũng không sao?
- Cũng không.
- Làm sao bà biết chắc như thế?
- Bởi vì tôi biết Yakov chỉ làm bạn với tư tưởng của ông ta mà thôi.
- Bà có hạnh phúc với ông ta không?
- Tôi không hiểu câu hỏi của ông.
- Ông ta có làm cho bà vừa lòng không? Bà yêu ông ta vì tình yêu hay vì lý tưởng của ông ta? Ông ta có làm cho bà vui cười không?
- Tôi tin rằng Yakov là một con người tài ba, nhưng cũng có rất nhiều nhược điểm, không thể sống được nếu không có tôi. Chắc ông cũng biết, có đầu óc cầu toan, muốn tất cả mọi sự đều phải toàn thiện toàn mỹ, tức là còn ấu trĩ. Và cũng là không thiết thực. Tôi nghĩ rằng, nếu không có tôi, ông ta sẽ không đững vững được.
- Ông ta có vợ chứ?
Katia có vẻ giận.
- Ông ta có con cái gì không?
Những câu hỏi này trở nên kỳ cục.
- Bằng cách nào bà liên lạc được với Yakov?
- Điều đó không quan trọng. Khi có một trong những người bạn của ông ta nhận được một thông điệp nào đó, anh ta báo cho Yakov biết và Yakov tìm cách gọi điện thoại cho tôi.
- Người bạn ấy có biết người gửi thông điệp là ai không?
- Anh ta không cần biết chi tiết đó. Anh ta chỉ biết đó là một người đàn bà.
- Yakov có sợ không?
- Ông ta nói cần phải có nhiều can đảm, tôi nghĩ rằng ông ta cũng có sợ. Ông ta thường nêu câu của Nietzsche: “Đức tính cao cả hơn hết là không biết sợ”.
- Còn bà, bà có sợ không?
Nàng quay mặt nhìn sang phía khác và nói:
- Tôi phải tránh nghĩ đến các con của tôi, để có thể nghĩ đến tất cả những đứa con trên thế giới.
Và Barley để ý thấy hai giọt nước mắt đọng lại trên má nàng. Ông uống một ngụm uýt-ky và khẽ hát vài điệu Count Basie. Khi ông nhìn lại nàng thì nước mắt nàng đã khô.
- Yakov thỉnh thoảng có được thăng cấp không? Ông ta có được thưởng huy chương không? Người ta có tổ chức tiếp tân để chúc mừng ông ta khi ông được thăng cấp không?
- Ông ta không bao giờ nói đến việc thăng cấp với tôi. Tốt hơn hết là ông hãy hỏi thẳng ông ta vào ngày thứ sáu tại Leningrad. Ông ta phải dự một hội nghị quan trọng tại một trong những học viện khoa học quân sự.
- Ông ta đề nghị ba địa điểm và ba giờ giấc khác nhau – Nàng nói tiếp:
- Ông hãy đến tại một chỗ hẹn cho đến khi gặp ông ta. Ông ta gửi lời chào ông và cám ơn ông. Ông ta rất có cảm tình với ông.
Nàng đọc cho Barley ghi địa chỉ theo lối mật mã vào quyển sổ tay của ông ta.
o0o
Barley và Katia ăn bữa khuya như một cặp tình nhân kiệt sức trong một cái quán ở tầng hầm, ở đó có một con chó già lông vằn và một cô gái hát rong đang hát những bài hát điệu bleus, tay đệm đàn ghita.
Hai người nói chuyện với nhau một cách hơi gượng gạo, và đêm càng khuya thì cái hố ngăn cách giữa hai người càng sâu hơn, đến nỗi Barley có cảm giác như nó nuốt chửng sự vô nghĩa của bản thân mình. Ông nhìn Katia với vẻ cầu khẩn, ý thức được rằng mình không có gì để hiến dâng cho nàng, vì nàng đã có điều đó gấp trăm lần rồi. Thông thường thì đáng lẽ ông ta đã tỏ tình với nàng một cách say đắm. Phải dấn sâu vào sự quá mức, đó là điều cốt yếu để phá vỡ sự căng thẳng của một mối giao kết mới phôi thai. Nhưng sự hiện diện của Katia, ông không thấy có những cái tuyệt đối để đối chiếu với cái tuyệt đối của chính ông. Đột nhiên ông thấy cuộc đời của mình giống như một chuỗi những sự hồi phục chẳng có ý nghĩa gì sau những lần thất bại ê chề. Ông ghê tởm nghĩ rằng mình thuộc về một xã hội vật chất chủ nghĩa, rất ít quan tâm đến các vấn đề lớn lao của đất nước. Nhưng ông không hề thú thật điều đó với Katia, không thể nói với nàng bất cứ điều gì làm cho nàng công kích cái hình ảnh mà nàng đã có được về ông.
Trong lúc hai người nói chuyện với nhau về văn chương, sách vở, ông để ý nhận thấy nàng có vẻ xa vắng. Vào khoảng 11 giờ, Barley đi theo Katia đến trạm tàu điện ngầm. Ông choàng hai tay ôm vai Katia theo kiểu chào tạm biệt của người Nga: hôn nhẹ một cái nơi má trái, một cái nơi má phải, và thêm một cái nơi má trái, rồi nói: “Chúc ngủ ngon”.
Chú thích:
(1) – Josehp Conrad (1857-1924): Tiểu thuyết gia người Anh.
(2) – Erich Fromm: Nhà văn tâm học người Mỹ (1900-1980). Ortege Y Gasset: Nhà văn Bồ Đào Nha (1883-1955). Kafkf: Nhà văn Tiệp Khắc (1843-1924).
(3) – Stendhal (1783-1842): Nhà văn Pháp.