Ngày xưa, có một nhà trưởng giả có ba người con trai. Được mẹ nuông chiều từ ngày còn nhỏ, ba cậu càng lớn càng hư đốn. Cậy có sẵn của, ba cậu chỉ suốt ngày ăn chơi, không chịu học hành và làm lụng gì cả. Tháng ngày, ba cậu dông dài hết làng này sang làng khác, la cà hết nhà nọ đến nhà kia, đàn đúm với những kẻ vô lại trong vùng. Càng chơi bời lêu lổng nhiều, ba cậu càng xài phí tợn.
Trưởng giả thấy vậy hết sức lo lắng cho tương lại của các con. Suy nghĩ mãi, ông mới tìm được một cách để rèn con nên người. Một hôm, ông gọi ba người con lại bảo:
- Các con đã khôn lớn, vậy mà quanh năm vẫn chơi bời lêu lổng, không chịu học hành, làm ăn gì cả. Cha e sau này, khi cha mẹ qua đời rồi các con không giữ nổi cơ nghiệp của cha ông để lại. Nay cha muốn các con tìm cách để học làm lụng. Các con hãy đi tìm những nhà có của, có việc để xin làm công cho họ, và tự rèn mình, các con sẽ biết quý của khi các con đã rỏ nhiều giọt mồ hôi vào việc làm ra của. Các con sẽ biết yêu người làm lụng và ghét người lười biếng chơi rông. Cha hẹn cho các con trở về thăm cha mẹ vào ngày sinh nhật của cha cuối năm nay.
Tuy sợ phải làm việc, nhưng trước lời khuyên ân cần của bố, các cậu cũng không dám cưỡng lại. Các cậu nhìn nhau rồi vâng vâng dạ dạ nhận lời. Khi thấy các con đã thuận, trưởng giả còn dặn đi dặn lại:
- Ta chỉ cho các con mỗi người ba lạng bạc để làm tiền ăn đường. Khi trở về mỗi con phải kể lại rành rọt việc làm của mình, cha chỉ bằng lòng nếu khi trở lại mỗi con có thể nói rõ nơi mình làm việc. Nếu không tìm được nơi làm công, các con đừng về dự ngày sinh của ta nữa.
Nghe bố nói, các cậu đều hứa hẹn để bố yên lòng, rồi sắp sửa hành lý và cùng nhau cất bước ra đi. Khỏi nhà chừng mươi dặm, họ đến một ngã ba đường. Người anh cả nói: Bây giờ chúng ta chia tay ở đây và nên nhớ là "nhất định phải làm vừa lòng cha già". Họ chào nhau rồi mỗi người đi một ngả.
Cậu Cả ra kinh thành, tìm được việc làm tại một nhà quan trong triều. Cậu Hai về một thị trấn nhỏ tìm vào làm công cho một nhà buôn. Cậu Ba đi tới một làng xa xôi được một nhà phú ông thuê mượn.
Nhà phú ông này vốn là nhà giầu có nhất vùng. Phú ông có bao nhiêu của giấu của chìm không ai biết. Người ta chỉ biết lão có một trăm con trâu, một trăm con bò, một trăm đám ruộng, gà vịt ngan ngỗng không thể đếm được. Đồ dùng thức đựng của lão hàng ngày đều là những loại bằng đồng bằng sứ. Nhưng đặc biệt lão có hai chậu vàng nổi tiếng, nhà lão có tới chục đầy tớ và người làm công.
Mượn được đầy tớ, phú ông sai làm những công việc vặt trong nhà. Ban ngày, trong lúc các bạn trai đi ra đồng cày bừa hoặc lên đồi chăn trâu bò, cậu Ba phải quét nhà, nấu cơm, nấu cám lợn, chăn gà chăn lợn, lau chùi bàn ghế, rửa cọ chậu ang. Đến bữa, người ta cho ngồi ăn cùng các bạn ở trại, thức ăn chỉ là rau luộc nhạt muối, cơm là loại gạo hẩm gạo mốc. Đêm đến, cậu cũng phải vào ngủ cùng với họ trên gác chuồng trâu, chuồng bò. Mới đầu cậu Ba thấy khổ cực quá, cậu thấy nản chí nhưng những lời dặn của bố và của anh buộc cậu phải nấn ná ở lại, rồi dần dần cậu quen với cuộc sống mới và những công việc mới.
Thấm thoắt cậu Ba vào làm ở nhà phú ông đã được tám tháng. Trong tám tháng trời cậu đã chịu đựng nhiều vất vả thiếu thốn. Nhưng cậu đã bắt đầu thấy vui vui. Cậu cùng các bạn ở trại đã trở nên quen thân. Cậu đã chú ý dành dụm từng đồng từng lạng để sau này có tiền ăn đường khi trở về nhà mừng ngày sinh của cha sắp tới...
Một hôm, cậu đem hai cái chậu vàng của nhà chủ ra sông rửa. Không ngờ lóng ngóng nhỡ tay đánh tuột một chậu xuống đáy sông. Dòng sông sâu, nước sông chảy xiết, cái chậu trôi đi rồi chìm nghỉm. Cậu Ba hoảng hốt cởi áo nhảy ngay xuống sông lặn tìm, nhưng lặn hụp mấy lần vẫn không thấy. Cuối cùng cậu đành ôm cái chậu còn lại về nhà.
Phú ông thấy đứa ở làm mất cái chậu vàng của mình thì thét lên như điên. Hắn hầm hầm bắt người nhà trói đánh tra khảo coi như một vụ mất trộm. Khi thấy tên đầy tớ cúi đầu nhận tội, hắn quát mắng om sòm. Quát tháo, mắng chửi chán chê rồi, phú ông mới bảo:
- Mày hãy về bảo bố mẹ mày cố thu xếp bán chác của cải, ruộng vườn, nhà cửa để đền chậu vàng cho ta.
Nghe đến đây, cậu Ba thưa:
- Vâng! Nếu ông bằng lòng cho con đền thì con sẽ về xin với cha mẹ con đền cho.
Phú ông cứ tưởng nhà tên đầy tớ của mình làm gì đủ ăn, chưa nói đến chậu vàng, nhưng nay nghe nói thế thì cũng hy vọng rằng có thể đến xiết một ít đồ đạc, bắt nó bán nhà bán đất để đền chậu vàng, ít ra cũng được một phần chậu.
Cậu Ba lại tiếp:
- Nhân thể con muốn mời ông tới chơi nhà để chọn lấy cái chậu nào vừa ý.
Phú ông nghĩ bụng: "Không lẽ nhà thằng này cũng có chậu vàng". Nếu vậy, ta phải đi xem nhà nó ra sao lại dám nói khoác. Nếu quả đền được chậu thì tốt quá!". Hắn gật đầu bằng lòng, liền sai hai người nhà sắp sửa hành trang và cưỡi ngựa để cùng đi.
Sáng sớm hôm sau, họ khởi hành, phú ông cưỡi ngựa, cậu Ba cùng hai người đầy tớ lẽo đẽo đi bộ theo sau. Bốn chủ tớ đi được một ngày thì tới một thị trấn nhỏ. Cậu mời phú ông và hai bạn trai vào tạm nghỉ trưa tại một cửa hiệu buôn to nhất phố, cậu nói:
- Đây là cửa hàng buôn xép của cha mẹ con!
Trong lúc phú ông còn đang lưỡng lự, thì từ trong cửa hiệu, chủ hiệu và hai người bán hàng đã chạy ra gọi to:
- Ô kìa! Cậu Ba đã đến, cậu đi đâu vội mà kéo bộ như thế! Mời cậu vào nhà.
Cậu Ba quay lại giới thiệu phú ông và hai bạn ở với những người nhà, và mời họ vào nhà. Phú ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy ông chủ hiệu rất mực kính cẩn đối với đứa ở của mình. Sau một hồi thăm hỏi trò chuyện, chủ khách được mời vào nhà trong ăn cơm. Bữa cơm hôm ấy có đủ các món cao lương mỹ vị.
Cơm nước xong, cậu Ba hỏi phú ông:
- Con thấy con ngựa của ông đã mệt lắm, ông có cần thay con ngựa khác để đi cho được chóng hơn không!
- Nếu được cũng tốt, phú ông trả lời.
Một lát sau, phú ông ngạc nhiên thấy người nhà ông chủ hiệu dắt ra sân bốn con ngựa to béo đóng sẵn yên, cậu Ba mời phú ông:
- Ông xem con nào ưng ý thì ông cưỡi.
Phú ông chọn con ngựa hồng béo khỏe nhất, hai người ở của lão cũng nhảy lên hai con ngựa trắng, cậu Ba cưỡi con ngựa ô. Bốn con ngựa bị hãm tàu lâu ngày, nay mới được ra ngoài thi nhau thả sức cuốc trên đường. Cậu Ba giục cương đi lên trước dẫn đường.
Thấy đứa ở của mình cũng giỏi cưỡi ngựa, phú ông càng khó hiểu, thầm nghĩ: "Nó là hạng con nhà thế nào? Cha mẹ nó có cửa hiệu buôn mà sao nó còn đi ở thuê? Về nhà nó được trọng vọng như thế mà sao ở trước mặt ta nó lại khiêm nhường như vậy?"
Mặt trời đã bắt đầu gác núi, bốn con ngựa thong thả đi vào thị trấn thứ hai. Đến trước một cửa hiệu lớn, cậu Ba gò cương, xuống ngựa mời phú ông và hai bạn ở vào nhà nghỉ chân. Tại đây, cậu Ba lại được vồn vã hỏi han và được thân mật đón tiếp. Cậu kể với phú ông đây là một cửa hiệu vào loại vừa của cha mẹ mình.
Sáng hôm sau, cậu Ba lại đề nghị phú ông đổi ngựa. Rồi cậu ra roi thúc ngựa đi lên trước dẫn đường. Bốn ngựa rong ruổi chạy nước kiệu.
Mặt trời đứng bóng, bốn chủ tớ đi vào một thị trấn. Cậu Ba xuống ngựa trước một tòa nhà đồ sộ nhất. Cậu mời phú ông vào nhà và giới thiệu phú ông với cha mẹ mình.
Trưởng giả thấy phú ông về theo cậu Ba, tưởng phú ông có nhã ý đến mừng ngày sinh của mình thì lấy làm mừng lắm. Phú ông thấy bố đẻ người ở của mình lịch thiệp quá nên chưa dám đả động gì đến chuyện bắt đền cái chậu. Trong khi trưởng giả và phú ông đang nói chuyện ở trong nhà thì ở ngoài sân có tiếng ngựa hí và tiếng ồn ào. Trưởng giả hỏi ra mới biết là cậu Cả vừa về đến nơi. Rồi một lát sau, cậu Hai cũng cưỡi ngựa về tới sân nhà.
Thấy phú ông có vẻ ngạc nhiên, trưởng giả nói:
- Mai là ngày sinh của tôi, các cháu đi làm xa đều về mừng.
Phú ông tưởng cậu Cả và cậu Hai đều đi làm quan trị nhậm ở vùng nào vì coi bộ cậu nào cũng ra dáng hào hoa phong nhã.
Sau bữa cơm trưa, trưởng giả mời ông khách sang phòng ngủ rồi gọi ba con lại hỏi han công việc làm ăn trong tám tháng xa nhà. Cậu Cả, cậu Hai, cậu Ba lần lượt kể cho bố nghe rất tường tận công việc làm của họ ở các nhà chủ. Phú ông nằm ở phòng bên nghe rõ mồn một, lúc đó lão mới rõ cả hai người con trai lớn của trưởng giả cũng đều đi làm như cậu Ba. Cuối cùng nghe cậu Ba nói thêm:
- Hôm gần đây con trót nhỡ tay đánh tuột xuống sông một cái chậu vàng của ông chủ, con đã cố lặn tìm mãi nhưng không thấy. Hôm nay ông chủ con đến theo đây là để xem có cái nào tương xứng thì lấy. Con xin bố đền cho ông ta một cái.
Trưởng giả tươi cười nói với con:
- Được! Được! Mai con hãy dẫn ông đi xem vài cái chậu ở phòng rửa mặt kia, ông ưng cái nào thì con đền ông cái ấy. Một cái chậu vàng đáng bao nhiêu, việc học nghề của con mới là quý. Sau ngày sinh của ta, các con lại đâu trở về đấy tiếp tục công việc nhé!
Cả ba người con đều vâng dạ.
Phú ông nghe trưởng giả nói như vậy, nằm suy nghĩ miên man.
Sáng hôm sau là ngày sinh của mình, trưởng giả sai cậu Ba dẫn phú ông sang thăm nhà súc vật. Nghe nói đi thăm nhà súc vật, phú ông có ý không được thích. Nhưng vì nể chủ nhân, lão đành gượng gạo nhận lời. Cậu Ba dẫn phú ông cùng hai bạn lên tầng lầu thứ hai, cậu mở cửa gian phòng thứ nhất, đó là phòng gia súc. Thoạt nhìn vào, phòng sáng rực ánh vàng, phú ông hoa mắt suýt ngã. Cậu Ba đưa tay dắt lão vào phòng, trong phòng bày la liệt đủ loại gia súc: đây con chó, con mèo, con lợn nái cùng đàn con, kia con ngựa, con trâu, con nghé, trong cùng có con bò, con bê. Con nào cũng đúc bằng vàng và to bằng nửa con vật thật. Con đứng, con ngồi, con nằm, trông đến hoa cả mắt. Trước mặt con nào cũng có một cái chậu vàng và một chậu bạc. Phú ông ngắm nghía mãi từng con, mân mê mãi từng cái chậu...
Cậu Ba lại mời phú ông sang gian phòng thứ hai. Phòng này rộng gấp hai phòng trước, bày đủ các loài vật trong rừng, con bằng đồng đen, con bằng vàng: nào hươu, hoẵng vàng, nai đen, nào cầy hương, cáo mèo, cáo chó, báo vằn, báo hoa, hổ bạch, hổ xám, nào lang sói, gấu chó, gấu ngựa, lợn lòi, lợn cỏ, voi mẹ, voi con, khỉ độc, khỉ đàn, vượn trắng, vượn đuôi dài, cu li đực, cu li cái, nào dúi, dím, sóc, chồn,v.v.... Con phục, con quỳ, con vờn nhau, con giơ chân chực chạy, con giơ tay như toan leo trèo, con há mồm, nhe nanh, giơ vuốt, con đang gặm cỏ, con đang nằm dài ra vẻ ung dung, nhàn nhã. Phú ông nhìn đến từng con ngắm từng loại.
Cậu Ba lại mời phú ông sang xem phòng cuối cùng, phòng này là cả một rừng chim, con thì bằng vàng, con thì bằng bạc to bằng chim chóc ngoài trời, con đứng trên những hòn đá bằng đồng đen, con đậu ở trên những cành vàng, lá bạc. Có những con đang xòe cánh như đang bay, con há mỏ như đang hót, con rỉa lông, con đang chọi, con đang nằm ấp ở trong những ổ xinh xinh... ở mỗi góc phòng đều bày một cái chậu bạc đựng những hạt thóc vàng, một cái chậu vàng đựng đầy nước bạc. Phú ông không tài nào đến gần xem tận mặt từng con. Lão đứng ở giữa phòng đếm từ con to như đại bàng, diều hâu, bạch trĩ, gà lôi cho đến những con nhỏ như chim ri, chim sẻ, chim sâu và rất đỗi lạ lùng khi thấy ở trong có tới ngót nghét năm trăm con to nhỏ. Lão không thể ngờ rằng trên đời lại có người giàu có đến mực ấy.
Chiều hôm đó, cậu Ba lại mời phú ông đi thăm phòng chứa các loại đồ dùng hàng ngày. ở đây có từ các loại đồ dùng nhỏ như chén, bát, đĩa, đũa, đến các thứ hạng vừa như chai đựng, vỏ chứa, ấm chuyên, rồi sang các thứ đồ dùng hạng to như mâm vàng, khay bạc, chậu, ang, chum, vại. Phú ông không còn sức để xem tỉ mỉ từng loại, từng thứ nữa. Tất cả những thứ này đều bằng vàng, bằng bạc. Phú ông đặc biệt chú ý mười đôi chậu vàng to nhỏ chồng xếp lên nhau, có cái to gấp đôi cái chậu của nhà mình, có cái cũng vào hàng em út.
Tối đến, lên giường nằm suy nghĩ, phú ông hối hận đã trót quá lời với đầy tớ khi nó đánh rơi cái chậu xuống sông, lại hổ thẹn về việc chỉ có hai cái chậu vàng mà dám vỗ ngực là giàu có vào bậc nhất nhì thiên hạ. Rồi đến canh ba, lão lần tới giường ngủ của hai người làm, khe khẽ đánh thức họ dậy, kéo nhau ra sân bàn bạc rồi một mạch chuồn thẳng về nhà. Đi đến đâu, lão thuê ngựa đến đấy, chỉ một ngày một đêm là về tới nhà.
Về đến nhà, lão gọi ngay vợ và các con lại kể cho nghe tất cả mọi cái mắt thấy, tai nghe ở bên nhà trưởng giả. Vợ con phú ông nghe nói đều lắc đầu lè lưỡi. Khi vợ lão hỏi đến việc bắt đền chậu, lão hạ thấp giọng nói:
- Tôi đã trót nặng lời và mắng nhiếc anh ta, những tưởng anh ta thuộc vào hạng người bần cùng. Nhưng đến nhà nó, thấy cha mẹ nó lịch thiệp, anh em nó khôn ngoan, gia tài nó gấp vạn nhà ta, tôi còn bụng dạ đâu mà dám mở mồm bắt đền một cái chậu, mặc dầu mất cái chậu đó, ruột gan tôi đau như cắt.
Giữa lúc cả nhà phú ông đang xì xào bàn tán về ba gian phòng súc vật và phòng chứa đồ dùng bằng vàng, bằng bạc của trưởng giả thì cậu Ba đã phóng ngựa vào đến sân. Cậu xuống ngựa tiến vào nhà, đặt ngay trước mặt phú ông một chiếc chậu vàng to gấp hai cái chậu cũ, kèm theo một túi bạc thoi. Phú ông chưa kịp nói gì thì cậu Ba đã lên tiếng trước:
- Bố con chưa kịp tiếp đãi ông đến nơi đến chốn thì ông đã vội về. Bố con cho con sang đây trước là đền ông cái chậu này, sau là xin với ông cho con lại vào làm công ở đây như ngày trước. Bố con còn sai con đem cái túi bạc này gọi là có chút quà mọn đền đáp công ơn ông dạy bảo con trong tám tháng qua...
Theo lời kể của cụ Hoàng Đức Tô
xã Hồng Việt, huyện Hòa An, Cao Bằng