Quan Sơn Nguyệt không chậm trễ, vọt mình qua cửa sổ, đến cạnh gã công nhân, đưa tay ra định giải huyệt cho hắn. Ngờ đâu, tay chàng chưa chạm đến mình gã, gã ngã xuống liền, đồng thời rú lên thê thảm, chừng như đau đớn lắm.
Tại sao gã đứng được đến lúc đó, rồi mới ngã? Tại sao mãi đến lúc ngã, gã mới nghe đau?
Pháp điểm huyệt của Phi Lạc Đà quả thật lợi hại vô cùng, giới hạn đến cả thời gian hiệu nghiệm như vậy, kể ra trên giang hồ chẳng phải bất cứ cao thủ nào cũng luyện được thủ pháp đó.
Bành Cúc Nhân đã ra đến bên ngoài, trông tình hình đó, vụt biến sắc mặt ngay.
Quan Sơn Nguyệt toan cúi xuống, quan sát cơ thể của gã công nhân, Bành đại nưong đã quát to:
– Không làm gì được đâu, Lệnh Chủ! Gã bị đối phương hạ thủ bằng thủ pháp Thất Độc đấy!
Quan Sơn Nguyệt giật mình, bất động ngay. Rồi chàng hấp tấp hỏi:
– Thất Độc thủ pháp? Thủ pháp gì thế?
Bành đại nương không đáp vội, day qua Trương Thanh hỏi:
– Còn «Băng Xạ Toàn Mạng Tán» chăng?
Trương Thanh cũng không đáp, lặng lẽ lấy trong mình ra một chiếc bình bằng ngọc. Tuy gọi là thuốc tán, song Trương Vân Trúc vò viên lại, để tiện bề mang theo bên mình, và bình ngọc của Trương Thanh đựng loại thuốc được vò viên đó. Nàng mở nút bình, lấy một viên, trao cho Bành đại nương.
Bành đại nương lập tức nhét viên thuốc vào miệng gã công nhân khách sạn.
Đoạn, bà dùng phương pháp cấp cứu, xoa bóp gã một lúc, nhưng thay vì xoa xuôi chiều, bà lại áp dụng lối nghịch thế, cốt ngăn chận độc khí xâm nhập sâu vào cơ thể của gã công nhân.
Một lúc sau, gã công nhân cử động được.
Bành đại nương thở phào mấy lượt, rồi hướng sang Lưu Tam Thái, thốt:
– Phải để cho gã tịnh dưỡng ít nhất cũng nửa tháng, sau thời gian đó, gã mới khôi phục nguyên trạng. Trong thời gian tịnh dưỡng, gã phải kiêng ăn những món tanh tưởi như tôm, cá, cua ...
Lưu Tam Thái thay mặt tên đệ tử, cảm tạ Bành đại nương cứu mạng cho hắn, đoạn gọi những đệ tử khác, khiêng gã bị nạn vào trong. Cuối cùng, y mời tất cả vào bàn, tiếp tục cuộc rượu.
Phần Tôn Thất, dĩ nhiên đã ở bên cạnh hai bao bạc, đang kiểm điểm lại xem có mất phần nào chăng.
Vừa ngồi xuống ghế, Quan Sơn Nguyệt nóng nảy hỏi liền:
– Thất Độc thủ pháp có đặc điểm gì, đại nương lại cho là lợi hại?
Bành đại nương thở dài:
– Sự việc này làm cho già liên tưởng đến bao nhiêu việc khác ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Những việc khác là việc gì?
Bành đại nương chỉnh nghiêm thần sắc, đáp:
– Những gì già liên tưởng, có quan hệ đối với Phi Lạc Đà. Và, già nghĩ rằng, Phi Lạc Đà, có thể là ...
Quan Sơn Nguyệt chận liền:
– Là Khổng Linh Linh!
Bành đại nương nhìn sững chàng, sau cùng bà thở dài, buông gọn:
– Lệnh Chủ đoán đúng!
Trước mắt ngoại nhân, bà gọi chàng là Lệnh Chủ, khi nào chỉ có hai người, thì bà dùng tiếng ngươi xưng hô với chàng. Chẳng qua, bà tự cho mình có cái thân phận trưởng thượng đối với chàng. Mà Quan Sơn Nguyệt cũng chẳng lấy đó làm điều, vì chàng có sự nghi ngờ xa xôi về một liên hệ giữa Bành đại nương và Độc Cô Minh. Huống chi, Bành đại nương đã cao tuổi, bà có thể là mẹ của chàng?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Trong thiên hạ vũ lâm ngày nay, hảo thủ không nhiều, mà một cô nương có tâm tánh và hành vi như Phi Lạc Đà, ngoài nàng ấy ra thì còn ai nữa? Tại hạ vừa thấy Phi Lạc Đà xuất hiện, là có cái giả thuyết đó trong tâm tư rồi. Nhưng cái giả thuyết đó không vững lâu, bởi căn cứ vào thủ pháp điểm huyệt của người nầy, tại hạ nghĩ rằng tài nghệ của Phi Lạc Đà phải cao hơn Khổng Linh Linh một bậc.
Như vậy, chắc hẳn phải là một người khác chứ không nhất quyết là Khổng Linh Linh.
Bành đại nương gật đầu:
– Thoạt đầu, già cũng tưởng Phi Lạc Đà chính là Khổng Linh Linh, song, lúc biết được hắn sử dụng Thất Độc thủ pháp, già lại nghĩ đến một người khác, nếu đúng Phi Lạc Đà là truyền nhân của người đó, thì từ nay, Lệnh Chủ sẽ có một kẻ tử đối đầu, một đại kình địch!
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Người đó, là ai?
Thay vì đáp lời Quan Sơn Nguyệt, Bành đại nương nghiêm giọng hỏi:
– Già muốn Lệnh Chủ thực tình cho già biết, Độc Cô Minh thật đã chết rồi, hay còn sống?
Quan Sơn Nguyệt thoáng biến sắc:
– Ân sư tạ thế, đó là sự thật, tại sao đại nương lại nghi ngờ?
Bành đại nương hừ một tiếng:
– Công tử!
Bà không gọi là Lệnh Chủ, lại đổi cách xưng hô, gọi Quan Sơn Nguyệt bằng hai tiếng «công tử»! Như vậy, là bà chuyển hướng tình cảm của bà, trong tiếng gọi của bà, có vẻ thân mật rõ rệt, bà dựa vào sự thân mật đó để trách cứ chàng.
Nhận xét qua thái độ của bà, đối với Quan Sơn Nguyệt, tất thấy rõ một mối quan hệ rất trọng giữa bà ta và Độc Cô Minh, có Quan Sơn Nguyệt ở trung gian ...
Và có lẽ Bành đại nương muốn làm sống động lại những gì đã chìm lặng từ lâu, nên bà tha thiết muốn biết rõ chân tình về Độc Cô Minh.
Gọi xong hai tiếng đó, bà trầm giọng tiếp:
– Già đối với công tử, có thể được cho là trọn nhân, trọn nghĩa, già không kể cái số tuổi khá cao, tình nguyện theo sát bên mình công tử trên những đoạn đường xuôi ngược khắp sông hồ, hầu giúp công tử phần nào trong những cơn bất trắc. Thế mà công tử không chịu cho già biết một sự thật, dù sự thật đó, nghĩ ra cũng chẳng quan trọng gì!
Quan Sơn Nguyệt bối rối, hấp tấp thốt:
– Đại nương trách cứ như thế, tại hạ biết đáp làm sao ...
Bành đại nương cao giọng:
– Nếu quả thật Độc Cô Minh đã chết, thì nhất định trên đời nầy chẳng còn ai sử dụng nổi thủ pháp «Thất Độc Đoạn Huyệt»! Lão ta còn sống, lão ta thu nhận môn đồ, bây giờ môn đồ của lão xuất thế hành sự, thủ pháp đó mới xuất hiện trên giang hồ!
Bành đại nương quả quyết quá, Quan Sơn Nguyệt bối rối hơn. Chẳng rõ với ý tứ gì, chàng đảo mắt nhìn quanh gian đại sảnh, nơi đặt bàn tiệc đãi chàng.
Lưu Tam Thái vội thốt:
– Giả như Lệnh Chủ có điều tỵ hiềm, thì bọn tại hạ xin tạm thời cáo thoái, để cho Lệnh Chủ tự tiện ...
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Không cần, bất quá tại hạ mong rằng sau khi nghe chuyện, Lưu huynh giữ kín cho!
Lưu Tam Thái thừa hiểu, nếu ở lại nghe chuyện riêng tư của người, thì khiếm nhã lắm, tuy Quan Sơn Nguyệt nói thế, y cũng biết chẳng lẽ chàng trắng trợn bảo y ra ngoài? Dù sao thì y cũng là chủ gia, Quan Sơn Nguyệt phải giữ lễ độ tối thiểu đối với y chứ?
Theo lệ phải, y nên đi ra, dù Quan Sơn Nguyệt có lưu y lại. Nhưng y lại hiếu kỳ. Y đoán chắc là câu chuyện Quan Sơn Nguyệt sắp nói cho Bành đại nương nghe, hẳn có tầm quan trọng lớn lao, liên hệ đến những sự việc vô cùng bí mật trong vũ lâm. Mà y lại cho mình là khách giang hồ, tự nhiên y rất muốn biết những sự việc đó. Cho nên, nghe Quan Sơn Nguyệt dặn dò y giữ bí mật, lập tức y đưa cao tay chỉ trời, long trọng phát thệ:
– Nếu tại hạ tiết lộ nửa lời về câu chuyện sắp được Lệnh Chủ cho nghe đây, thì xin thiên tru địa lục tại hạ! Lệnh Chủ yên trí!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu. Chàng trầm ngâm một lúc lâu, đoạn từ từ thốt:
– Quả thật ân sư của tại hạ chưa chết! Tuy nhiên, cái chết cũng không xa người cho lắm!
Bành đại nương trố mắt:
– Thế là vũ công của lão bị phế hủy trọn vẹn?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không có việc đó đâu! Bất quá, ân sư tại hạ không thể trở lại nhân gian nữa thôi! Lúc người trao Minh Đà Lệnh cho tại hạ, người có bảo tại hạ nên tuyên ngôn là người đã chết rồi và ân cần chúc phó tại hạ đừng bao giờ tiết lậu sự tình.
Sự thực thì người đến một nơi ước hội, rồi sau đó quy ẩn luôn.
Bành đại nương cau mày:
– Lão đến đối phương nào? Ước hội với ai?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Tại hạ không được rõ! Bình sanh, ân sư tại hạ không hề giấu giếm tại hạ một điều gì, chỉ có việc đó, tuyệt nhiên người không nói cho tại hạ biết. Tại hạ có van cầu mấy lượt, trước sau người vẫn giữ bí mật.
Bành đại nương mơ màng một lúc, đoạn thở dài:
– Phải! Độc Cô Minh hành động như vậy, già kính phục vô cùng! Chịu khổ, chịu đau bao nhiêu năm dài, bỗng lại tìm được nghị lực, giúp lão quyết định như thế! Đáng phục lắm!
Quan Sơn Nguyệt thoáng giật mình:
– Đại nương biết ân sư tại hạ đi về đâu?
Bành đại nương gật đầu:
– Phải! Trên thế gian nầy, ngoài già ra, không một người thứ hai nào biết được hiện nay Độc Cô Minh ở đâu!
Quan Sơn Nguyệt để lộ niềm khích đông rõ rệt, hấp tấp hỏi:
– Ở đâu, đại nương?
Bành đại nương mơ màng:
– Nói ra làm sao được! Già chỉ biết vùng, chứ không biết chỗ chính xác.
Già biết, Độc Cô Minh có đính ước với một người, cả hai cùng đến đó ...
Quan Sơn Nguyệt nóng nảy:
– Mà nơi đó là đâu?
Bành đại nương trầm giọng:
– Nơi đó, về hướng Tây, địa danh là Tiểu Tây Thiên!
Bà lại mơ màng, lẩm nhẩm:
– Tiểu Tây Thiên! Về hướng Tây, có biết bao nhiêu địa phương? Già còn biết Tiểu Tây Thiên ở nơi nào? Trong bao nhiêu năm xuôi ngược giang hồ, già chưa từng nghe ai nói đến địa phương đó, trừ một Độc Cô Minh! Già còn chưa biết thực sự địa phương đó ở đâu?
Quan Sơn Nguyệt thất vọng ra mặt. Lâu lắm, chàng thở dài, thốt:
– Đính ước với một người! Người đó là ai? Có sự tình gì giữa ân sư tại hạ và người đó?
Bành đại nương cũng thở dài:
– Sư phó ngươi không nói cho ngươi biết, thì ta làm sao tiết lộ với ngươi?
Qua phút giây xúc động, bà lấy lại bình thường, và dùng cái tiếng ngươi, xưng hô như cũ. Bà tiếp:
– Dù sao, già cũng phải trọng cái ý của Độc Cô Minh, lão muốn giữ bí mật, mà không thể tiết lộ được!
Quan Sơn Nguyệt có vẻ bất mãn.
Trương Thanh mấp máy môi định nói gì đó, song nàng chưa kịp cất tiếng, Bành đại nương lại tiếp:
– Không phải già cố ý tạo nên quan trọng cho sự tình, chẳng qua, ngày trước, già cùng Độc Cô Minh có phát thệ long trọng với nhau, lời thề đó mãi mãi ước thúc nhau, cho đến ngày trút hơi thở cuối cùng. Giả như, già bất chấp sự an nguy cho bản thân, tiết lộ sự tình cho ngươi biết, già có bề nào, đã đành rồi, song cái hậu quả sẽ tai hại vô cùng, tai hại cho nhiều người lắm đó. Già đâu dám liều lĩnh gieo họa cho nhiều người? Ngươi phải biết, trước khi đi đến nơi ước hội, Độc Cô Minh đắn đo, cân nhắc suốt mấy mươi năm dài! Mãi đến mấy năm gần đây, lão ta mới dám quyết định. Ngươi thấy đó, tầm quan trọng của sự tình rộng lớn đến đâu!
Bà dừng lại một chút, đoạn kết luận:
– Ngươi thấy đó, Độc Cô Minh là con người không sợ trời, không sợ đất, vẫn phải trì nghi, do dự qua bao năm dài, đủ biết sự tình quan trọng như thế nào!
Quan Sơn Nguyệt hồi ức lại đoạn thời gian sống chung với ân sư.
Từ ngày được Độc Cô Minh thu nhận làm môn đồ, ngoài cái việc ân cần giáo huấn chàng, việc đó chiếm một khoảng thời gian thường nhật, còn ra thì Độc Cô Minh luôn luôn ủ rũ mơ buồn, trầm tư man mác! Chàng cũng chẳng hiểu tại sao ân sư cam sống nội tâm, dứt khoát hẳn mọi tiếp xúc với đời, gần như một người bất cận nhân tình. Chàng cũng có lấy làm lạ, lắm lúc muốn hỏi, song một đệ tử làm sao dám tìm hiểu sâu đời tư của vị sư phó?
Rồi đến khi trao tín vật, lệnh phù, Độc Cô Minh có cái vẻ trang trọng như cuộc tiễn đưa bên bờ Dịch Thủy của người xưa ...
Từ đó đến nay, chàng luôn luôn mang nặng niềm thắc mắc, cố tìm một giải đáp, song tìm giải đáp về hành động của ân sư chàng, có khác nào tìm hạt cát giữa lòng biển sâu?
Bây giờ, Bành Cúc Nhân nhắc lại việc cũ, và còn tỏ lộ là biết rõ nơi quy ẩn của ân sư. Hơn thế, bà cũng tỏ lộ luôn là biết rõ ân sư đính ước với ai. Rồi bà còn cho rằng, sự tình rất hệ trọng! Sự tình gì chứ?
Nhìn thần sắc của Quan Sơn Nguyệt, Bành Cúc Nhân bất giác thở dài, thốt:
– Nhắc lại việc xa xưa, già chỉ nêu lên một mối tương quan giữa Phi Lạc Đà và Độc Cô Minh, nếu trong cuộc chiến sắp đến, ngươi thắng nổi Phi Lạc Đà, thì vấn đề không còn gì để nói nữa, bởi cuộc chiến thắng đó sẽ là sự kết thúc vĩnh viễn những liên hệ giữa ngươi và Độc Cô Minh. Còn như ngươi hy vọng gặp lại Độc Cô Minh, dù chỉ là một lần, thì tuyệt đối ngươi không nên đánh bại Phi Lạc Đà! Ngươi nghe già nói rõ chứ? Thắng hắn, là vĩnh viễn ngươi không gặp lại Độc Cô Minh, muốn gặp Độc Cô Minh, ngươi cần phải bại!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ:
– Lời nói của đại nương, hẳn có nguyên nhân?
Bành Cúc Nhân trầm giọng:
– Già đã nói hết những gì có thể nói, còn ra thì tùy ngươi châm chước mà hành sự! Đừng hỏi nhiều hơn, già không làm thỏa mãn ngươi được đâu!
Quan Sơn Nguyệt biết lắm, không làm sao chàng bức bách Bành đại nương nói gì nhiều hơn những điều bà có thể nói. Bây giờ, còn một phương pháp duy nhất, là muốn biết điều gì, chàng phải do nơi Phi Lạc Đà.
Chàng thầm nghĩ:
“Theo đại nương, ta nên bại! Ta bại, thì còn gì danh dự của ta? Ta thắng, thì vĩnh viễn chẳng còn gặp mặt ân sư! Làm sao? Ta phải làm sao? Nên bại hay nên thắng?”.
Một vấn đề nan giải! Một vấn đề liên quan trọng đại đến tiền đồ của chàng!
Một vấn đề chỉ giải quyết bằng hai tiếng thắng, bại! Nhưng, lại khó khăn hơn việc chuyển càn khôn!
Trong khi đó, Bành Cúc Nhân nhìn thẳng vào mặt chàng, chờ nghe chàng tỏ một thái độ. Thái độ đó, là chàng chấp thuận bại hay kiên quyết chiếm phần thắng.
Chàng phải dứt khoát thái độ như thế nào? Sau cùng, chàng đáp, nhưng lời đáp của chàng cũng chẳng có vẻ gì là dứt khoát hẳn:
– Giả như, tại hạ tài hèn, thì đương nhiên là bại. Còn như, vũ công của tại hạ chẳng đến đổi kém, mà tại hạ lại là Minh Đà Lệnh Chủ, tại hạ mất hẳn cá nhân, tại hạ trở thành hình thức tượng trưng cho cả một môn phái, tại hạ chiến đấu vì môn phái đó, mà một môn, một phái nếu có phải bại, đương nhiên có thể bại vì âm mưu, vì quỷ kế, chứ nhất định không bại vì vũ công, bởi bại vì vũ công là tiêu diệt!
Bành Cúc Nhân thở dài:
– Như vậy là vĩnh viễn ngươi không mong trùng phùng vị sư phó của ngươi!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Đại nương nói đúng! Thắng, là tại hạ không hy vọng gặp lại ân sư, mà bại, tại hạ cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp lại ân sư, bởi tại hạ bại, là Minh Đà Lệnh nhục, tại hạ không xứng đáng nhận lãnh sự ủy thác của ân sư. Tại hạ làm nhục cho môn phái, tại hạ phải chết, nói gì đến việc dám chường mặt đến gặp lại ân sư?
Bành Cúc Nhân thở dài:
– Ngươi có lý! Già còn biết nói gì hơn?
Thế là sự tình đã được quyết định hẳn rồi, trong cuộc chiến tương lai với Phi Lạc Đà, Quan Sơn Nguyệt phải thắng. Dù có bại, thì chàng chỉ bị bại bởi vũ công kém, chứ chẳng phải vì giả vờ như Bành Cúc Nhân đề nghị với chàng.
Không ai còn lời gì để nói với nhau nữa, họ trầm lặng đến lạnh lùng, không khí khó thở vô cùng.
Lâu lắm, Trương Thanh mới cất tiếng:
– Đại Tán Quan cách đây có xa lắm không, Quan đại ca?
Lưu Tam Thái đáp thay Quan Sơn Nguyệt:
– Không xa lắm đâu, cô nương. Dùng ngựa hay, bất quá chúng ta mất độ mười ngày đường là đến nơi.
Trương Thanh «ạ» lên một tiếng:
– Thế thì thời gian ước hẹn của Phi Lạc Đà còn rộng. Tại sao hắn không thu hẹn hạn kỳ vừa đủ cho cuộc hành trình thôi?
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Phải đó! Theo ước hẹn của hắn và sự dự đoán của Lưu huynh, thì chúng ta còn thừa độ vài mươi hôm, trong khoảng thời gian thừa lại đó, chúng ta sẽ làm gì? Ngu ca muốn đến Lạc Hồn Cốc, song lại sợ không kịp làm gì ...
Lưu Tam Thái thốt:
– Lệnh Chủ không cần phải đến đó, bởi hiện tại trong Lạc Hồn Cốc chẳng còn một người nào cả, kể luôn một gia nhân hèn mọn của Cốc chủ. Sau ngày Khổng Văn Thông chết, Khổng Văn Kỷ biệt tích luôn. Điều đó có thể tin được lắm, bởi bằng hữu giang hồ qua lại địa phương nầy, tiết lộ với tại hạ như thế.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu.
Trương Thanh lại hỏi:
– Lưu đại ca có nghe tin tức chi về Gia gia của tôi chăng?
Chừng như nhận ra là mình hỏi một câu rất vô lý, Trương Thanh bổ túc luôn:
– Gia gia tôi là Trương Vân Trúc ...
Lưu Tam Thái giật mình, trố mắt nhìn nàng:
– Thế ra, cô nương là ái nữ của Trương đại hiệp? Thật tại hạ lỗi quá, chẳng biết được lai lịch cô nương, thành ra sơ sót không tiếp nghinh được chu đáo!
Rồi y tiếp luôn:
– Sau ngày đại náo Lạc Hồn Cốc, Trương đại hiệp im hơi bặt tiếng mãi đến nay. Cũng có nhiều bằng hữu giang hồ tìm Trương đại hiệp song chưa ai biết được quy ẩn tại phương trời nào.
Trương Thanh hết sức kỳ quái:
– Có nhiều người tìm gia gia tôi? Những ai thế, hở Lưu huynh? Họ tìm gia gia tôi để làm gì?
Lưu Tam Thái đưa tay gãi đầu sồn sột, đáp:
– Phần nhiều, là những môn đệ các kiếm phái. Chừng như họ có vẻ khẩn cấp, nóng nảy muốn gặp Trương đại hiệp ngay. Họ có điều gì đó, thỉnh cầu nơi Trương đại hiệp, song tại hạ không biết rõ.
Y lại hỏi:
– Cô nương đã xa cách lịnh tôn từ lâu lắm rồi sao, nên không biết tin tức về người?
Trương Thanh gật đầu.
Cái gật đầu của nàng, xác nhận nàng ly khai gia gia nàng trong thời gian sau nầy.
Đoạn, nàng cau mày lẩm nhẩm:
– Những người đó từ lâu rồi, chẳng hề giao du với Gia gia tôi ... họ có điều chi thỉnh cầu nơi người chứ? Trừ ra trong bọn họ, có kẻ trúng độc, nên tìm Gia gia tôi, nhờ giải cứu ...
Lưu Tam Thái gật đầu:
– Có thể như vậy lắm, cô nương ạ!
Y đắn đo một chút, hỏi tiếp:
– Thế cô nương có biết lịnh tôn hiện giờ ở đâu chăng?
Trương Thanh nhếch nụ cười khổ:
– Tôi cũng chẳng hiểu đích xác cho lắm, Lưu đại ca ạ. Cư sở của chúng tôi, trải qua mấy thế hệ rồi, vẫn ở tại Bắc Thiên Sơn, có thể là thời gian sau nầy người bận xuất ngoại, đến một nơi nào đó, cho nên kẻ được Phi Lạc Đà sai phái đến Bắc Thiên Sơn lấy những tín vật của Quan đại ca được dễ dàng như vậy. Nếu gia gia tôi có mặt, thì đã chắc gì kẻ đó thành công?
Quan Sơn Nguyệt vụt hỏi:
– Lưu huynh có biết là những người trong các bang phái đang tìm gặp Trương lão tiền bối đó, có người nào thuộc về một bang phái nào ở gần đây nhất chăng?
Lưu Tam Thái trầm ngâm một chút:
– Ở gần đây nhất, là Vô Cực Kiếm Phái. Mới hôm nào người con gái của Âm Tố Quân, Chưởng môn nhân kiếm phái đó là Âm Trưởng Hoa, có nghỉ chân tại khách sạn của tại hạ, nàng cho biết là đã cất công tìm Trương đại hiệp khắp nơi, song vô hiệu quả.
Quan Sơn Nguyệt sáng mắt lên:
– Chúng ta còn thừa độ mươi ngày, trước khi đến nơi ước hẹn với Phi Lạc Đà, mình nên thừa dịp nầy, tìm hiểu thêm một vài chi tiết, rất có thể hữu ích về sau ...
Trương Thanh cũng muốn biết những người đó tìm gia gia nàng để làm gì, nên tán đồng dự định của Quan Sơn Nguyệt liền.
Bành Cúc Nhân cũng không có lý do gì ngăn trở, phải xuôi theo ý của cả hai.
Được tham gia vào một công tác do Quan Sơn Nguyệt điều động, Lưu Tam Thái cao hứng vô cùng. Y ân cần mời mọi người dùng bữa, rồi ai về phòng nấy an nghỉ, chờ đến hôm sau, sắp xếp cuộc hành trình.
Sáng sớm hôm sau, Lưu Tam Thái đã chuẩn bị sẵn sàng bốn con ngựa tốt, trước khi bọn Quan Sơn Nguyệt thức dậy.
Mọi vật cần thiết, y cũng trang bị đầy đủ, xong đâu đấy, y mới đánh thức bọn Quan Sơn Nguyệt, dọn điểm tâm cho tất cả dùng, để kịp lên đường trước lúc thái dương lên cao.
Thấy hành trang và cước lực đã sẵn sàng, Quan Sơn Nguyệt mỉm cười hỏi:
– Lưu huynh cũng muốn đi theo tại hạ nữa sao?
Lưu Tam Thái gật đầu:
– Bình sanh, tại hạ có một sở thích, là muốn biết mọi diễn tiến trên giang hồ, do đó mới mở ngôi khách sạn này, nghinh đón hào kiệt bốn phương, tất cả đều cho tại hạ biết những gì đã xảy ra trong giới vũ lâm. Nếu có một cơ hội nào thu thập được một tin tức quan trọng, nhất định là tại hạ không thể bỏ qua được rồi.
Cho nên, tại hạ mạn phép Lệnh Chủ, chuẩn bị một cuộc đồng hành, mong rằng Lệnh Chủ chẳng nở từ chối ...
Quan Sơn Nguyệt bật cười lớn:
– Lưu huynh có nhiệt tâm đối với sinh hoạt của giang hồ, như vậy là điều đáng ngợi chứ, tại hạ làm sao hiềm tỵ một chủ trương hào hiệp? Ngày sau, nếu Lưu huynh khai môn lập phái, hẳn sẽ làm thỏa mãn mọi người, nếu ai ai cũng có thiện chí như Lưu huynh, thì thật là điều đáng mầng cho vũ lâm đó!
Lưu Tam Thái nghiêm sắc mặt, nói:
– Trong tương lai, chưa biết sự tình sẽ biến chuyển như thế nào, giả như tại hạ được toại nguyện trên đường tiến thủ, chắc chắn là phải cần có sự trợ giúp lớn lao của Lệnh Chủ vậy! Ngay từ bây giờ, để đáp lại thịnh tình của Lệnh Chủ hạ cố đến tại hạ, tại hạ hứa là có thể làm bất cứ điều gì cho Lệnh Chủ sai khiến, dù có phải làm thân trâu ngựa, tại hạ cũng vui vẻ mà làm ...
Thấy Lưu Tam Thái nói quá lời, Quan Sơn Nguyệt áy náy không yên tâm, sợ y nói nhiều nữa, chàng vội chận lại:
– Lưu huynh quan trọng hóa vấn đề rồi! Chúng ta tuy bình thủy tương phùng, song tâm đầu ý hợp, vậy chẳng nên dùng lời quá đáng với nhau mà thành mất tự nhiên. Bằng hữu kết giao, quý hồ trọng ở tín thành, trong tương lai, giả như Lưu huynh có cần đến tại hạ thì tại hạ nguyện đem hết sức mình, tương trợ lẫn nhau, để đáp lại phần nào sự tri ngộ hôm nay!
Chàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Chấp chưởng Minh Đà Lệnh, bất quá tại hạ vâng theo di huấn của ân sư, chứ riêng tại hạ chẳng hề tham vọng cái ngôi Lệnh Chủ, chỉ mong tại hạ không làm gì bại hoại thinh danh của ân sư là đủ.
Lưu Tam Thái mong mỏi một ngày nào đó, Quan Sơn Nguyệt sẽ chấn chỉnh môn phái Minh Đà, và y sẽ xin chàng thu nhận vào hàng môn đệ, chứ riêng y thì làm sao dám mơ tưởng đến việc tự khai sáng một giáo phái? Cho nên, nghe Quan Sơn Nguyệt nói như thế, y thất vọng vô cùng. Y trầm ngâm một lúc lâu, rồi thở dài, thốt:
– Lệnh Chủ quá khiêm tốn, chứ như tài nghệ đó, Lệnh Chủ thừa sức làm rạng rỡ môn phái, dù sao thì trong tương lai, vũ lâm còn ỷ vọng nơi Lệnh Chủ trong cuộc hưng chánh, diệt tà. Lệnh Chủ không thể nào bàng quan tọa thị được đâu! Với cái thế chẳng đặng đừng, Lệnh Chủ phải có một lực lượng làm hậu thuẫn, dù muốn dù không, Lệnh Chủ cũng phải tái lập môn phái.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, lắc đầu:
– Chắc không có việc lập môn phái đâu, Lưu huynh! Mà thôi, mình bỏ qua việc xa vời đó đi, hãy nghĩ đến cái gì rất gần trước hết!
Cả bọn lên đường.
Dĩ nhiên, Lưu Tam Thái lãnh nhiệm vụ hướng đạo, con đường Cam Lương, y thuộc nằm lòng, nên đoàn người cứ thẳng tiến, không cần phải hỏi thăm ai.
Từ Lương Châu đến Âm Sơn, đi ngựa chỉ mất hai ngày đường. Họ đi trọn ngày đó, đến đêm xuống, họ dừng chân tại một khách sạn.
Lưu Tam Thái là nhân vật hữu danh trong vùng, nên được người trong khách sạn nghinh đón hết sức long trọng.
Họ chưa kịp nghỉ ngơi, khách giang hồ tại địa phương nghe tin Lưu Tam Thái có mặt tại thị trấn, cùng nhau kéo đến chào mầng. Những vị hào kiệt đó, từng có đi lại với Song Anh Tiêu Cục, đã biết biến cố xảy ra cho đoàn bảo tiêu dưới quyền hộ tống của Tôn Thất, nên nhân dịp nầy họ hỏi Lưu Tam Thái cho biết sự tình.
Đồng thời họ cũng có nghe Minh Đà Lệnh Chủ tái nhập giang hồ, nhưng họ không hề tưởng là Quan Sơn Nguyệt có mặt trong đoàn người. Cho nên, họ thấy Quan Sơn Nguyệt, cứ tưởng đâu là một bằng hữu của Lưu Tam Thái.
Mà Lưu Tam Thái đã được Quan Sơn Nguyệt dặn riêng rồi, đừng bao giờ tiết lộ hành tung của chàng. Do đó, Lưu Tam Thái không giới thiệu các vị hào kiệt tại vùng nầy với Quan Sơn Nguyệt, y chỉ đề cập đến việc Tôn Thất bị cướp thôi.
Quan Sơn Nguyệt đối đáp qua loa với các vị khách của Lưu Tam Thái, rồi cáo từ về phòng, trò chuyện với Bành Cúc Nhân và Trương Thanh.
Không lâu lắm, Lưu Tam Thái trở vào, tìm Quan Sơn Nguyệt, thần sắc của y thê thảm vô cùng, đi theo y còn có Tôn Thất.
Tôn Thất không theo đoàn, vì bận tải bạc về đến Song Anh Tiêu Cục, chẳng rõ có việc gì, đột nhiên hắn lại đến đây ...
Tôn Thất vừa trông thấy Quan Sơn Nguyệt, vội bước tới trước mặt chàng, quỳ xuống lạy liền. Hắn khóc ngất lên, thốt qua nức nở:
– Lệnh Chủ ơi! Xin Lệnh Chủ thương tình tại hạ, ra tay báo thù cho hai vị chủ nhân của tại hạ!
Quan Sơn Nguyệt thấy hắn sụp lạy, đã kỳ quái rồi, bây giờ nghe hắn nói thế, chàng càng kỳ quái hơn nữa, hỏi gấp:
– Việc gì đã xảy ra, hở Tôn huynh? Hai vị chủ nhân của Tôn huynh làm sao?
Tôn Thất lấy trong chiếc bao bố ra hai tấm lệnh bài, dấu máu còn ràng ràng.
Hai chiếc Phi Đà Lệnh!
Chàng biến sắc mặt, hỏi:
– Song Anh nhị vị Tiêu Cục trưởng đã ngộ hại?
Tôn Thất càng khóc lớn hơn:
– Hai vị chủ nhân của tại hạ đều bị Phi Lạc Đà sát hại rồi, Lệnh Chủ ơi!
Hắn dùng lệnh bài nầy, giết cả hai!
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Hai vị chủ nhân của Tôn huynh bị giết tại đâu?
Tôn Thất dịu cơn bi thảm để trình bày sự tình:
– Tại quận thành Võ An.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Võ An Quận? Tiêu Cục Song Anh có cơ sở chánh tại Lạc Dương kia mà?
Làm sao họ bị giết tại Võ An quận cho được?
Tôn Thất giải thích:
– Sau khi tại hạ rời Tiêu Cục hai ngày, hộ tống đoàn bảo tiêu đến địa điểm do người thuê đã chỉ, thì tại Tiêu Cục, hai vị chủ nhân tiếp được một phong thơ của Phi Lạc Đà, báo tin là sẽ đánh cướp đoàn bảo tiêu dọc đường, đoạt lấy số bạc. Hai vị chủ nhân lo sợ vội lên đường đuổi theo bọn tại hạ, hầu tìm cách bảo vệ bọn tại hạ nếu có điều bất trắc xảy ra. Ngờ đâu, cả hai vừa đến quận Võ An thì gặp Phi Lạc Đà! Mấy tên gia nhân do tại hạ sai phái về Lạc Dương, báo cáo tình hình với chủ nhân, lại gặp hai vị chủ nhân tại Võ An quận!
Hắn lại khóc, một lúc lâu mới tiếp:
– Gặp xác chết của hai vị chủ nhân đúng hơn!
Hắn lại rên rỉ:
– Lệnh Chủ ơi! Hai vị chủ nhân của tại hạ chết oan uổng vô cùng! Xin Lệnh Chủ vì lòng nghĩa hiệp, ra tay báo thù cho họ, họ từ nơi suối vàng, sẽ hướng vọng về dương trần, cảm kích ơn trọng của Lệnh Chủ!
Quan Sơn Nguyệt luôn luôn cau mày, tỏ vẻ hết sức quan tâm đến sự việc.
Suy nghĩ một lúc, chàng thốt:
– Báo thù! Đương nhiên là tại hạ sẵn sàng giúp các hạ, bởi phận sự con nhà võ, là phải trừ hung, diệt bạo, cứu thế, độ nhân, phàm ai đã xuất thân hành hiệp trên giang hồ, gặp sự bất bình tức phải ra tay san bằng, đem lại an ninh cho đồng loại. Tuy nhiên, trước khi tại hạ can thiệp vào vụ, ít nhất phái Chung Nam cũng phải lên tiếng trước. Bởi, hai vị tiêu cục trưởng Tiêu Cục Song Anh là người trong phái Chung Nam. Theo quy củ giang hồ thì phần chánh sự việc phải do phái Chung Nam định đoạt. Còn như tại hạ, bất quá chỉ là kẻ đứng ngoài lề, nếu có can thiệp thì cũng chỉ nhân danh công đạo mà can thiệp, chứ không thể xem mình như một đương sự chánh mà đương đầu với Phi Lạc Đà.
Chàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Tôn huynh nên tìm đến Lữ Vô Úy trước, trình bày sự tình với lão ấy, yêu cầu lão xuất đầu lộ diện, phần tại hạ thì thừa cơ hội giúp giật bên ngoài, chứ thực sự thì tại hạ đâu có tư cách gánh vác trọn vẹn công cuộc đối phó với Phi Lạc Đà!
Phi Lạc Đà vấn nạn thì sao? Chung Nam phái vấn nạn thì sao? Tại hạ can thiệp trong khi Chung Nam phái chưa can thiệp có khác nào tại hạ vũ nhục phái đó, cho rằng phái đó bất lực hoặc khiếp nhược?
Tôn Thất vừa khóc vừa nói:
– Cứ theo lời những kẻ tùy hành hai vị chủ nhân, thì trước khi chết cả hai có nói rằng, hung thủ có vũ công rất cao, chỉ sợ Lữ chưởng môn không làm gì nổi hắn! Hai vị chủ nhân có ước ao, phải chi gặp được Lệnh Chủ trước giờ nhắm mắt, yêu cầu Lệnh Chủ ra sức báo thù, được như vậy may ra họ mới ngậm cười nơi chín suối!
Hắn dừng lại một chút, lại tiếp luôn:
– Làm gì có sự tấu xảo ly kỳ xui khiến cho họ gặp Lệnh Chủ một cách bất ngờ? Cho nên, tại hạ thể theo nguyện vọng của họ trong giờ phút cuối cùng, tìm đến Lệnh Chủ, mạo muội van cầu Lệnh Chủ sẵn sàng xuất thủ trừ diệt kẻ bạo tàn.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc.
Tôn Thất lại gào lên:
– Huống chi, cái chết của hai vị chủ nhân tại hạ, có liên quan phần nào với Lệnh Chủ!
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Liên quan đến tại hạ? Làm gì có việc kỳ lạ như thế?
Tôn Thất gật đầu:
– Thực ra, thì có thể là hai vị chủ nhân tại hạ chưa đến đổi phải bị giết. Họ vừa đến quận Võ An, Phi Lạc Đà xuất hiện bảo với họ rằng, số bạc bảo tiêu đã bị hắn đoạt rồi, song nể tình Lệnh Chủ hắn trả lại, tuy nhiên, hắn không khi nào chịu xuất trận vô công, số bạc đã được trả lại, thì hắn phải giết người bù vào. Có lẽ sau khi rời khách sạn Lưu Tam Thái, Phi Lạc Đà đi thẳng đến quận Võ An ...
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Đáng ghét cái gã Phi Lạc Đà thật! Khiếp nhược đến thế là cùng! Sợ tại hạ, chẳng dám làm chi tại hạ, lại quay về những người vô cô mà thị oai, mà tác ác!
Đúng là một con người ti bỉ cực độ!
Bành Cúc Nhân cười nhẹ:
– Không phải người ta khiếp nhược, chẳng dám tìm đến Lệnh Chủ đâu! Bất quá, thời gian đương đầu với Lệnh Chủ chưa đến đấy thôi!
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Nhất định là trong vòng một tháng nữa, tại hạ sẽ lấy mạng hắn tại Đại Tán Quan! Tại hạ sẽ bêu xác hắn đúng trăm ngày, cho hào kiệt giang hồ thấy rõ gương mặt một ác quỷ chuyên cười trên xương máu kẻ thiện lương!
Bành Cúc Nhân lại cười:
– Già chỉ sợ sự tình không được giản đơn như Lệnh Chủ muốn!
Cứ mỗi lần chàng hằn học, chàng phát cáu, là y như Bành Cúc Nhân phá mất cái hứng của chàng.
Tại sao? Bà muốn mài giũa bớt cái tính khí quá sôi động của chàng chăng?
Bà muốn chàng trầm tịnh hơn, đừng quá lộ liễu cảm nghĩ qua mỗi sự việc chăng?
Quan Sơn Nguyệt trố mắt nhìn bà. Chàng không tin là chàng không thành công. Phi Lạc Đà bất quá chỉ là người trong lứa tuổi của chàng, chứ nào phải là hàng tiền bối, trưởng thượng chi, có nhiều năm tu vi tạo nên một công phu thâm hậu mà chàng phải ngán? Chàng tin rằng, khó mà chàng thất bại nơi tay những người xấp xỉ niên kỷ với chàng. Và chàng tưởng tượng là có thể thắng Phi Lạc Đà.
Cho nên, chàng không hiểu Bành Cúc Nhân có dụng ý gì lại thốt lên một câu, gần như khinh thường chàng. Giả như, nếu Bành Cúc Nhân không phải là người cùng đi chung một đoàn với chàng, chắc chắn là chàng đã sừng sộ rồi.
Biết rõ Quan Sơn Nguyệt bất bình trước câu nói hàm cái ý hoài nghi về tài năng của chàng, Bành Cúc Nhân điềm nhiên tiếp:
– Già nói như vậy, chẳng phải có ý chí không đẹp đâu, chẳng qua già muốn nhắc nhở Lệnh Chủ nên cẩn thận trong mọi việc, dù mình nắm cái cơ tất thắng trọn vẹn, cũng phải hết sức thận trọng khi hành động, vì chẳng ai biết trước những bất ngờ tai hại có thể chờ đợi ta. Già cảnh cáo Lệnh Chủ một việc, là khi Phi Lạc Đà dám thách thức Lệnh Chủ, và hẹn ngày giao đấu, hẳn nhiên hắn có chỗ nương cậy vững vàng. Chẳng phải vì hắn có chỗ nương cậy vững vàng đó mà già dám đoán là Lệnh Chủ bại. Già muốn Lệnh Chủ đề phòng một cạm bẫy do hắn giương ra trong ngày đó. Rất có thể như vậy lắm, Lệnh Chủ ạ!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu, đoạn day qua Tôn Thất, vẫy tay:
– Tạm thời, các hạ hãy về phòng nghỉ ngơi đi, việc đó rồi chúng ta sẽ thương nghị lại. Dù sao thì Phi Lạc Đà cũng chẳng có mặt tại đây, chúng ta muốn làm chi hắn cũng phải đợi đến lúc gặp hắn mới được chứ. Giả như muốn tìm hắn, ít nhất cũng phải biết hắn ở tại địa phương nào, chẳng lẽ chúng ta đi khắp bốn phương trời, tháng nầy qua năm kia, tìm một cánh chim lạc lõng trong vòm trời đất bao la? Huống chi, muốn làm chi, cũng phải đợi sau ngày ước hội của tại hạ với hắn, tại Đại Tán Quan. Một ngày nào đó, tại hạ sẽ làm một cái gì, cho Tiêu Cục trưởng Song Anh được hả dạ nơi suối vàng. Các hạ yên trí.
Tôn Thất tạ ơn, lui ra. Hắn không lưu lại khách sạn, hắn liền trong đêm đó, trở về Lạc Dương, lo mai táng hai vị Tiêu Cục trưởng.
Tôn Thất đi rồi, Lưu Tam Thái hỏi:
– Mình nên đến Âm Sơn hay không, Lệnh Chủ?
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại sao không đi? Chẳng có lý do gì chúng ta phải bỏ dở ý định đó?
Lưu Tam Thái chỉnh nghiêm gương mặt:
– Vừa rồi, tại hạ bắt được một cái tin. Theo tin đó thì Âm Tố Quân đã triệu tập một số đông hảo thủ trong bang, chuẩn bị hạ sơn như đoàn quân sắp sửa viễn chinh vậy. Song, ở đây, Âm Tố Quân chẳng phải xuất quân mở một chiến dịch nào cả, mà chính là để nghinh đón chúng ta.
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Tại sao lại có việc đó?
Lưu Tam Thái ấp úng:
– Tại hạ không rõ lắm, song có thể đoán là vì Trương cô nương mà họ đến.
Trương Thanh vội hỏi:
– Người họ muốn tìm, là Gia gia tôi, chứ tôi có can gì mà họ phải nghinh đón?
Lưu Tam Thái xoa hai tay vào nhau, tỏ vẻ lúng túng:
– Tại hạ cũng chẳng hiểu rõ lắm, cô nương. Bất quá, họ kéo toàn lực đến đây, và chừng như cái ý của họ không lành ...
Quan Sơn Nguyệt lại «hừ» một tiếng:
– Kỳ quái! Kỳ quái thật! Chẳng biết hiện giờ họ đi đến đâu rồi?
Lưu Tam Thái suy nghĩ một chút:
– Họ gồm toàn nữ nhân, tất họ đi kiệu, như vậy chắc họ đi không nhanh được. theo sự tính toán của tại hạ, thì độ chiều mai, họ sẽ đến đây ...
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Sự thật như vậy sao? Người trong phái Âm Sơn đều là nữ nhân cả sao?
Bình sanh, tại hạ chưa hề nghe nói đến họ. Năm xưa, ân sư có tra phỏng tất cả các phái trên giang hồ, song người chẳng đề cập đến họ ...
Lưu Tam Thái suy nghĩ một chút:
– Phái Âm Sơn chỉ thành lập được mười năm thôi. Phái đó được thành lập sau ngày Độc Cô tiền bối quy ẩn, đương nhiên Độc Cô tiền bối không hề biết.
Thực sự thì họ cũng chẳng đáng gì được gọi là một môn, một phái, bởi những đệ tử của Âm Tố Quân chỉ là những kẻ thân thích của bà ta, họ chuyên luyện «Vô Cực Kiếm Pháp», họ đóng cửa dạy nhau, chưa tiếp xúc với giang hồ, cho nên ít có người biết đến họ. Bởi tại hạ mở ngôi khách sạn, khách giang hồ qua lại, thường dừng chân, con gái của Âm Tố Quân là Âm Trưởng Hoa, nghĩ không nơi nào thuận tiện dò la tin tức hơn là tại ngôi khách sạn của tại hạ, do đó thỉnh thoảng nàng đến hỏi tại hạ chuyện nầy chuyện nọ. Nhờ thế, tại hạ mới biết được gần đây trên giang hồ, có một môn phái mới.
Quan Sơn Nguyệt trầm lặng giây lâu, đoạn thốt:
– Được rồi! Thế là đành đêm nay chúng ta bỏ ngủ. Chúng ta lập tức lên đường, đón đầu họ trước khi họ đến đây. Tại hạ muốn biết họ có ý tứ gì định đến tận nơi nầy, tìm Trương muội, lại kéo rốc chủ lực mà đến như thế!
Lưu Tam Thái lo lắng:
– Nhưng Lệnh Chủ cũng nên bình tĩnh, đừng vội giao thủ với họ. Nên đợi tại hạ giáp mặt Âm Trưởng Hoa rồi nghe nàng giãi bày như thế nào, sau đó mình sẽ quyết định nên hòa hay nên chiến. Bởi ...
Y dừng lại một chút, hơi do dự, sau cùng tiếp luôn:
– Xảy ra xung đột, Lệnh Chủ thì chẳng làm sao, chứ phần tại hạ dù gì cũng phải ngán họ, tại hạ chẳng muốn sanh thù chuốc oán đối với họ.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Thì cũng tại Lưu huynh đòi đi theo! Đi theo tại hạ là luôn luôn có nhiệt náo, là luôn luôn có phiền phức. Đi theo tại hạ thì còn hy vọng an phận thủ trường làm sao được? Phải biết cây muốn lặng, song gió không ngừng, mình tránh người, mà người tìm mình, thiết tưởng chẳng còn cách nào hơn là cứ thẳng đường mà tiến!
Quan Sơn Nguyệt nói:
– Tuy nhiên, Lưu huynh yên trí, tại hạ chẳng phải là con người thích gây sự.
Và việc dụng võ bao giờ cũng bất tường, nếu người ta hòa dịu với mình, thì tự nhiên mình phải giữ lễ độ đối với người ta, trừ khi nào họ dồn mình sát chân tường, thì đến lúc đó dù muốn dù không, mình cũng phải dành một thế đứng, bởi trên đời nầy, có ai không thích sống?
Chàng vừa nói xong câu đó, bỗng một tiếng rầm vang lên, chấn động cảnh tịch mịch đêm trường.
Cánh cửa phòng bật mở tung, một nữ nhân có thân vóc cao xuất hiện nơi khung cửa. Tay cầm trường kiếm, nữ nhân đó hoành ngang ngọn kiếm, mặt lộ sắc giận hầm hầm, trầm giọng hỏi:
– Gã nam nhân hôi thúi kia, ngươi vừa nói gì bọn ta? Có can đảm, hãy bước ra đây! Bổn cô nương sẽ cho ngươi một bài học!
Lưu Tam Thái giật mình, quay nhìn lại, thấy nữ nhân, vội kêu lên:
– Âm cô nương! Cô nương đến đúng lúc quá chừng! Bọn tại hạ đang nghĩ là ...
Nữ nhân quét mũi kiếm qua một vòng, quát chận:
– Lưu Tam Thái! Bây giờ, ta mới biết ngươi là một kẻ giảo hoạt phi thường!
Lần trước, ta hỏi ngươi về con bé họ Trương, ngươi bảo là ngươi chẳng hiểu chi hết. Bất ngờ hôm nay ta gặp ngươi, ngươi lại mang nó cùng theo, ngươi còn đưa đường bọn nó đến Âm Sơn! Thế ngươi muốn sanh sự với bọn ta phải không?
Cho ngươi biết, cái tin do ngươi thu nhặt vừa rồi đó, chính ta ra lịnh tiết lộ cho ngươi biết, sự thực thì ta đã đến đây từ lâu rồi!
Lưu Tam Thái chẳng biết phải mở miệng nói gì.
Trương Thanh vội bước tới, hỏi:
– Các vị định tìm tôi, để chỉ giáo điều chi?
Nữ nhân cười lạnh:
– Ngươi đừng vờ ngây thơ nữa, cô bé! Việc gì Gia gia ngươi đã làm, chẳng lẽ ngươi không biết? Gia gia ngươi là kẻ bại hoại nhất đời, hành động đê hèn, trên giang hồ không còn ai không biết? Ngươi khéo vờ vĩnh thì thôi!
Trương Thanh tái mặt. Bỗng dưng, nữ nhân từ đâu đến, vừa gặp nàng là mắng nặng gia gia nàng. Giận quá, nàng không nói năng gì được, nhún chân lao vút mình tới, đưa tay ra, ngón tay chọt thẳng vào vai nữ nhân, định điểm vào huyệt Kiên tỉnh của nữ nhân.
Nữ nhân, chính là Âm Trưởng Hoa, khẽ nghiêng vai, né tránh, đồng thời hoành kiếm lấy thế, đâm thẳng tới ngực Trương Thanh.
Ngày nay, Trương Thanh đã tiến bộ phi thường, nhờ cha trau dồi một căn bản vững chắc, nàng lại được Tuyết Lão Thái Thái hết lòng chỉ dạy suốt một năm dài, tài nghệ của nàng siêu việt lắm rồi. Đánh hụt chiêu đầu, trước thế kiếm thần tốc của đối phương, nàng không nao núng, xoay bàn tay, ngoặc xuống một chút, cong một ngón búng mạnh vào thân kiếm.
Trường kiếm bị ngón tay nàng chạm phải, dội ngược trở lại.
Đánh bạt thanh kiếm ra ngoài rồi, Trương Thanh nhít bàn tay lên tiếp tục điểm huyệt.
Âm Trưởng Hoa không phản công kịp, cấp tốc lùi lại một bước, đoạn hét:
– Con tiện tỳ có giỏi, cứ bước theo ta ra ngoài kia mà so tài!
Thốt xong, nàng vọt đi liền.
Trương Thanh không chậm trễ, phi thân đuổi theo.
Quan Sơn Nguyệt, Bành Cúc Nhân cấp tốc theo ra. Lưu Tam Thái cũng nôn nóng, muốn biết sự tình sẽ kết thúc như thế nào, cũng theo ra luôn.
Bất quá, y cố ý chậm lại một chút, như tỏ vẻ theo ra để chứng kiến một cuộc so tài, chứ chẳng phải đứng về cánh của Quan Sơn Nguyệt để chống đối lại bọn Âm Trưởng Hoa.
Khi ra đến nơi, nơi đó là một sân rộng, y trông thấy bọn y phục đen, bao vây bên ngoài. Bọn áo đen gồm toàn nữ nhân, nàng nào cũng thủ trường kiếm.
Ngoài xa xa, còn có bốn nữ nhân khác, cũng y phục đen, niên kỷ cao hơn bọn kia. Cả bốn cũng thủ trường kiếm, hờn sẵn, nếu đồng bọn trong nhà thất cơ, họ sẽ vào cuộc, tiếp trợ liền.