Sự hô hấp có tính quy luật trong khi vận động là một đặc điểm chủ yếu của TCQ . Ðể làm sáng tỏ ý nghĩa này , trước hết cần nói rõ (a) Cái ảnh hưởng của sự hô hấp đối với sức khõe , và (b) Sự quan trọng của hô hấp trong vận động TCQ .
(a) Hô hấp là hai phương diện hít thu dưỡng khí và thở ra thán khí của cơ thễ . Dưỡng khí được hít vào càng nhiều , ích lợi cho cơ thể càng tăng . Do đó , trong khi vận động , sự gia tăng dung lượng khí trao đổi do sự hô hấp chính là một vấn đề then chốt . trong lúc chúng ta ở trạng thái tương đối an tĩnh , thì mỗi phút số lần hô hấp ước chừng 16 đến 18 lần . Nhờ hô hấp mà dung lượng khí trao đổi ước chừng 350 Cm3 . Dung lượng trao đổi này trong trạng thái an tĩnh tương đối không phải luôn luôn đũ dùng . Bởi vì trong lúc chúng ta lao động thể xác hoặc vận động thân thể , không phải chúng ta chỉ cần hấp thụ nhiều dưỡng khí , mà cả đến sự Oxy-hóa và sự phân giãi của oxygen cũng tăng gia rất nhiều , dung lượng khí trao đổi trong cả hai buồng phổi có thể tăng lên đến 1200 Cm3 . Do đó , sự vận động thể dục và sự lao động thân xác trong tương quan với việc nâng cao lượng trao đổi khí của phổi , nghĩa là làm thể chất mạnh khõe , có một tác dụng cực kỳ trọng yếu .
(b) Sự luyện tập TCQ đòi hỏi phải kết hợp sự hô hấp với động tác . Sự đòi hỏi này thật là thỏa đáng . Vì sao ? Bởi vì TCQ nắm được cái chìa khóa quan trọng mở được cánh cửa đi vào sức mạnh của thể chất . Nội dung của chìa khóa ấy ít nhất gồm có ba ý nghĩa sau :
1. Rèn luyện cơ hô hấp , gia tăng hoạt lượng của phổi (phế hoạt lượng) :
Cơ hô hấp bao gồm luôn các bắp thịt của các bộ phận mạng ngực (hoành cách mô) và cơ giữa hai sườn . Mạngngực co rút lại khiến cho xoang ngực nở lớn ra , cơ ở giữa hai sườn (tầng ngoài) co rút lại làm cho xoang ngực nở to ra . Như vậy , xoang ngực nở lớn làm cho phổi nở nang , dung lượng khi trao đổi tự nhiên tăng gia . Phế hoạt lượng là cái gì ? Khi ta hít vào một hơi một cách đầy đủ , rồi lại thở hết hơi ấy ra , thì cái dung lượng khí mà phổi đã dung nạp ấy gọi là phế hoạt lượng . Phế hoạt lương có thể tăng gia nhờ sự luyện tập . Về mặt biểu khán , động tác TCQ trông thì chậm chạp , nhưng lượng vận động lại không ít , do đó cũng làm tăng gia lượng khí trao đổi khi hô hấp .Nhưng điều đáng nói là cái ưu điểm nổi bật hẳn của TCQ , là ở chổ thay đổi một cách có ý thức số lần hô hấp và mở rộng phế hoạt lương , làm cho sự hô hấp và động tác phối hợp lại . Hơn nữa , phải hô hấp cho đúng phép " sâu , dài , đều , im " (Thâm , trường , quân , tĩnh) . Cứ luyện tập bền bĩ như vậy , thì tự nhiên phát triển được cơ hô hấp , tăng gia được phế hoạt lượng . Sự phát triển và tăng gia này có một tác dụng rất tốt đẹp đối với sự cải tiến cơ năng và tình trạng lành mạnh của khí quan hô hấp .
2. Ðạt đến mục đích "Hấp khí dưỡng thần" :
" Thần " chính là hệ thống thần kinh , đúng hơn nữa là bộ phận cao cấp của hệ thần kinh tức là não . Khi vận động , do sự tăng cường tác dụng tân trần đại tạ , mà nhu cầu về dưỡng khí tương đối nhiều . Luyện tập TCQ đòi hỏi nâng cao dung lượng khí trao đổi của phổi một cách có ý thức . Trên thực tế , lượng dưỡng khí thu vào này lớn hơn mức đòi hỏi cần thiết của thân thể , do đó các bộ phận trong thân thể , và nhất là não , hấp thụ dưỡng khí một cách sung túc , làm cho thần khí thanh sãng (tinh thần , ý chí trong lành và khoan khoái) . Như vậy , chính là đạt đến mục đích "Hấp khí dưỡng thần" .
Mặt khác khi luyện tập TCQ còn phải thực hiện được yêu cầu "Ðộng trung cầu tĩnh" , "Tĩnh" là làm cho các bộ phận của thân thể , nhất là não bộ , trở nên êm đềm , yên ấm , làm cho tốc độ chuyển hóa không quá nhanh , lượng tiêu hao cũng có thể giảm thiểu . Ðồng thời , do ảnh hưởng của phương thức hô hấp đặc thù trong sự vận động TCQ , tốc độ tuần hoàn của máu tăng nhanh , làm cho các bộ phận của thân thể , nhất là não , hấp thụ dưỡng liệu và oxygen nhiều hơn , và mặt khác chất dinh dưỡng và oxygen trong cơ thể bị tiêu hao ít hơn , điều này rõ rệt là cải tiến trạng huống của thể chất . Ðồng thời trong lúc vận động , đại bộ phận của lớp võ ngoài của đại não (đại não bì tằng) bị đặt trong trạng thái ức chế , do đó đại não có cơ hội nghĩ ngơi rất bổ ích , đây là bước đưa đến "Dưỡng thần" . Cái kết quả dưỡng thần đạt được từ phương thức này , so với phương cách nghĩ ngơi thông thường khác , là cao hơn nhiều , bởi vì kết quả ấy là kết quả thu lượm do ở sự phát triển cái tác dụng tích cực của sự vận động . Phàm những bệnh tật nào liên quan đến hệ thần kinh , sẽ chuyễn biến tốt đẹp một cách từ từ , như các bệnh suy nhược thần kinh , mất ngũ , di tinh , huyết áp cao , ...., sẽ dần dần biến mất nhờ luyện tập TCQ .
3. Tiêu trừ sự ứ huyết trong cơ thể , xúc tiến (làm nhanh hơn) sự tuần hoàn của máu :
"Thực hiện sự hô hấpvà sự vận động một cách tương ứng cũng có thể gia tăng sự hồi lưu của tĩnh mạch , thí dụ như lúc hít vào , dung tích của lồng ngực lớn ra ,áp suất nội bộ tăng cao , kết quả là áp lực trên tĩnh mạch ở soang trên dưới giảm bớt , sự hồi lưu của tĩnh mạch nhanh hơn . Trong quá trình luyện tập TCQ , điểm này biểu hiện rất là rõ rệt . Khi tập TCQ , toàn thân buông lõng không căng thẳng , hơn nữa lại kết hợp một cách có ý thức hô hấp với vận động , như thế mới có thể làm cho hô hấp thuận với tự nhiên . Hiệu quả của sự hô hấp sẽ tăng gia , nói khác đi , chính là sự tuần hoàn của máu và chất bạch huyết tăng nhanh hơn một cách tốt đẹp ."
"Ngoài ra trong TCQ , sự hô hấp đòi hỏi phải sâu , phải "Khí trầm đan điền" nữa , đây chính là một loại hô hấp bằng hoành cách mô . Phương thức hô hấp này , trên bình diện y liệu và dưỡng sinh , có tác dụng rất hữu ích . Sự co rút và dãn nở của các cơ hoành cách và các cơ bụng làm cho áp lực trên bụng không ngừng thay đổi . Lúc phúc-áp tăng cao , tĩnh mạch trong xoang bụng chịu tác dụng của áp lực sẽ đem máu về tâm-phòng (tâm thất) phải , ngược lại lúc phúc áp giảm thiểu , máu lại đi về xoang bụng . Như vậy là cải thiện trạng huống tuần hoàn của máu . Thêm vào đó , sự vận động của hoành cách mô làm cho gan được xoa bóp , làm tiêu trừ sự ứ huyết ở gan và cải thiện công năng của gan " . (Trích từ bài Cơ sở sinh lý học của TCQ của Khúc Miên Thành ) .
Cho nên , sự kết hợp hô hấp với sự vận động của TCQ có một ý nghĩa dưỡng sinh rất rõ rệt và chắc chắn .