Người Pháp tin đã thấy bằng chứng chắc chắn về thái độ thù địch này vào giữa tháng 10. Khi Galllagher và Lư Hán chuẩn bị chuyên chở một số lính Tầu từ Việt Nam tới Đài Loan và Mãn Châu, họ phát hiện ra rằng thuỷ lôi "do Không quân Mỹ rải tại hải cảng" trong chiến tranh vẫn chưa được dọn sạch. "Vì việc phá mìn sẽ mớ toang hải cảng cho các tàu của hải quân Pháp và vì vậy có thể dẫn tới cuộc chiến tranh giữa người Pháp và người Việt Nam nên cả tướng Galllagher lẫn tướng Lư Hán đều không muốn hải cảng được dọn dẹp sạch". Mặc dù quyết định này đáp ứng tốt nhất cho hoà bình tại miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn chiếm đóng, nhưng nó thường được hiểu như một hành động chống Pháp. Một tình tiết khác liên quan đến Galllagher bề ngoài chẳng có gì liên quan tới người Pháp nhưng lại kích động sự giận dữ của người Pháp nhiều hơn bất cứ hành động nào của ông ta cho đến lúc này. Vụ việc xảy ra khi tướng Galllagher "để mình bị thuyết phục lên hát tại một cuộc họp khai mạc" của Hội Hữu nghị Việt - Mỹ (VAFA). Joseph Buttinger nhận xét: "Việc này hầu như không phải là một hành động chống chủ nghĩa thực dân nghiêm trọng, nhưng trong mắt người Pháp, đó là một sự phản bội bởi một nước Đồng Minh mà sự ủng hộ từ nơi đó được xem là cốt tử cho thành công trong sự nghiệp của họ".
VAFA là một liên doanh giữa các thành viên của Việt Minh và các thành viên được lựa chọn của OSS. Sĩ quan chiến tranh tâm lý Robert Knapp đem ý tưởng này đến cho Carleton Swift người thay vị trí chỉ huy phái đoàn OSS tại Hà Nội của Patti. Bản phác hoạ đầu tiên "có nhiều điều khoản" về thương mại, chính trị, và kinh tế khiến Swift lo lắng vì rõ ràng ông ta đã được nhắc nhở "không được dính líu vào chính trị". "Vì vậy, Swift nhớ lại:
Tôi cầm lấy bút chì và gạch bỏ bất cứ mục nào liên quan tới chính trị. Và tôi gạch bỏ bất cứ cái gì liên quan tới thương mại. Tôi nói, "Knapp, còn lại gì nữa không?"- "Vâng, chúng ta có thể nghiên cứu ngôn ngữ và văn học của nhau", anh ta trả lời. Và dường như đối với tôi, tôi đã diễn đạt tốt quan điểm mà một người Mỹ không thể nói không. Vì vậy tôi chập thuận theo chức trách của mình.
VAFA phác thảo điều lệ định rõ những mục tiêu của Hội nhằm:
1. "mang lại hiểu biết tốt hơn giữa người Mỹ và người Việt Nam nhằm thúc đẩy những mối thiện cảm";
2. dịch và truyền bá những ấn phẩm từ tiếng Anh sang tiếng Việt và ngược lại để "hiểu rõ hơn các lĩnh vực văn hoá của hai nước";
3. tổ chức những giờ học thường xuyên cả hai ngôn ngữ;
4. tổ chức các lớp học tiếng Việt và tiếng Anh
5. xuất bản một tờ nguyệt san - Tạp chí Hội Hữu nghị Việt - Mỹ (Tạp chí VAFA).
Tại lễ khai mạc, tướng Galllagher "đã cảm ơn người Việt Nam vì sự đón tiếp và lấy làm tiếc rằng nhiệm vụ của ông ta và các thuộc cấp của ông ta đã ngăn cản họ tận hưởng nhiều hơn thời gian lưu lại Hà Nội". Ông ta kết luận bằng việc tán thành đề xuất trước đó là hai nước trao đổi sinh viên để tăng cường hơn nữa hiểu biết về văn hoá. Tạp chí VAFA tường thuật: "Một tràng vỗ tay hoan hô những lời nói cuối cùng của tướng Galllagher. Ông ta trở lại chỗ ngồi với một chiến thắng nữa cho bản thành tích cá nhân: ông ta đã giành được cảm tình của 200 trái tim người Việt Nam, trong số đó có không ít những quý bà hấp dẫn nhất tại Hà Nội".
Trong sự việc này người Pháp chỉ nhìn thấy sự ủng hộ hiển nhiên của Mỹ đối với người Việt và họ thấy đúng là bị xúc phạm. Nhiều người Việt trong số khán giả cũng tin rằng sự hiện diện của người Mỹ còn hơn một cử chỉ lịch sự. Một người Việt có mặt hồi tưởng lại buổi tối hôm đó:
Tôi nhớ rõ những lá cờ đỏ, trắng và xanh treo trong hội trường, nơi diễn ra cuộc họp của Hội Hữu nghị khi mà tôi tham gia. Cuộc họp tràn ngập niềm hy vọng được tạo ra đơn giản bởi sự xuất hiện của hai sĩ quan Mỹ dáng vẻ lịch sự và đẹp trai trong bộ quân phục khiến mọi người, kể cả tôi, đều đổ xô lại để bắt tay. Suốt từ đầu đến cuối cuộc họp, những đàm luận xoay quanh ý tưởng vè sự uỷ trị của Mỹ đối với Việt Nam. Mặc dù cả Patti lẫn Gallagher đều không nói nhiều về bản chất của uỷ trị nhưng điều đó chằng có ý nghĩa gì. Chỉ sự hiện diện của họ cũng đủ là niềm khích lẹ rồi.
Trong chuyến trở lại Mỹ, Galllagher tóm tắt tình hình cho các quan chức tại Washington và biểu lộ sự cảm thông đối với Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo khác của Việt Minh. Theo nhà sử học William Duiker: "Galllagher bị ấn tượng bởi sự nhiệt tình, sự hiến dâng cũng như tài năng bẩm sinh của họ. Nhưng ông ta cũng hoài nghi khả năng của Chính phủ mới về việc thực hiện trách nhiệm của mình trong những điều kiện không ổn định ở giai đoạn ngay sau chiến tranh".
Tại Hà Nội, Carleton Swift tiếp tục báo cáo về các cuộc hội họp của VAFA, nêu rõ sự gia tăng tự phát của các cuộc họp từng có lần đạt đến con số "gần 6000 người tham dự". Swift đã ký vào bản nội quy của VAFA "như một biểu hiện tình cảm tốt đẹp và tin chắc rằng vì "toàn bộ hiệu lực đã bị lẩy ra khỏi bản dự thảo đầu tiên, không ký một văn kiện vô hại như vậy thì đâu còn là người Mỹ". Nhưng hành động của Swift bị hiểu sai là về bản chất "liên quan đến chính trị", và chẳng mấy chốc Swift bị nhiều người trong cộng đồng Pháp vốn xem ông ta không tử tế hơn Patti bao nhiêu nguyền rủa. Swift ở Hà Nội được một tháng trước khi "bị tống cổ" vì người Pháp buộc tội ông ta đã "khuyến khích cách mạng và giết người Pháp".
Henry Prunier, thành viên duy nhất của Đội Nai vẫn còn ở lại Hà Nội và không tham gia vào hội này chủ yếu bởi vì những thành viên, cả người Việt lẫn người Mỹ, không phải là những người quen mà anh ta đã biết và làm việc cùng tại Việt Bắc. Mặc dù bị rút khỏi Việt Nam ngay từ đầu nhưng Prunier được quay lại Hà Nội để điều tra tội phạm chiến tranh Nhật, nhưng không có chỉ thị đặc biệt nên anh ta dành phần lớn thời gian dạo quanh thành phố, trò chuyện với cả người Việt và người Pháp. Anh ta nhớ Hà Nội không chỉ như "lễ hội" mà còn "rất lộn xộn" vào thời điểm đó. Prunier cho rằng Hà Nội là một thành phố ở khoảng giữa những thay đổi nhanh chóng: "Người Nhật vẫn có mặt khắp nơi, người Tầu đã đến, nạn đói vẫn hoành hành và có rất nhiều thanh niên trên đường phố".
Tuy vậy, kinh nghiệm của Prunier tại Hà Nội lại khác với phần lớn người Mỹ ở thành phố này. Mặc dù người Việt Nam đặc biệt thân thiện đối với Prunier bởi vì anh ta "đã ở cùng với Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp tại Tân Trào" nhưng Prunier, không giống như đa số các thành viên khác của OSS cũng kết bạn với cộng đồng người Pháp. Đặc biệt anh ta nhớ đến một gia đình người Pháp gồm bà mẹ và hai cô con gái sống cách sở chỉ huy OSS không xa. Lúc đó còn là một chàng trai trẻ nên Prunier thích dành thời gian rảnh rỗi của mình tán gẫu cùng hai cô gái người Pháp. Cha họ đã mất tích kể từ ngày Nhật đảo chính, và mặc dù có một bức tường cao bao quanh, họ vẫn thấy sợ hãi và hiếm khi rời khỏi nhà. Cả bà mẹ và hai cô con gái đều vui mừng với sự có mặt của chàng thanh niên Mỹ, người không chỉ bày ra những trò giải trí thú vị mà còn mang lại cho họ một mức độ "bảo vệ" lớn hơn, và sau đó là quyền tự do đi lại quanh Hà Nội. Những phụ nữ này có quan điểm điển hình của người Pháp về tình hình; họ giải thích cho Prunier rằng Việt Minh "không quá đông" và lạc quan đoán trước sự quay lại nhanh chóng của Pháp. Prunier là một trong số ít người có thái độ thông cảm rõ ràng đối với cả người Pháp lẫn lòng khát khao độc lập của người Việt. Bởi vì Prunier là người Mỹ nên cả hai bên đều quan tâm tới các phản ứng và ảnh hưởng của anh ta, nhưng vì chỉ là một binh nhì nên anh ta thoát khỏi sự săm soi dữ dội như đối với tướng Galllagher và các sĩ quan OSS như Dewey và Patti.
Khi những thành viên OSS trở về nhà, rời bỏ nhiệm vụ, và lại tiếp tục vai trò thời bình của họ thì tổ chức mà nhiều người đã cảm thấy gắn bó này đang chấm dứt tồn tại. Donovan đã chuẩn bị cho tình huống có thể xảy ra này, và ngay trước khi chiến tranh kết thúc, ông đã bày tỏ quan điểm của mình về vai trò của OSS: "Công việc thực sự của OSS với tư cách là một cơ quan tình báo", ông tin tưởng vững chắc, là "cung cấp tin tình báo chiến lược, rút gọn lại thành một công thức cơ bản: Thông tin tình báo làm sáng tỏ khả năng và ý định của các quốc gia, đặc biệt là những kẻ thù hiện nay và sau này của chúng ta". Thông tin tình báo chiến lược này sẽ, theo quan điểm của ông, "được dùng làm cơ sở cho các quyết sách của quốc gia". Ngày 1 tháng 10 năm 1945, OSS - cơ quan tình báo thời chiến tạm thời - bị bãi bỏ trước dự tính của Donovan một thời gian dài.
Donovan hy vọng tiền lệ được OSS tạo ra cho các hoạt động tình báo sẽ vẫn tiếp tục. Theo ý kiến cẩn trọng của Donovan, "việc chấm dứt thù địch không loại trừ nhu cầu thông tin tình báo; hoà bình chỉ thay đổi các nhu cầu tình báo mà thôi". Donovan tin chắc rằng các đặc vụ OSS của ông nhìn chung đã hoạt động tốt và góp phần quan trọng vào chiến thắng của Đồng Minh. "Chúng tôi không tin cậy vào "những cô gái tóc vàng quyến rũ" hay "những bộ ria mép giả", ông khoác lác. "Phần chính trong hoạt động tình báo của chúng tôi là kết quả của những việc làm trí tuệ có phần lạc hậu". Vì thế ông đề xuất thành lập một cơ quan thu thập tin tình báo thường trực thời bình dựa trên những đặc điểm tốt nhất của OSS. Sau khi chiến tranh kết thúc ở châu Âu, Donovan còn bị thuyết phục hơn bao giờ hết về nhu cầu này, vì ông, cũng như Truman, quan niệm Liên Xô là một mối de doạ hữu hình và đang phát triển. Mùa hè năm 1945, thậm chí Donovan còn đi quá xa để "ủng hộ việc duy trì các đế quốc châu Âu tại châu Á nhằm ngăn chặn Liên Xô giành ảnh hưởng" - một quan điểm rõ ràng sẽ chia rẽ Donovan với người của ông tại Việt Nam nếu họ biết điều đó.
Mặc dù giấc mộng của Donovan về một cơ quan tình báo thời bình rốt cục cũng trở thành hiện thực với việc thành lập Cơ quan Tình Báo Quốc Gia (CIA), nhưng không phải vào năm 1945 và cũng không phải dưới quyền điều hành của Donovan. "Bill liều" Donovan trở lại cuộc sống dân thường, và sau ngày 1 tháng 10 "các thành viên OSS" vẫn ở chiến trường được xếp vào Đơn vị Tình báo Chiến lược (SSU) trực thuộc Bộ Chiến tranh. Ở đó họ sẽ hoàn thành nốt nhiệm vụ và chờ đợi rút quân.
OSS là mục tiêu chỉ trích kể từ khi cơ quan tiền nhiệm của nó, COI, ra đời. Chỉ trích vẫn tiếp tục khi chiến tranh kết thúc, và cuộc tranh cãi về những đóng góp của tổ chức này vào nỗ lực chiến tranh nói chung vẫn tiếp tục cho tới hiện nay. Vài nhà phê bình buộc tội OSS là cực tả và đặc biệt đã viện dẫn cách xử sự của tổ chức này đối với những người cộng sản nổi tiếng; ngược lại, những người khác lại buộc tội OSS theo chủ nghĩa bảo thủ chính trị cánh hữu rút cục đã cản trở khả năng của cơ quan này trên chiến trường. Dĩ nhiên, sự thực nằm ở đâu đó giữa hai ý kiến. Có lẽ sự ca ngợi công bằng nhất đến từ khoảng giữa này: "Mặc dù có một vài thiếu sót OSS là hiện thân của một ý thức hệ tự do của Mỹ, tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa lạc quan và nghĩa hiệp…". Chắc chắn nhiều nhân viên nam nữ của OSS đã làm việc một cách mẫn cán trong suốt chiến tranh sẽ đồng ý với đánh giá cuối cùng này - đặc biệt là những người đã phục vụ tại Đông Nam Á và tin rằng nỗi khiếp đảm của họ trước những việc làm quá đáng của chủ nghĩa thực dân đã bào chữa cho sự ủng hộ không dứt khoát của họ đối với các phong trào đòi độc lập mới nảy sinh.
Đặc biệt, vai trò của OSS tại Việt Nam đã trở thành một vấn đề gây tranh cãi kể từ năm 1945. Arthur Dommen chỉ trích công tác của OSS tại Đông Dương là "một trong những thất bại tình báo nổi bật nhất trong Chiến tranh thế giới 2", bằng chứng là sự bất lực của Donovan trong việc đáp ứng yêu cầu của ngoại trưởng Joseph Grew về tin tình báo tại Đông Dương giữa năm 1945. Mặc dù điều này rõ ràng chỉ ra vấn đề trong thu thập thông tin ở mức độ cao nhất - như chúng ta đã thấy, GBT đã cung cấp thông tin cho OSS một thời gian dài, và Donovan hẳn đã có thể cuỗm được những tin tình báo đó - sự tố cáo đầy đủ như vậy cần được giải thích rõ ràng hơn. Có ba yếu tố phải được xem xét trước khi đánh giá hoạt động của OSS tại Đông Dương. Thứ nhất, với cuộc đảo chính của Nhật vào tháng 3, có một thời gian tạm lắng không thể tránh được trong việc thu thập thông tin từ thuộc địa. Thứ hai, Đông Dương chưa bao giờ là một khu vực được quan tâm hàng đầu về quân sự hoặc chính quyền, và sự chú ý về tài nguyên được nhằm tới trước tiên. Trước hết là ở những khu vực được cho là quan trọng nhất đối với nỗ lực chiến tranh; vì thế, đương nhiên sẽ có ít thông tin tại Đông Dương có giá trị ở mức độ thực sự cao nhất. Và cuối cùng, Grew yêu cầu thông tin tình báo trước khi Thomas nhảy dù xuống Bắc Kỳ. Nếu yêu cầu đó được đưa ra sau khi Thomas đến Bắc Kỳ thì đã có nguồn cung cấp thông tin lớn hơn.
Nhiều nhà phê bình khác lại tập trung vào vai trò của Mỹ trong cuộc Cách Mạng Tháng Tám. Một vài tác giả đã khẳng định những hoạt động của OSS, đặc biệt là hoạt động của Đội Nai và Archimedes Patti, là công cụ đem lại quyền lực cho Việt Minh. Những người khác, đặc biệt trong số các nhà văn người Việt, đã phủ nhận vai trò tích cực của người Mỹ trong cuộc cách mạng năm 1945 hoặc đánh giá họ chỉ như những quân tốt của Hồ Chí Minh. Vào lễ kỷ niệm đầu tiên của Cách Mạng Tháng Tám, các ý kiến về vai trò của Mỹ trong chiến thắng Nhật đã biến mất; thay vào đó, Liên Xô được công nhận là "đã giải phóng dân tộc thoát khỏi ách áp bức của Nhật". Về cuộc Cách mạng Tháng Tám, Trường Chinh đã viết:
"Chính phủ Lâm thời đánh lừa không chỉ lực lượng Quốc Dân Đảng Trung Quốc đã đến miền Bắc Việt Nam vào tháng 9 năm 1945, mà còn cả nhiều phái đoàn Mỹ hoạt động trong vùng vốn được hướng dẫn để tin rằng chế độ của Hồ Chí Minh chỉ toàn những người theo chủ nghĩa dân tộc và các nhà cải cách ruộng đất lạc hậu". Peter Dunn nói thêm: "Không hề cường điệu khi nói rằng ông (Hồ Chí Minh) đã làm cho các sĩ quan Mỹ nhảy múa theo đúng diệu của ông với sự thanh thản lúng túng; ông đơn giản chỉ cần lên giọng "chống chủ nghĩa thực dân". Ở một mức độ nào đó, đĩ nhiên, điều này là đúng.
"Chúng tôi rất nhạy cảm với những tình cảm về nhân phẩm mà họ đang đấu tranh để đạt được, và các vấn đề giữa người Việt Nam và chủ nghĩa thực dân Pháp", Swift nhớ lại. Vào những năm 80 vai trò của người Mỹ năm 1945 đã được nhìn nhận trong những giới hạn thậm chí còn tiêu cực hơn. Về mối quan hệ trước kia của OSS với Hồ Chí Minh, Ngọc An viết:
Đây là một cơ hội đối với người Mỹ để thực hiện âm mưu của họ đối với Đông Dương. Xuất phát từ chính sách thực dân mới khi Đông Dương bị Nhật xâm lưọc, đế quốc Mỹ không hề giúp đỡ Pháp trong cuộc đấu tranh chống Nhật, thay vào đó họ trù tính sau chiến thắng của Đồng Minh biến Đông Dương thành một khu vực vệ tinh chịu ảnh hưởng của Mỹ. Họ (Việt Minh) là một tổ chức dân tộc có thể sử dụng để thực hiện Chiến lược biến đất nước ta thành thực địa kiểu mới… Khi đến Việt Nam, mục đích của họ là giải cứu binh lính Đồng Minh. Họ cũng nghiên cứu và đánh giá tình hình lẫn sức mạnh của cách mạng Việt Nam cho kế hoạch xâm lược lâu dài của Mỹ.
Tuy nhiên, không có lý lẽ nào trong số này là hoàn toàn chính xác. Có lẽ chỉ huy Đội Nai Allison Thomas và nhà sử học Việt Nam Dương Trung Quốc đã tổng kết vai trò của Mỹ một cách đúng đắn nhất. Thomas nghĩ:
Nhiều người cũng nói rằng vì có sự ủng hộ của chúng tôi, Hồ Chí lính mới giành được quyền lực. Tôi không tin điều đó. Tôi chắc là ông cố gắng sử dụng thực tế là người Mỹ cho ông một số trang thiết bị. Ông đã tác động để nhiều người Việt Nam tin tưởng rằng chúng tôi là bạn Đồng Minh. Không có rất nhiều lý do giải thích việc ông giành được quyền lực, và đó không phải vì chúng tôi tranh bị vũ khí cho trên dưới một trăm người.
Chắc chắn giải thích của Thomas có thể được coi như lời tự bào chữa, nhưng tựu chung bằng chứng đã chứng minh điều đó: người Mỹ không mang lại cho Hồ Chí Minh quyền lực. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng cái dường như giống sự ủng hộ rõ ràng của OSS đối với Việt Minh đã đóng một vai trò quan trọng dù chỉ là tượng trưng trong việc giúp Việt Minh nắm bắt cơ hội mở ra trước mắt với sự đầu hàng đột ngột của Nhật. "Sự hiện diện của các thành viên OSS sau khi Nhật đầu hàng đã được Hồ Chủ tịch tận dụng triệt để", Dương Trung Quốc thừa nhận. Nhưng, ông tiếp tục:
Tôi không nghĩ về sự tận dụng liên quan tới sức mạnh quân sự, mà trước hết liên quan đến động cơ ngoại giao, quan hệ với quần chúng. Để có được địa vị hợp pháp nào đó từ Chính phủ trong nước liên quan đến các tổ chức chính trị, xã hội khác nhau tại Việt Nam cũng như trên trường quốc tế, và mặc dù vài thành viên của OSS dường như đại diện cho sự ủng hộ chính thức của Mỹ dành cho một nước Việt Nam độc lập, nhưng đó không phải là mục đích của họ. Trên thực tế, những người đã tỏ ra đồng cảm và thân thiện nhất với Hồ Chí Minh và Việt Minh - Fenn, Tan, Phelan, Thomas, Prunier, Hoagland và Wickes - hầu như không bị các nhà phê bình cay nghiệt nhất vào thời điểm đó là người Pháp để ý đến. Ngoài ra, cần phải nhớ rằng thậm chí Patti và Dewey, mặc dù rõ ràng có mặt riêng rẽ tại Hà Nội và Sài Gòn, nhưng lại khác xa những người ra quyết định then chốt đến mức cả hai đều thiếu thông tin về chính sách đang được triển khai của Mỹ, và họ không có ảnh hưởng tại các cấp đó cho dù họ đã nhúng tay vào các cuộc tranh luận xung quanh. Những người có mặt tại Việt Nam không phải là các nhà ngoại giao đại diện cho chính sách đối ngoại Mỹ; họ tiêu biểu cho cái gì đó hoàn toàn khác.
Động cơ của những thanh niên này - phần lớn là dưới ba mươi tuổi - có khuynh hướng trung thực hơn. Họ không khảo sát Việt Nam để tìm kiếm những dự án kinh đoành trong tương lai, cũng không thử hoạch định chính sách của Mỹ. Họ được OSS đào tạo để theo đuổi hành động hiệu quả và tuân theo mệnh lệnh của cấp trên là thu thập thông tin tình báo, giải cứu cho các phi công Mỹ và các tù binh chiến tranh, điều tra tội phạm chiến tranh Nhật và hỗ trợ cho các lực lượng chiếm đóng tước vũ khí và giải quyết hồi hương cho quân nhân Nhật. Khi làm việc đó, một vài người đã cộng tác với Việt Minh tại chiến trường, huấn luyện họ chiến đấu chống kẻ thù chung; những người khác trong khi theo đuổi nhiệm vụ quân sự, đã tiếp xúc với Việt Minh - lực lượng nắm chính quyền tại Hà Nội - và với những người đang cố gắng giành được quyền kiểm soát tại Sài Gòn. Khi lắng nghe và đôi khi giúp đỡ các thành viên của Việt Minh, những quân nhân này có vẻ đại diện cho sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp của Việt Nam.
Và nhiều người trong số họ đồng cảm với khát vọng độc lập của người Việt Nam, mặc dù chắc chắn họ không bao giờ thừa nhận là đại diện cho những quan điểm chính thức của Chính phủ Mỹ. Với kết thúc thắng lợi của Chiến tranh thế giới 2 và triển vọng trở về quê hương, về với gia đình và cả sự an toàn lẫn nỗi buồn chán của cuộc sống hàng ngày, một vài người nắm lấy cơ hội để được dành hết tâm trí vào các vấn đề có liên quan đến công việc của họ và cũng khiến họ quan tâm - sổ phận của những người bạn mới và ảo tưởng của chính họ như người giải phóng và bảo vệ tự do. Trong bối cảnh Chiến tranh thế giới 2 điều này có ý nghĩa thật hoàn hảo; chỉ trong giai đoạn tứ 1965 tới 1975, vai trò trước đây của Mỹ tại Việt Nam mới tràn ngập những mục đích được che đậy Các thành viên của OSS đã dành đáng kể thời gian chiến đấu nhằm kết liễu chủ nghĩa phát xít và chế độ độc tài và mang lại tự do cho các dân tộc bị áp bức ở cả châu Âu lẫn châu Á. OSS đã sát cánh với các nhóm cộng sản ở cả châu Âu và châu Á và vào thời điểm đó không cố phân tích những quan điểm chính trị mà chỉ đánh giá khả năng hành động hiệu quả chống lại kẻ thù của họ. "Tôi được biết rằng ông (Hồ Chí Minh) đã đến Moskva với tư cách là một người cộng sản, nhưng như thế thì sao chứ?", Grelecki tranh luận, "Liên Xô và chúng tôi là bạn Đồng Minh". Vũ Đình Huỳnh cũng khẳng định sự sáng suốt của những thanh niên Mỹ mà Việt Minh có quan hệ: "Tôi có ấn tượng là vào thời điểm đó, người Mỹ không quan tâm chúng tôi có phải là cộng sản hay không. Điều duy nhất họ quan tâm là đánh Nhật". Và đương nhiên nhiều người trong số họ trên chiến trường đã động lòng trắc ẩn đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành tự do từ ách áp bức của cả Nhật và Pháp mà một số đã trực tiếp chứng kiến, đặc biệt là khi những người Việt đã được nói đến thường trực tiếp thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn trọng triệt để những giá trì được đại diện bởi những thanh niên Mỹ. Quan sát mối tương tác giữa người châu Á và người Mỹ, Harold Isaac viết:
Vài ngươi tin rằng nước Mỹ, giá như không vì tính tư lợi, đã ủng hộ Tuyên bố Đại Tây Dương và do đó bảo đảm sứ mạng giải phóng của họ tách khỏi nguyên tắc đối ngoại. Cũng có niềm tin khác: người Mỹ là một nòi giống khác theo chế độ dân chủ, họ ủng hộ, chiến đấu và mang lại công lý cho tất cả mọi người. Một số ít người Mỹ đến với người Ấn Độ, Miến Điện, Trung Quốc, Triều Tiên, Đông Dương và Indonesia ở nhiều thời kỳ trăng mật của mối quan hệ ban đầu có thể đã không giả tạo và thậm chí còn đôi chút hồ hởi bởi cách mà họ được tách khỏi tất cả những người phương Tây khác với tư cách là người mang ngọn được tự do.
Phần lớn người Mỹ ở Việt Nam hẳn sẽ vui được đặt mình vào diện đó - với tư cách là một "nòi giống khác" hành động để "mang lại công lý cho tất cả mọi người". Với lời nói huênh hoang và thái độ hiên ngang của những kẻ mới chiến thắng kết hợp với niềm tin chân thành vào công lý phù hợp với giá trị Mỹ, những người lính trên chiến trường này trở thành biểu tượng của niềm hy vọng, mặc dù là không chủ tâm, đối với người Việt Nam - hy vọng những báo cáo có thiện chí của Patti, Swift, Dewey, Thomas và những người khác bằng cách nào đó sẽ đến và gây được ấn tượng đối với các cấp cao nhất trong chính quyền Mỹ, và hy vọng người Mỹ sẽ ngăn chặn chủ nghĩa thực dân trở lại Việt Nam và là bà đỡ cho nền độc lập của họ. Người Việt Nam rõ ràng đã đánh giá quá cao tầm quan trọng và sức mạnh của những người họ đã tận dụng mọi cơ hội để gây ấn tượng. Và đôi khi, thái độ tôn trọng và ngưỡng mộ được biểu hiện đối với những thanh niên Mỹ đã khuyến khích họ đóng "những vai kịch", cả thực lẫn suy luận, ở mức cao nhất. Một "giấy phép lao động" bí mật được viết vào năm 1956 cho Ban Quan hệ đối ngoại đã giải thích phần nào về hoạt động của những người lính trẻ OSS: "Xa lạ với thái độ phóng túng, cởi mở và vô trách nhiệm mà nhiều người Mỹ thỉnh thoảng tự cho phép mình thể hiện, người Pháp và người Việt Nam không thể bị đổ lỗi vì phản ánh một cách nghiêm túc và chính xác lập trường chính thức của Mỹ - cái chỉ là lời khoác lác của một nhúm quan chức theo đường lối biệt lập". Trong bản phân tích thời kỳ hậu chiến, sĩ quan OSS Carleton Swift đã tổng kết tình hình từ quan điểm của mình: "Patti và nhóm của ông lâm vào tình thế bị lôi kéo từ vai trò báo cáo thông tin tình báo vào việc đại diện cho lợi ích của người Mỹ, một vai trò thường rơi vào tay OSS. Sự hiện diện không đáng kể những người Mỹ sẵn lòng lắng nghe là niềm cổ vũ đối với người Việt Nam và chứng tỏ sự ghét bỏ đối với người Pháp".
Có lẽ các thành viên của đội OSS thường xuyên nói ra ý kiến của họ, nhưng sự thiên vị của họ đối với những người đang mưu cầu độc lập nhiều hơn đối với những kẻ đang cố phủ nhận điều đó không thể bị chỉ trích quá nặng nề. Đối với nhiều người trong thế giới bị tàn phá bởi chiến tranh, những người lính Mỹ trẻ tuổi này là hiện thân của các giá trị và chủ nghĩa lý tưởng mà nước Mỹ đã trở thành đại diện. Tại Paris, Dachau, hay ở Hà Nội, người Mỹ trở thành biểu tượng của tự do và niềm hy vọng cho tương lai. Người Mỹ tại chiến trường nhận thấy lời nói và hành động của họ được người Việt Nam và người Pháp thật sự quan tâm, cả hai bên đều thấy sự ủng hộ của Mỹ như một yếu tố có tác động mạnh trong việc quyết định tương lai của Đông Dương. Những người ta hẳn cũng nhớ rằng nhiều người Việt Nam, đặc biệt là Hồ Chí Minh, cũng là những người quan trọng trong mối quan hệ này. Nhiều người viết rằng Hồ Chí Minh yêu thích nước Mỹ và người Mỹ bởi vì ông luôn đặt câu hỏi hay đưa ra những lời bình luận và sẵn sàng tham gia đối thoại thân mật. Mặc dù điều này có thể đúng, nhưng một ý kiến khách quan hơn cho rằng ông đơn giản là một chủ nhà nhạy bén về chính trị, lịch lãm và thành thạo các giao tiếp xã hội, đặc biệt ở cấp độ một chọi một, làm cho vị khách cảm thấy quan trọng. Ông có thể nói về lịch sử và xã hội nước Pháp, về những chuyến đi của ông tới Mỹ và lịch sử nước Mỹ, và người ta có thể tin rằng khi có cơ hội ông cũng có thể nói về Thái Lan, Trung Quốc hoặc Liên Xô. Ông biết cách sử dụng tài hùng biện, nhưng vẫn luôn chân thành, điều đó sẽ lôi cuốn vị khách. Về mối quan hệ của ông với những người Mỹ tại chiến trường, thái độ của ông vừa chân thành vừa thiết thực - dựa vào hy vọng là họ có thể gửi đi những báo cáo thiện chí có thể giúp ông có được sự công nhận của Mỹ. Phần nào niềm mong ước này đã trở thành sự thực. Nói chung, những người Mỹ đã gửi đi những bản báo cáo tích cực. Những phần còn lại lại là một hy vọng sai lầm làm tràn đầy cả đất nước ông và những người Mỹ một sức mạnh lớn hơn đáng kể nguồn nội lực một trong hai bên có lúc bấy giờ. Trên thực tế, nếu không vì cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam thì sau khi lớp bụi của năm 1945 - 1946 đã tan đi, rất ít người còn nhìn lại những trao đổi giữa người Mỹ và Việt Minh hoặc đặt câu hỏi về động cơ và hành động của Mỹ. Những báo cáo mà người Mỹ tại chiến trường đã đệ trình hẳn đã lặng lẽ tan vào cát bụi, hoàn toàn không có tranh cãi và buồn đau ghi dấu hầu hết những sự kiện liên quan tới mối quan hệ của Mỹ với Việt Nam. Nhiều năm sau đó, một vài nhà sử học vẫn tìm kiếm lời giải cho câu hỏi tại sao các thành viên OSS lại "cộng tác" với Việt Minh. Stein Tonnesson đã đưa ra ba nguyên nhân có thể:
Thứ nhất, những nhân viên chỉ huy các hoạt động này đã được lựa chọn và đã nhận được chỉ thị khi Roosevelt vẫn còn sống, họ tiếp tục thực hiện chính sách của ông. Thứ hai, OSS có xung lượng như một cơ quan toàn cầu, OSS không được cho phép hoạt động tại mặt trận của đô đốc hải quân Nimiz và tướng McArthur, nhưng lại được chào đón tại Trung Quốc. Vì lợi ích của OSS được chấp nhận hết mức có thể tại khu vực của Wedemeyer, dĩ nhíên, OSS cũng hợp tác với các nhà cộng sản Trung Quốc. Thứ ba, việc thu thập thông tin tình báo chính xác và thực hiện các hoạt động phá hoạ hiệu quả là lý do tồn tạí của một tổ chức như OSS, thông tin và sự hợp tác cần phải được tìm kiếm ở nơi chún có thể đạt được hiệu quả cao nhất.
Tất cả ba lý do trên chắc chắn là chính xác, dựa trên những báo cáo và thái độ của những người có mặt tại chỗ. Nhưng một nhân tố phụ có ảnh hưởng tới nhiều người: nhân tố con người - khả năng của con người đối với việc phát triển mối quan hệ cá nhân với những người thuộc nhiều đảng phái chính trị. Những quân nhân đầu tiên có mặt tạii Đông Dương như Frankie Tan, Dan Phelan và Charles Fenn đều thiết lập mối quan hệ thân thiết với nhiều người Việt mà họ làm việc cùng, vài thành viên của Đội Nai cũng làm như vậy, nhất là chỉ huy của họ, Allison Thomas. Cả Henry Prunier và George Wickes cũng coi những người Việt Nam mà họ làm việc cùng như những người bạn mới. Và tình hình là chung của nhau; thậm chí sau khi "sứ mạng của OSS kết thúc", Dương Trung Quốc nhớ lại, "mối quan hệ giữa Việt Minh và OSS vẫn duy trì, nhưng trong phạm vi quan hệ giữa các cá nhân... Có rất nhiều tình cảm tốt đẹp, nồng ấm đối với nhau với tư cách cá nhân, với tư cách con người".
Trong trường hợp của Archimedes Patti, Peter Dewey và Carleton Swift, sẽ là cường điệu trường họp này khi nói rằng tình bạn phát triển. Tuy nhiên, cả ba người này dường như thích thú với bài thuyết trình trí tuệ mà họ đã trao đổi với các thành viên của Việt lvlinh. Thậm chí sau khi đã chia tay, Thomas, Tan, Fenn và Patti vẫn tiếp tục trao đổi thư từ với các thành viên của Việt Minh. Nordlinger viết những bức thư ấm áp và khích lệ gửi Hồ Chí Minh vào cuối những năm 60 với hy vọng mối quan hệ tin cậy của họ trong quá khứ có thể được sử dụng để cải thiện tình hình trong thập kỷ hỗn loạn đó. Coi những người Việt như bạn hữu, hoặc ít nhất như những người ngang hàng, có thể đã khuyển khích những người Mỹ trên chiến trường dễ đồng cảm hơn với những nhà hoạch định chính sách tại Washington, London và chắc chắn cả Paris, nhưng không bao giờ có người nào nhận thấy chính bản thân họ đang hành động trái với chính sách của Mỹ hoặc đang bóp méo lý tưởng của đất nước họ.
Liệu những người này vào năm 1945 có cung cấp cho nước Mỹ sự hiểu biết sâu sắc có thể giúp ngăn chặn cuộc chiến tranh trong tương lai không? Có; như George Wickes tuyên bố, "những bức điện chúng tôi gửi về Washington tiên liệu chính xác những gì rốt cục sẽ xảy ra nếu Pháp cố tình phủ nhận nền độc lập của Việt Nam". Nhưng điều đó vào năm 1945 có quan trọng không? Với câu hỏi đó thì câu trả lời phải là không; xu thế chính trị vào thời điểm đó hoàn toàn khác. Nhưng câu chuyện của những quân nhân này rất có giá trị, hoàn toàn ngoại trừ mối quan hệ đối với những cuộc chiến tranh trong tương lai. Nó nói đến một tình bằng hữu trong chiến tranh - không phải chỉ trong những người Mỹ mà còn trong những người bạn chiến đấu - điều đó lớn hơn quốc tịch trong liên minh chung cho dù là tạm thời. Nguyễn Chính nhớ lại ông đặc biệt thấy nhớ Allison Thomas bởi vì anh ta "đã cùng hành quân, cùng chia ngọt sẻ bùi với chúng tôi". Câu chuyện của họ cũng nói đến bản chất bác ái của nhiều thanh niên Mỹ thuộc thời đại của họ và niềm tin của họ vào những gì nước Mỹ ủng hộ, tự do và giải phóng, tôn trọng đi sản của Frankhn Roosevelt. Các thành viên OSS tại Việt Nam đầy táo bạo, đáng tin cậy, ngạo mạn và tràn đầy niềm tự hào ái quốc là đã chiến thắng. Mặc dù nôn nóng trở về quê hương, nhưng họ ở cách xa mối nguy hiểm thực sự và có thể quan tâm tới hạnh phúc của những người khác ở bên kia chiến tuyến.
Trong đa số trường họp họ đã chứng tỏ những phẩm chất tốt đẹp nhất của thế hệ thanh niên thời đó: niềm tin chắc chắn rằng những lý tưởng mà vì chúng họ chiến đấu, thường ở cả mặt trận châu Âu và Thái Bình Dượng, đã thực sự phát huy tác dụng.
Có lẽ mối quan hệ giữa OSS và Việt Minh có thể được minh hoạ hay nhất bằng một trong những cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa một thành viên của OSS (giờ đã trở thành SSA) với Hồ Chí Minh. Thiếu tá Frank White từ Sài Gòn (qua Thượng Hải) đến Hà Nội cùng George Wickes và nhân viên điện đài của họ vào mùa thu năm 1945. White nhớ lại rằng nhóm OSS đóng tại Sài Gòn "hầu như không biết gì về mọi việc đang diễn ra với các đồng nghiệp của họ tại Hà Nội", và chỉ nhận được những mệnh lệnh ngắn gọn thay thế cho "đội OSS đã rút đi" để tiếp tục thu thập và cập nhật thông tin về tình hình đang tiến triển, và để "tiếp xúc với Hồ Chủ tịch". Ngay sau khi White và Wickes tự thu xếp chỗ ở tại khách sạn Métropole, White đã gửi một bức thư tự giới thiệu tới Hồ Chí Minh và được mời đến dự một cuộc họp vào chiều hôm đó.
Cuộc đối thoại của White với Hồ Chí Minh không khác gì những cuộc đối thoại của nhà lãnh đạo Việt Minh với vô số người Mỹ trước White: Hồ Chí Minh lặp lại niềm mong muốn độc lập của Việt Nam, những hành động tàn bạo và những thử thách gay go do chủ nghĩa thực dân Pháp gây ra, và lòng kính trọng sâu sắc mà người Việt Nam dành cho đất nước và con người Mỹ. Khi trở lại khách sạn, White nhận được giấy mời đến dự một buổi chiêu đãi tại phủ chủ tịch tối hôm đó. Anh đã đến đúng địa chỉ, đúng thời gian và phát hiện ra xung quanh mình là các tướng tá người Trung Quốc, Anh, Pháp, và cả nội các của Hồ Chí Minh. Biết rõ cấp bậc của mình và cảm thấy không thoải mái, White đứng quay lưng lại khi mọi người chiếm chỗ của mình quanh bàn ăn. Là một thiếu tá mới được bổ nhiệm và rõ ràng có cấp bậc thấp nhất trong phòng, White hy vọng tìm được chỗ ngồi của mình ở "một xó nào đó", nhưng cũng sẵn sàng "chuồn" nếu không còn lại ghế nào trống. Khi tất cả mọi người đã yên vị, chỉ còn lại một chỗ trống - chiếc ghế ngay bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. White nhớ lại buổi tối hôm đó:
Bữa ăn tối là một nỗi kinh hoàng. Người Pháp tự giới hạn mình trong phạm vi trò chuyện tối thiểu và tuyệt nhiên không nói với người Trung Quốc, những kẻ nhanh chóng say xỉn…
Thế rồi tôi nói thầm nói Hồ Chí Minh. "Tôi nghĩ, thưa ngài Chủ tịch, có sự nhầm lẫn nào đó trong việc sắp xếp chỗ ngồi tại chiếc bàn này". Dĩ nhiên, tôi định nói về chỗ ngồi của tôi bên cạnh ông".
Ông suy nghĩ một lát, đoạn thành thật trả lời. "Đúng, tôi có thể thấy điều đó nhưng còn ai tôi có thể nói chuyện được đây?"
Chú thích:
(1) Cordell Hull (1871-1955), Ngoại trưởng Mỹ từ 1933-1944. Nhận giải Nobel Hoà bình năm 1945
11. Tài liệu tham khảo
PRIMARY SOURCES Oral interviews and Correspondence
Defoumaux, Rene. September 1998 - November 2000 Fenn, Charles. December 1998 - October 2001 Prunier, Henry. November 1998 - February 1999 Swift, Carleton. November 1998 - June 2001 Tan, Frank. December 1998 - December 2000 Thomas, Alison. December 1998 - February 1999 White, Frank. December 1998 - April 2000 Wickes, George. September 1998 - January 1999
Manuscript and record Collections
Giap Papers. Cecil B. and Laura G. Currey Archive of Military History. Forsyth Library Archives. FortHaysState CJnviersity, Hays, Kansas.
Sir Douglas Gracey Papers. Liddell Hart Centre for Milatry Archives. King s College London.
Milton Miles Papers. Naval Group China. Record Group 38. National Archives and Record Administration. Washington, DC.
Philippine and Southeast Asia division, 1944 - 1952. Record Group 59. National Archives and Record Administration. Washington, DC.
Records of the office of Strategic Services. Record Group 226. National Archives and Records Administration. Washington, DC.
"Magic" Documents. Record Group 457. National Archives and Records Administration. Washington, DC.
Archimedes L. Patti Papers. Special Collections. University of CentralFlorida, Orlando, Florida.
Unpublished and Primary Sources
Defoumaux. Major RenJ. "Deer Team Diary". Courtesy of the author.
Fenn, Charles. Menoir. Courtesy of the author.
Full transcript of 1997 OSS/Viet Minh Meeting. Courtesy of William Duiker.
Micheal, Henri. "Du 9 mars au 7 november 1974. Le calvaire et la lib ration de Louise Maria et Mariet au pays Thai. Reddition de Nguyen-Dinh-Tan". Courtesy of RenJ. D fournaux.
Nordlinger, Colonel Stephen. Correspondence. Courtesy of John Nodlinger.
Swift, Carleton. "North Indochina in the Far East Scene of 1945". Lecture at the University of Maryland, September 19,1996. Copy courtesy of the author. Wickes, George. Menoir. Courtesy of the author.
Published Primary Sources
Bao Dai. Le dragon d Annam. Paris: Plon, 1980.
Beveridge, Albert J. "Speech in the Senate, 1990". In Words That Made American History; edited by Richard Current, John Garraty, and Julius Weinberg, 2 vol., I: 218 - 225. Boston: Little, Brown, 1978.
Boisanger, Claude de. On pouuait viter la guerre d lndochine: Souuenir, 1941 - 1945. Paris: Librairie d Am rique et d Orient, 1977.
Breaking Our Chains: Documents of the Vietnames Revolution of August 1945. Hanoi: Foreign language Publishing House, 1960.
Brigham, Robert. "OSS and Viet Minh Veterans Meet in the U.S". Indochina Interchange, December 1997, 6-7.
Broyles, William Jr. Borthers in Arms: A Journey from War to Peace. New York: Knopf, 1986.
Bui Diem. In the Jaws of History: With David Chanoff. Boston: Houghton Miffin, 1987.
Bui Tin. Following Ho Chi Minh: Memoirs of a North Vietnamese Colonel. Honolulu: CJniversit of Hawaii Press, 1995.
Buttinger, Joseph. "An Eyewitness Report on Vietnam". Reporter, January 27, 1955. Chennault, Claire Lee. Way of a Fighter: The Memoirs of Claire Lee Channault. New York: G.P. Putnam s Sons, 1949.
Decoux, Admiral Jean. A la barre de I lndochine: Histoire de mon gou-vernement general (1940 - 1945). Paris: Librairie Plon, 1949.
D fournaux, Ren J. "A Secret Encounter wwith Ho Chi Minh". Look, August 9, 1996, 32 - 33.
The Winking Fox: Twenty two years in Military Intelligence. Indiana Polis: Indiana Creative Arts, 1997.
Donovan, William J. "A Central Intelligence Agency". Vital Speeches of the day 12, no.14 (May 1,1946): 446-448.
"Discarding Transient Emotionalism". Vital speeches of the Day 2, no. 13 (March 23, 1936): 397 - 398.
"Is America Prepared for War?". Vital Speeches of the Day 6, no.5 (December 15,1939): 155-157.
"Our Spiritual Defense". Vital Speeches of the Day 7, no. 19 (June 28. 1941): 589- 590.
"The Struggle in Asia". Vital Speeches of the Day 21, no.12 (April 1, 1955): 1135-1138.
"What are we up agaisnt?". Vital Speeches of the Day 7, no. 13 (April 15, 1941): 386-389.
Duffy, Francis Patrick. Father Duffy s Story: A Tale of Humor and Heroism, of Life and Death with the Fighting Sixty-ninth. New York: George H. Doran, 1919.
Elliot, David W.P. The Vietnamese War: Revolution and the Social Change in the Mekong Delta. New York: East Gate Books, 2002.
Elliot, Duong Van Mai. The Sacred Willow: Four Generations in the Life of a Vietnamese Family: Oxford: OxfordUniversity Press, 1999.
Fenn, Charles. Ho Chi Minh: A Biographical Introduction. New York: Charles Scribner s Sons, 1973.
Hoai Thanh et al. Days with. Ho Chi Minh. Hanoi: Foreign Language Publishing House, 1962.
HoangVanHoan.ADropintheOcean:HoangVanHoan s Revolutionary Reminiscences. Beijing: Foreign Language Press, 1988.
Hull, Cordell. The Memoirs ofCordeltHull. 2vols. New York: Macmillan, 1948.International Military Tribunalfor theFarEast.Court Papers, Journals, Exhibits, and Judgement of the International Military Tribunal for the Far East. Compiled and edited by R. John Pritchard and Sonia Zaide. 10 vols. New York: Garland, 1981. Isaacs, Harold R. "Indo - China: Freedom - Or We Burn the House". Newsweek, December 3, 1945, 44-46. No Peace for Asia. Cambridge, MA: M.I.T. Press, 1947 "Saigon: FrenchIsland in a Sea of Rebellion". Newsweek, November 26, 1945, 54.
"Japanese Executed". London Times, March 20, 1947. Krochk, Arthur. "The Late A.Peter Dewey". New York Times, October 3, 1945.
Miles, Vice Admiral Milton E., GSN. A Different Kind of War: The Unknown Story of the U.S. Navy s Guerilla Forces in World War II China. New York: Doubleday, 1967.
Miles, Wilma Jerman. Billy, Navy Wife. Chevy Chase, MD: Murray E. Miles and Charles H.Miles,1999.
Moffat, Abbot Low. Welcome to Our American Friends". In Strange Ground: Americans in Vietnam 1945 - 1975; An Oral History, edited by Harry Mauer, 42-46. New York: Henry Holt, 1989.
Murphy, Robert. Diplomat Among Warriors. New York: Doubleday, 1964.
Mus, Paul. Le Viet Nam chez lui. Paris: Centre d Etudes de Politique Etrangere, 1946.
Nguyen CaoKy. Twenty Years and Twenty Days. New York: Stein and Day. 1976.
Nguyen Thi Dinh. No Other Road to Take: Memoirs of Mrs. Nguyen Thi Dinh. Translated by Mai V. Elliot. Ithaca, NY: CornellUniversity Press, 1976.
Patti, Archimedes L.a. Why Vietnam? Prelude to America s Albatross. Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1980.
Porter, Qareth, ed. Vietnam: The Definitive Documentation of Human Decisions, 2 vols, Standfordville, NY: Earl M. Coleman, 1979.
Roosevelt, Elliot. As he saw it. New York: Duell, Sloan and Pearce, 1946.
Sabbatier, General G. Le destin de I lndochine: Souvenirs et Documents 1941-1941. Paris: Librairie Plon, 1952.
Sainteny, Jean. Histoire d une paix manquee: Indochine 1945 - 1947. Paris: Librairie Fayard les Grandes Etudes Contemporaines, 1967.
Shean, Vincent. This House against This House. New York: Random House, 1946.
Sheldon, George. "Status of the Viet Nam". Far Eastern Survey]5, no.25 (1946): 373-377.
Shigeimitsu Mamoru. Japan and her Destiny. London: Hutchinson, 1958.
Stetler, Russell, ed. The Military Art of People s War: Selected Writings of General Vo Nguyen Giap. New York: Monthly Review Press, 1970.
Sun Tzu. The Art of War. Translated by Samuel B. Griffith. London: OxfordUniversity Press, 1963.
Tarn Lang. "I Pulled a Rickshaw". In The Light of the Capital: Three Modern Vietnames Classics, 51 - 120. Translated by Greg Lockhard and Monique Lockhard. Oxford: OxfordUniversity Press, 1996.
Taylor, Edmond. Awakening from History. Boston: Gambit, 1969. Richer by Asia. 2nd and ed. New York: Time-life Books, 1964.
"Thirteen Japanese Condemned to Death". London Times, February 17, 1947.
Thomas, Major Alison. "Welcome to Our American Friends". In Strange
Ground: Americans in Vietnam,1945-1975; An Oral History; edited by Harry Mauer, 28-37. New York: Henry Holt, 1989.
Tran Dan Tien [Ho Chi Minn]. Glimpses of the Life of Ho Chi Minh, President of the Democratic of Vietnam. Hanoi: Foreign Languages Publishing House, 1958.
Tran Tu Binh. The Red Earth: A Vietnamese Memoir of Life on a Colonial Rubber Plantation. Translated by John Spragens Jr. Athens: OhioUniversity Press, 1985.
Tran Van Mai. "Who Committed this Crime?". In Before the Revolution: The Vietnamese Peasants under the French, by ngo Vinh Longet al., translated by Ngo Vinh Long 220 - 276. New York; ColumbiaUniversity Press, 1991.
Truong Chinh. Primer for Revolt: The Communist Takeover in Vietnam. New York: Praeger, 1963.
Twain, Mark. Mark Twain on the Damned Human Race. Edited by Janet Smith. New York: Hill and Wang, 1962.
United Nations. War Crimes Comission. History of the United Nations War Crimes Comission and the Development of the Laws of War. London: His Majesty s Sationary Office, 1948.
U.S. Congress. Senate. Committee on Foreign Relations. Hearing before the Committee on Foreign Relations on Causes, origins, and Lessons of the Vietnam War. 92nd Cong., 2nd sess., 1972.
Committee on Foreign Relations. The United States and Vietnam: 1944-1947. 92nd Cong., 2nd sess., 1972.
U.S. Department of Defense. The Pentagon papers: The Defense Department History of United States Deciosionmaking on Vietnam. 8vols. Boston: Beacon Press 1971.
United States - Vietnam Relations, 1945-1967. 12 vols. Washington, DC: Government printing Office., 1971.
U.S. Department of State. "Declaration by United Nations, Washington, January 1, 1942, and Declaration Known as the Atlantic Charter, August 14, 1941". Cooperative War Effort, Executive Agreement Series 236, Publication 1732 (1942): 4.
Foreign Relations of the United States, 1938. Vol. 3, The Far East.
Washington, DC: Government Printing Office, 1954.
Foreign Relations of the United States, 1939. Vol.3, The Far East. Washington, DC: Government Printing Office, 1959.
Foreign Relations of the United States, 1941. Vol.2. Europe. Washington, DC: Government Printing Office, 1962.
Foreign Relations of the United States, 1943: China. Washington, DC: Government Printing Office, 1956.
Foreign Relations of the United States, 1943. Vol.3. The British Commonwealth, Eastern Europe, the Far East. Washington, DC: Government Printing Office, 1963.
Foreign Relations of the United States, 1944. Vol.3, The British Commonwealth, Europe. Washington, DC: Government Printing Office, 1965.
Vo Nguyen Giap. Desjournees inoubliables. Hanoi: Editions en Langues Etranges, 1975.
People s War, People s Army. New York: Henry Holt, 1958.
SECONDARY SOURCES Books and Articles
Aldrich, Richard. Imperial Rivalry: British and American Intelligence in Asia, 1942-1946". Intelligence and national Security 3, no.I. (January 1988): 5-55.
Allen, Louis, Judith Stowe, and Thanatphong Smitabhindu. "The Japanese Coup of 9 March 1945 in Indo-China". In 1945 inSouth-East Asia, 1-29. London; LondonSchool of Economics and Political Science, 1985.
"Studies in the Japanese Occupation of South-East Asia 1942-1945. French Indochina to Vietnam . Japan, France and Great Britain, Summer 1945. Durham University Journal 64, no.2 (March 1972): 120-132.
Appy, Christian G. Patriots: The Vietnam WarRemembered from all Sides. New York: Viking, 2003.
Barnet, Richard. Intervention and Revolution: The United States and the Third World. New York: World, 1968.
Beasley, W.G. Japanese Imperialism, 1894-1945. Oxford; Clarendon, 1987.
Bergamini, David. Japan s Imperial Conspiracy. New york: Morrow, 1971.
Bodard, Lucien. The Quicksand War: Prelude to Vietnam. Boston: Little, Brown, 1967.
Boudarel, Georges, and Nguyen Van Ky. Hanoi, City of the Rising Dragon. Lanham, Bradley, Mark Phillip. Imagining Vietnam and America: The Making of Postcolonial Vietnam, 1919-1950. Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2000.
Brightman, Carol. "Our Men in Hanoi". Indochina Interchange 5, no.4 (December 1995): I, 17-19.
Brown, AnthonyCave. The Last Hero: Will Bill Donouan. New York: Vintage, 1982.
Bui Minh Dung. "Japan s Role in the Vietnamese Starvation of 1944-45". Modern Asian Studies 29, no.3 (1995): 573-618.
"Nominal Vietnamese Independence Following the Japanese Coup de Force on 9 March 1945". Japan Forum 6, no.2 (October 1994): 231-249.
Buttinger, Joseph. Vietnam, A Dragon Embattled. 2 vols. New York: Preager, 1967.
Chalou, George C.,ed. The Secret War: The Office of Strategic Services inWorld War II. Washingtin, DC: National Archives Trust Fund Board, 1992.
Chandler, David. "The Kingdom of Kampuchea, March-October 1945: Japanese Sponsored Independence in Cambodia in World War II". Journal of Southeast Asian Studies 17, no.l(Marchl986): 80-93.
Charbonneau, Rene, and Jose Maigre. Les Parias de la uictoire: Indochine- Chine, 1945.Paris: France-Empire, 1980.
Cline, Ray S. Secrets, Spies and Scholars: Blueprint of the Essential CIA. Washington, DC: Acropolis, 1976.
Cole, Allan B., ed. Conflict in Indo-China and International Repercussions: A Documentary History, 1945-1955. Inthaca, NY: CornellUniversity Press, 1956.
Conboy, Kenneth, and Dale Andrade. Spies and Commandos: How America Lost the Secret War in North Vietnam. Lawrence: University Press of Kansas, 2000.
Conroy, Hilary, and Harry Way, Pearl Harbor Reexamined: Prologue to the Pacific War. Honolulu: University of Hawaii Press, 1990.
Cooper, Bert, John Killigrew, and Norman LaChartie. Case Studies in Insurgency and Revolutionary Warfare: Vietnam, 1941-1954. Washington, DC: Speial Operations Research Office.
Costelle, John. The Pacific War, 1941-1954. New York: Morrow, 1982.
Currey, Cecil B. Victory at Any Cost: The Genius of Vietnam s Gen. Vo Nguyen Giap. Washington, DC: Brassey s, 1997.
Dallek, Robert. Franklin D. Roosevelt and America Foreign Policy, 1932-1945. Oxford: OxfordUniversity Press, 1995.
Dalloz, Jacques. The War in Indo-China 1945-1954. Bublin, Ireland: Gill and Macmillan, 1987.
Deacon, Richard. Kempei Tai: The Japanese Secret Service Then and Now. New York: Morrow, 1994.
Denis, Peter. Trouble Days of Peace: Mountbatten and South East Asia Command, 1945-1946. New York: St. Martin s, 1987.
Dellivers, Philippe. Histoire du Vietnam de 1940 a 1952. Paris: Seuil, 1952.
Dewey, A. Peter. As They Were. New York,Beechhurts, 1946.
Dommen, Arthur J. The Indochine Experience of the French and the Americans: Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam. Bloomington: Indiana Universit Press, 2001.
Dommen, Arthur J., and George W.Dalley. "The OSS in Laos: The 1945 Raven Mission and American Policy". Journal of South East Asia Studies 22, no.2. September 1991: 327-346.
Drachman, Edward R. United States Policy toward Vietnam, 1940-1945. Rutheford, NJ: FarleighDickinsonUniversity Press, 1970.
Duiker, Willia. J. The Communist Road to Power in Vietnam. 2nd ed. Boulder, CO: Westview 1996.
Ho Chi Minh. New York: Hyperion, 2000.
Sacred War: Nationalism and Revolution in a Divided Vietnam. New York: McGraw-Hill, 1995.
Dunlop, Richard. Donova, American s Master Spy. Chicago: Rand McNally, 1982.
Dunn, Peter M. The First Vietnam War. New York: St. Martin s, 1985.
Duus, Peter, Ramon H. Myers, and Mark R. Peattie, eds. The Japanese Wartime Empire, 1931-1945. princeton, NJ: Princeton University Press, 1996.
Elsbree, Willard H. Japan s Role in Southeast Asian Nationalist Movements, 1940 to 1945. Cambridge, MA: HarvardUniversity Press, 1953.
Fall, Bernard. Last Reflection on a War. New York: Doubleday, 1967.
"La politique Americaine au Viet-nam". Politique Etrange, July 1955, 299-322.
The Two Viet-nams: A Political and Military Analysis. New York: Praeger, 1967.
Ferrier, Sergeant David J. "ONI and OSS in World War II". World War II Fact Sheet. Washington, DC: Navy and Marine Corps WWII Commenmorative Committee. Navy Office of Information, 1995.
Fishel, Wesley R.,ed. Vietnam, Atanomy of a Conflict. Itasca, IL: F.E. Peacock, 1968.
Fitzgerald, Frances. Fire in the Lake: The Vietnamese and the Americans in Vietnam. Boston: Little, Brown, 1972.
Ford, Corey. Donovan of OSS. Boston: Little, Brown, 1972.
Ford, Corey, and Alastair MacBain. Cloak and Dagger: The Secret Story of the OSS. New York: Grosset and Dunlap, 1946.
Frey, Marc, Ronald W. Pruenssen, and Tan Tai Yong, eds. The Transformation of Southeast Asia: International Perspectives on Decolonization. Armonk, NY: Sharpe, 2003.
Gaudel, Andre. L indochine Francais en face du japon. Paris: Susse, 1947.
Gibson, James William. The Perfect War: Technowar in Vietnam. Boston: Atlantic Monthly Press, 1986.
Gillin, Donald G., and Charles Etter. "Staying On: Japanese Soldiers and Civilians in China, 1945-1949". Journal of Asian Studies 42, no.3 (may 1983): 497-518.
Girard, Raymond P. City Man Helped to Train Guerillas of Ho Chi Minh". Worcester (Mass). Evening Gazette. May 14/15, 1968.
Goodman, Grant K. Imperial Japan and Asia - A Reassessment. New York: East Asian Institute, ColumbiaUniversity, 1967.
Goscha, Christopher E. "Allies tardifs: Les apport techniques des deser-teurs japonais au Viet Minh (1945-1950". Unpblished article. Courtesy of the author.
Hammer, Ellen J. The Struggle of Indochina. Standford, CA: StanfordUniversity Press, 1954.
Haclerode, Peter. Fighting Dirty: The Inside Story of Covert Operations from Ho Chi minh to Osama Bin Laden. London: Cassell, 2001.
Herring, George C. "The Truman Administration and the Restoration of French Sovereignty in Indochina". Diplomatic History I (1997): 97-117.
Hess, Gary R. "Franklin Roosevelt and Indochina". Journal of American History 59 (1972): 353-368.
Hess d Alzon, Claude. "Le coup de force japonais, ou le temps de la Dislocation (Mars 1945)". In L Armee francais d lndochine pendent la Seconde Guerre Mondiale, 1939-1945, edited by P. Isoart, 119-130. Paris: Presses Universitaires de France, 1982.
Hood, Steven J. Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War. Armonk, NY: Sharpe, 1992.
"The Inplacable Man Named He Who Enlightens ". Life, March 22, 1968, 22-31.
Isoart, Paul, ed. L indochine francaise, 1940-1945. Paris: Presses Universitaires de France, 1982.
James, Marquis. The Texaco Story: The First Fifty Years, 1902-1952. New York: Texas Company, 1953.
Jamieson, Neil L. Understanding Vietnam. Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1995.
Jones, F.C. Japan s New Order in East Asia: Its ris and Fall, 1937-45. London; OxfordUniversity Press. 1954.
Kamm, Henry. Dragon Ascending: Vietnam and the Vietnamese. New York: Arcade, 1996.
Karig, Walter. "The Most Mysterious Office in Washington". Liberty, January 3, 1942, 8-9, 45-46.
Kratz, Barry M. Foreign Intelligence: Research and Analysis in the Office of Strategic Services, 1942-1945. Cambridge, MA: HarvardUniversity Press, 1989.
Khanh, Huynh Kim. "The Vietnamese August Revolution Reinterpreted". Journal of Asian Studies 30, no.4 (1971): 761-782.
Kobelev, Yevgeny. Ho Chi Minh. Moscow: Progress, 1989. Kolko, Gabriel.The Politics of War: The World and United States Foreign Policy, 1943-1934. New York: Random House, 1968.
The Roots of American Foreign Policy: An Anlaysis of Power and Purpose. Boston: Beacon Press, 1969.
Krebs, Gerhard, and Christian Oberlander. 7945 in Europe and Asia: Reconsidering the End of World War II and the chagne of the Worls Order. Monographien aus dem Deustchen Institut for Japan Studien der Philipp-Franz von SieboldStiftung 19. Munich: Iudicium, 1997.
La Feber, Walter. "Roosevelt, Churchill and Indochina: 1942-1945". American Historical Review 80 (December 1975): 1277-1295.
Lacouture, Jean. Vietnam: Between Two Truces. New York: Vintage, 1966.
Lamb, David. Vietnam, Now. New York: Public Affairs, 2002. Lancaster, Donald. The Emancipation of French Indochina. London: OxfordUniversity Press, 1961.
Lattimore, Eleanor. "Indo-China: French Union or Japanese Independence ". Far Eastern Survey, no.14 (May 23, 1945): 132-134.
Japan s Greater East Asia Co-Prosperity Sphere in World War II: Selected Readings and Documents. London: OxfordUniversity Press, 1975. Lockhart, Greg. Nation in Arms: The Origins of People s Army of Vietnam. Sydney: Allen and Unwin, 1989.
Long, Ngo Vinh, et a;. Before the Revolution: The Vietnamese Peasants under the French. Translated by Ngo Cinh Long. New York: ColumbiaUniversity Press, 1991.
Luois, William Roger. Imperialism ay Bay: The United Statesand the Decolonization of the British Empire. Oxford: Clarendon, 1997.
MacPherson, Nelson. "Reductio Ad Absurdum; The R&A Branch of OSS/London". International Journal of Intelligence and Courterintelligence 15, no.3 (July 2002): 390-414.
Marr, Daivid. "Vietnam: harnessing the Whirlwind". In Asia - The Winning of Independence, edited by Robon Jeffrey, 163-207. New York: St. Martin s, 1981.
Vietnam 1945: The Quest of Power. Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1995.
"World War II and the Vietnames Revolution". In Southeast Asia under Japanes Occupation, edited by Alfred W. McCoy, 104-131. New Haven, CT: YaleUniversitySoutheast Asia Studies, 1985.
Martin, Francoise. Heures tragiques au Tonkin. Paris: Berger-Levrault, 1948.
Marvel, W. Macy. "Drift and Intrigue: United States Relations with the Viet-Minh, 1945". Millenium 4, no.l (19750: 10-27.
McAlister, John T.Jr. Vietnam: The Origins of Revolution. New York: Harper Torschbooks, 1970.
McAuliff, Tara. "Vietnam-USA Society Ceiebrats Its 50th Anniversary". Indochina Interchang 5, no.3 (September 1995): 6-7.
McDonald, Lawrence H. "The Office of Strategic Services". Prologue 23, no.l (Spring 1991): 7-22.
"The OSS and Its Records". In The Secrets War: The Office of Strategic Services in World War II, edited by George C. Chalou, 78-102. Washington, DC: National Archives and Records Administration, 1992.
Melton, H. Keith. OSS Special Weapons and Equipments: Spy Devices of WWII. New York: Sterling, 1991.
Military History Institute of Vietnam. Victory in Vietnam: The Official History of the People s Army of Vietnam, 1954-1975, Translated by Merle L. Pribbenow. Lawrence: University Press of Kansas, 2002.
Morley, James William, ed. The Fateful Choice: Japan s Advance into Southeast Asia; Selected Translations from "Taheiyo senso e no michi: Kaisen gaiko shi". New York: ColumbiaUniversity Press, 1980.
Murakami Hyoe. The Years of Trial, 1919-52. Tokyo: Japan Culture Institute, 1982.
Murray, Martin J. The Development of Capitalism in Colonial Indochina (1870-1940). Berkeley and Los Angela: University of California Press, 1980.
Myers, Ramon H., and Mark R. Peatti. The Japanese Colonial Empire, 1895-1945. Princeton, NJ: PrincetonUniversity Press, 1984.
Ngoc-An. "Bo Doi Viet My". Lich Su Quan Su 10 (October 1986): 18-20, 31.
Nitz, Kiyoko Kurusu. "Independence without Nationalists? The Japanese and Vietnamese Nationalism during the Japanese Period, 1940-1945". Journal of Southeast Asian Studies 15 (March 1984): 108-133.
"Japanese Military Policy towards French Indochina during the Second World War: The Road to the Meigo Sakusen". Journal of Southeast Asian Studies 14 (September 1983): 328-353.
O Donnell, Patrick K. Operatives, Spies, and Saboteurs: The Unknown Story of the Men and Women of WWII s OSS. New York: Free Press, 2004.
Olson, James S. and Randy Robberts. Where the Domino Fell: American and Vietnam, 1945 to 1990. New York: St. Martin s, 1991.
Persico, Joseph E. Roosevelt s Secret War. New York: Random House, 2001.
Piccigallo, Philip R. The Japanese on Trial: Allied War Crimes Operations in the East, 1945-1951. Austin: University of Texas Press, 1979.
Pike, Douglas. PAVN: People s Army of Vietnam. Novato, CA: Presidio, 1986.
Poirier, Noel B. "The Britsh of Special Ops". World War 11 17, no.5 (January 2003): 62-65.
Pooler, Peter A. Eight Presidents and Indochina. Malabar, FL: Krieger, 1978.
Quinn-Judge, Sophie. Ho Chi Minh: The Missing Years. Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 2002.
Ready, J. Lee. Forgotten Allies: The Military Contribution of the Colonies, Exiled Governments, and Lesser Powers to the Allied Victory in World War II. 2 vols. Jefferson, NC: McFarland, 1985.
Roosevelt, Kermit. War Report of the O.S.S. New York: Walker, 1976.
Sbrega. John J. Anglo-American Relations and Colonialilsm in East Asia, 1941-1945.New York; Garland, 1983.
"First Catch Your Hare": Anglo-American Perspectives on Indochina during the Second World War". Journal of Southeast Asia Studies 14, no.l.(1983): 63-78.
Schlesinger, Arthur M. Jr. The Bitter Heritage: VietNam and American Democracy, 1941-1966. Boston: Houghton Mifflin, 1966. "Siege of Saigon." Neiusiuee/c.October 8, 1945, 57. Shaplen, Robert. "The Enigma of Ho Chi Minh". Reporter, January 27, 1955,11-19.
- The Lost Revolution: The U.S. in Viet Nam 1946-1966. New York: Harper Colophon, 1966.
Sheehan, Neil. A Bright Shining Lie: John Paul Vann and America in Vietnam. New York: Random House, 1988.
Sheldon, George. "Status of the Vietnam." Far Easten Survey 15, no. 25 (1946): 373-377.
Shipway, Martin. The Road to War: France and Vietnam, 1944-1947. Providence, RI: Berghahn, 1996.
Shiraishi Masaya. "The Background to the Formation of the Tran Trong Kim Cabinet in April 1945: Japanese Plans for Governing Vietnam." In Indochina in the 1940s and 1950s, edited by Takashi Shiraishi and Motoo Furuta, 113-141. Ithaca, NY: Cornell Southeast Asia Program, 1992.
"La politique officielle japonaise a I e gard de l lndochine pendent la Seconde Guerre Mondiale, 1939-1945, edited by P.lsoart, 119-130. Paris: Presses (Jniversitaires de France, 1982.
Silverstein, Josef, ed. Southeast Asia in World War II: Four Essays. New Haven, CT: YaleUniversitySoutheast Asia Studies, 1966.
Siracusa, Joseph M. "FDR, Truman, and Indochina, 1941-1952: The forgotten Years."
In The Impact of the Cold War Reconsiderations, edited by Joseph M. Siracusa and Glen ST. John Barclay. Port Washington, NY: Kennikat, 1977.
Siracusa, Joseph M., and Glen St. John Barclay, eds. The Impact of the Cold War Reconsiderations. Port Washington, NY: Kennikat, 1977.
Smith, Bradley F. The shadow Warriors: O.S.S. and the Origins of the C.I.A. New York: Basic Books, 1983.
Smith, R. Harris. OSS: The Secret History of America s First Central Intelligence Agency. Berkeley and Los Angeles: University of California, Press, 1972.
Spector, Ronald. Advice and Support: The Early Years of the U.S. Army in Vietnam, 1941-1960. New York: Free Press, 1985.
What the local Annamites Are Thinking": American Viewsof Vietnamese in China, 1942-1945." Southeast Asia 3, no. 2 (1974): 741-751. "A Study in Instransigence" Life, March 2, 1968, 21-31. Tanham,GeorgeK.Communist RevolutionaryWarfare: Fromthe Vietminh to the Vietcong. New York: Praeger, 1967.
Tarling, Nicholas. "The British and the First Japanese Move into Indo-China" Journal of Southeast Asian Studies 21, no. 1 (March 1990): 35-65. Thome, Christopher. "Indochina and Anglo-American Relations, 1942-1945." Pacific Historical Review 45 (1976): 73-96.
Titarenko, M. "The Rout of Japanese Militarism as a Factor that Promoted Popular Revolutions in China, Korea and Vietnam." Far Eastern Affairs 1 (1986): 26-43.
Tonnesson, Stein. The Vietnamese Revolution of 1945: Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World at War. London: SAGE, 1991.
Tran My -Van. "Japan and Vietnam s Caodaists: A Wartime Relationship (1939-45)."
Journal of Southeast Asian Studies 27, no. 1 (1996): 179-193. Troy, Thomas F. Donovan and the C.I.A. Federic, MD: University Publications of America, 1981.
-. Wild Bill and Intrepid: Donovan, Stepensons, and the Origin of the CIA. New Haven, CT: YaleUniversity Press, 1996.
Truong Buu Lam. Colonialism Experienced: Vietnamese Writings on Colonialism, 1900-1931. Ann Arbor: University of Michigan Press, 2000.
U.S. Air Force Historical Division. Brief History of 51st Fighter Group, 1940-1954.
Maxwell Air Force Base, AL: Research Studies Institue, 1955. U.S.Department of the Army. Minority Groups in North Vietnam. Washington, DC: Government Printing Office, 1972.
U.S. Joint Chiefs of Staff. History of the Indochina Incident, 1940-1954.
Vu Ngu Chieu. " The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945)." Journal of Asian Studies 45, no.2(Ferbruary 1986): 293-328.
Weinberg, Gerhard L. A World at Arms: A Global History of World War II. Cambridge: CambridgeUniversity Press 1994.
White, Theodore H. " Indo-China- The Long Trail of Error." In Vietnam: Anatomy of a Conflict, edited by Wesley R. Fishel, 13-28. Itasca, IL: F.E. Peacock, 1968.
Wilhelm, Maria. The Fighting Irishman: The Story of " Wild Bill" Donavan. New York: Hawthorn, 1964.
Worrthing, Peter: Occupation and Revolution: China and the Vietnamese August Revolution of 1945. Berkerly: Institute of East Asian Studies. University of California, 2001.
Yoshizawa. Miami. " The Nishihara Mission in Hanoi, July 1940." In Indochina in the 1940s and 1950s, edited by Takashi Shiraishi and Motoo Furuta, 9-54.
Ithaca, NY: Cornell Southeast Asia Program, 1992.
Young, Marylin B. The Vietnam Wars, 1954-1990. NewYork: Harper Collins,1991.
Theses and Dissertations
Chen, King."China and the Democratic Republic of Vietnam 1945-54." Ph.D.diss., PennsylvaniaStateUniversity, 1962.
Evans, Edward Taylor. "Vietnam in Turmoi: The Japanese Coup, the OSS, and the August Revolution in 1945." Master s Thesis, University of Richmond, 1991.
Murakami Sachiko. "Japan s Thrust into French Indochina, 1940-1945." PH.D.diss., NewYorkUniversity, 1981.
Wainwright, William H. " De Gaulle and Indochina, 1940-1945." Ph.D.diss., FlethcherSchool of Law and Diplomacy, 1972.