Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Tôn giáo, Chính Trị >> OSS VÀ HỒ CHÍ MINH

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 16091 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

OSS VÀ HỒ CHÍ MINH
DIXEE R. BARTHOLOMEW-FEIS

Chương 9

Lúc đầu tình hình tại Sài Gòn phản ánh tâm trạng hân hoan được chứng kiến ở Hà Nội với việc kết thúc Chiến tranh thế giới 2 và hứa hẹn một nền độc lập. Những phái đoàn Việt Minh ở miền Nam đã thực hiện chuyến đi dài và vất vả tới Tân Trào vào giữa tháng Tám chỉ có vừa đủ thời gian để quay trở lại miền Nam trước khi Cách Mạng Tháng Tám cũng lan tới khu vực này. Mặc dù phần lớn nông dân ở miền Nam Việt Nam mong ước tự do thoát khỏi ách áp bức Pháp - Nhật và cũng nhiệt thành như đồng bào miền Bắc, nhưng tổ chức Việt Minh ở miền Nam không được mạnh mẽ. Điều này một phần do thực tế là Uỷ ban trung ương tại Sài Gòn chỉ mới hồi phục từ "tình trạng lộn xộn gần như hoàn toàn" sau khi Pháp đàn áp dữ dội cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940. Thêm vào đó, đại bản doanh Việt Minh đặt lại vùng núi miền Bắc nên về mặt logic không thể tạo ra nhiều ảnh hưởng và kiểm soát nhân dân ở cách xa hàng trăm dặm. Nguyễn Thị Định nhớ lại bà đã không thể liên lạc được với Việt Minh cho tới năm 1944 khi phong trào Việt Minh "trở nên mạnh mẽ" tại miền Nam.

Tuy nhiên, tình trạng phấn khích rõ ràng tràn ngập bầu không khí đổi với phần lớn người dân miền Nam. Khó khăn đối với miền Nam không phải do thiếu nhiệt huyết hay lòng tận tuỵ đối với nền độc lập của đất nước, mà do tại đây có quá nhiều nhóm hy vọng được lãnh đạo cách mạng.

Lãnh đạo Khu uỷ miền Nam của ICP, Trần Văn Giàu, người đã thoát khỏi một nhà tù của Pháp và hết lòng lo củng cố đảng tại miền Nam, hết sức vui mừng khi hay tin về sự đầu hàng của Nhật. Tuy nhiên, tại các cuộc họp của Uỷ ban Khởi nghĩa vào ngày 15 tháng 8 năm 1945 và Khu uỷ vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, ông Giàu nhận thấy mọi người có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời: Họ có nên hành động ngay hay chờ đợi chỉ đạo từ miền Bắc? Nhật sẽ làm gì nếu họ cố gắng nắm lấy quyền lực? Sau khi nghe Hà Nội giành chính quyền thành công, ICP tổ chức một cuộc gặp với lực lượng Thanh niên Xung kích, hy vọng thu hút càng nhiều người dưới ngọn cờ của Việt Minh càng tốt. Họ cố gắng làm tương tự với Mặt Trận Thống nhất Tổ Quốc, được tạo thành từ những nhóm tôn giáo và những người theo Quốc dân đảng, những người theo chủ nghĩa Trotskit. Khi dốc sức để phát triển một liên minh công nhân, ICP quyết định tiến hành một "cuộc thử nghiệm" hạn chế để dò xét thái độ của Nhật bằng việc giành quyền kiểm soát tỉnh Tân An vào ngày 22 tháng 8 trước khi nổi dậy tại Sài Gòn. Tại Tân An, giống như ở miền Bắc, quân Nhật không chống đối hoạt động của Việt Minh. Vai trò của Nhật sẽ trở nên thậm chí còn phức tạp hơn trong tháng tiếp theo.

Tuy nhiên, vào thời điểm đó, ICP lập ra các kế hoạch chiếm giữ Sài Gòn với sự lạc quan thận trọng là Nhật sẽ không gây trở ngại nếu như không bị kích động trực tiếp. Vào lúc 6 giờ chiều 24 tháng 8, tại một cuộc mít tinh công khai Trần Văn Giàu tuyên bố bắt đầu cuộc cách mạng, và các nhóm Thanh mền Xung kích bắt đầu tấn công vào những công sở quan trọng như kho bạc, nhà máy điện, và các đồn cảnh sát địa phương. Họ không cố xông vào các toà nhà được Nhật canh gác, do đó sân bay, ngân hàng Đông Dương, các vị trí quân sự, và Phủ Toàn Quyền vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Nhật.

Sáng sớm hôm sau, "vài trăm nghìn nông dân tiến vào Sài Gòn". Khoảng 9 giờ sáng, khi "nhiều nghi thức trang trọng" kỷ niệm cuộc cách mạng bắt đầu, "có tới nửa triệu người dân nông thôn và thành thị tràn ngập đường phố Sài Gòn, có lẽ một phần ba số họ được trang bị gậy tầm vông, chĩa, dao rựa và súng ngắn". Lễ kỷ niệm giống như lễ kỷ niệm trước dây tại Hà Nội: cờ Việt Minh tung bay trong gió, mọi người hát những bài ca yêu nước và hô to "Việt Nam độc lập muôn năm". những đám đông diễu hành hoà bình trên đường phố. Tại những khu vực xa thành phố, những cuộc nổi dậy nhỏ hơn cũng được tiến hành. Một vài cuộc nổi dậy do các đơn vị nhỏ của Việt Minh lãnh đạo, những cuộc nổi dậy khác được dẫn dắt bởi các nhóm quần chúng đông đảo. Bà Nguyễn Thị Định nhớ lại vai trò của mình: "Trong suốt cuộc khởi nghĩa sôi động giành quyền kiểm soát thị xã Bến Tre, tôi được chỉ định mang cờ và chỉ huy hàng nghìn người trang bị dao, gậy, cờ, biểu ngữ và tranh cổ động màu đỏ, kéo vào thị xã. Đám đông đi với tốc độ nhanh khoảng mười cây số mà không nghỉ, nhưng tất cả mọi người đều không cảm thấy mệt và đói.

Hai cảnh tượng ở nông thôn và thành thị dường như lặp lại những cảnh tượng tại miền Bắc. Tuy nhiên cũng có nhiều sự khác nhau quan trọng. Ở miền Bắc, Hồ Chủ tịch lo ngại tổ chức Quốc Dân Đảng được Trung Quốc bảo trợ, nhưng ông được người Mỹ công nhận ngầm là người được giao bổn phận. Không may cho người dân miền Nam, ở Sài Gòn không có đại diện của Đồng Minh để chứng kiến thắng lợi của họ. Và khối liên minh giữa các nhóm phức tạp tranh giành quyền lực chỉ tồn tại được trong một thời gian ngắn. Khi quân Đồng Minh đến, tại Sài Gòn đã xảy ra đổ máu.

Thậm chỉ trước sự kiện đầu hàng của Nhật và các cuộc khởi nghĩa ở miền Nam, cả người Anh lẫn người Mỹ đều đã chuẩn bị quân để tiến vào Sài Gòn. Nhiệm vụ của Anh dường như rõ ràng: tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở miền Nam và chuẩn bị cho kẻ thù hồi hương. Nhiệm vụ của Mỹ mơ hồ hơn: quan tâm và tiến hành hồi hương cho các tù binh chiến tranh của Mỹ, bảo vệ tài sản không nhiều lắm của Mỹ, và giám sát "quyền lợi" của Mỹ. Phụ trách những nhiệm vụ này là Biệt đội 404, cũng có liên quan tới Chiến dịch EMBANKMENT, do trung tá Peter Dewey chỉ huy.

Tứ đầu tháng 8, OSS tiếp tục lập kế hoạch cho quá trình thâm nhập Sài Gòn, bao gồm một kế hoạch bắt liên lạc với một lực lượng viễn chinh xâm lược của Pháp gồm hai sư đoàn không vận theo tin đồn là đang ở Madagascar chuẩn bị tiến vào Đông Dương thuộc Pháp. Ngoại trừ việc tiếp xúc với các đại diện của Pháp phòng trường hợp tin đồn là sự thực, Dewey chuẩn bị một phái đoàn chỉ toàn người Mỹ. Vào ngày 14 tháng 8, anh ta phác thảo tám mục tiêu tình báo đối với Đông Dương, bao gồm thu thập thông tin kinh tế, chính trị, và yêu cầu mười ba nhân viên cho hoạt động này. Ngày 15 tháng 8, chi nhánh R&A thảo tỉ mỉ hơn nữa các mục tiêu của EMBANKMENT, "đặt ra những câu hỏi cho Dewey. Các câu hỏi xếp loại từ tình trạng của các nhóm vô thần và thái độ của Nhật đối với giáo phái Cao Đài và những câu hỏi nhấn mạnh hơn về "vị thế của Đông Dương trong Đế quốc Pháp".

Đặc biệt, R&A đề nghị Dewey nghiên cứu xem Việt Nam sẽ được trao quyền tự trị đến khu vực nào theo như chính sách hiện hành của Pháp và có hay không sự cộng tác công bằng trong "các dự luật của Đế Quốc" như đã được hứa hẹn. Hơn nữa, họ chỉ đạo Dewey phải xác định chắc chắn "lực lượng" nào sẽ quyết định "quan điểm" của Đông Dương trong những tháng tới. Ít ra cũng có một vài người trong OSS thực sự tin tưởng. thậm chí sau lệnh ngừng bắn, rằng các đặc vụ thuộc Biệt đội 404 hoạt động tại Đông Dương sẽ tập trung vào người Pháp và có lẽ sẽ làm việc trực tiếp với họ.

Dewey dường như là sự lựa chọn hoàn hảo để đứng đầu Biệt đội 404. Viên sĩ quan trẻ hăng hái đã học phổ thông tại Thuỵ Sĩ và tốt nghiệp Đại học Yale với hai chuyên ngành về ngôn ngữ và lịch sử Pháp. Sau khi tốt nghiệp anh ta làm thư ký cho Đại sứ H. R. Wilson tại Berlin và sau đó làm việc tại Paris cho nhật báo Chicago. Khi Đức tấn công Pháp, Dewey phục vụ trong Quân đoàn Cứu thương Quân sự của Ba Lan, nhận được hai huấn chương vì thành tích xuất sắc. Vào mùa hè năm 1941, được Văn phòng Điều phối viên thuộc Ban các nước Bắc-Nam Mỹ giao nhiệm vụ chuẩn bị một bản báo cáo tóm lược những ảnh hưởng của Pháp tại Châu Mỹ La tinh, một phần bản báo cáo anh đã trình lên tướng de Gaulle và các thành viên khác thuộc Chính phủ Pháp Tự do tại London.

Dewey hoạt động với cương vị là thông tín viên trong chuyến trở về Châu Mỹ La tinh, giao những lá thư từ chính quyền lưu vong của tướng de Gaulle cho chính quyền Pháp Tự Do tại Châu Mỹ La tinh và Trung Mỹ. Vào tháng 7 năm 1942, Dewey gia nhập Quân đội Mỹ với tư cách là một trung uý Không quân và được điều tới Bắc Phi. Tại đây từ tháng 10 năm 1942 đến tháng 5 năm 1943, anh ta hoàn thành "tám nhiệm vụ tình báo hoặc nhiều hơn", được tặng thưởng Huân chương Chiến công của Pháp, và trở nên "quen thân với nhiều nhân vật cấp cao của Pháp". Dewey gia nhập OSS vào tháng 7 năm 1943.

Hoạt động quan trọng nhất của anh ta với OSS trước khi được đưa tới Đông Dương thuộc Pháp là Sứ mạng Etoile, trong đó Dewey chỉ huy một đội đến miền Nam nước Pháp vào tháng 8 năm 1944. Etoile "gửi về những thông tin tình báo có giá trị trong thời gian trước khi Quân Đồng Minh đổ bộ đến vùng Riviera (vùng duyên hải Địa Trung Hải của miền Đông Nam nước Pháp sau đó cộng tác với các lực lượng của phong trào kháng chiến địa phương trong việc bắt giữ 400 tù binh Đức Quốc Xã và tiêu diệt ba xe tăng địch". Tháng 7 năm 1945, Dewey được chọn làm chỉ huy Chiến dịch EMBANKMENT.

"Kế hoạch Cơ bản cho Chiến dịch EMBANKMENT" của OSS cảnh báo: "Bởi vì chính sách của Mỹ đối với vấn đề Đông Dương bị người Pháp nghi ngờ là trái ngược với chính sách nô dịch hoá hoàn toàn nền kinh tế FIC của Pháp, nên các quan sát viên của Mỹ sẽ bị đánh giá với sự hồ nghi". Dựa vào khả năng có thể xảy ra nghi ngờ của Pháp, Peter Dewey là sự lựa chọn xuất sắc của các nhà lãnh đạo: nói tiếng Pháp trôi chảy, đã sống và làm việc tại Pháp, đã chiến đấu cho tự do của Pháp chống lại cuộc tấn công dữ đội của Đức, và đã quan hệ với rất nhiều thành viên của Chính phủ Pháp Tự Do và quân đội. Thêm vào đó, Dewey công khai ủng hộ sự nghiệp của Chính phủ Pháp Tự Do. Vào năm 1944, anh ta viết: "Các tình cảm của cá nhân tôi với sự tôn trọng đối với người Pháp luôn luôn là người Mỹ có thể và cần phải hiểu người Pháp. An ninh quốc gia chúng ta phụ thuộc vào một liên minh đo nhận thức thực tiễn". Mặc dù Dewey sắp xếp để đội của mình tới Sài Gòn vào tuần đầu tiên của tháng 9 nhưng anh ta không phải người Mỹ đầu tiên đến thành phố này.

Ngày 1 tháng 9, trung uý OSS Emile R.Counasse chỉ huy nhóm đầu tiên của EMBANKMENT tới Sài Gòn để đàm phán với chỉ huy Nhật về "việc giải thoát và sàng lọc các tù binh chiến tranh và các tù binh dân sự Mỹ". Nhóm rời khỏi Rangoon, đội gồm ba người Mỹ, đại uý Woolington, các trung sĩ Nardella, Hejna và Paul, nhân viên điện đài người Thái. Ở điểm dừng tiếp nhiên liệu tại Băng Cốc, đại uý Fitzsimmons, một cựu tù binh chiến tranh và thiếu tá Pierce của quân đội Anh gia nhập vào đội của Counasse. Nhóm những người Mỹ và Paul họp với nhau ngay từ đầu thì giữa Counasse và viên sĩ quan người Anh chẳng mấy chốc phát sinh các vẩn đề rắc rối. Counasse báo cáo:

Trong chuyên đi tới Sài Gòn, thiếu tá Pierce bắt đầu tuyên bố những quy định tôi phải tuân theo. Tôi thông báo cho ông ta rằng tôi sẽ vui lòng làm việc cùng ông ta chứ không phải làm việc cho ông ta. Sau đó ông ta tự rút ra khỏi nhóm của chúng tôi. loại trừ một lần thoáng thấy ông ta vài ngày sau đó lần cuối cùng tôi trông thấy thiếu tá Pierce là khi ông ta đang phát biểu trước một khách sạn trước những người Pháp sau khi chúng tôi đến Sài Gòn. Mặc dù nói tiếng Pháp rất tốt nhưng thiếu tá Píerce lại phát biểu về vinh quang của đế quốc Anh bằng tiếng Anh.

Vì vậy những khó khăn giữa OSS và người Anh sớm nảy sinh, nhưng không phải với Peter Dewey như được khẳng định sau đó. Mặc dù mối quan hệ giữa các Đồng Minh căng thẳng nhưng phái đoàn Mỹ ngạc nhiên một cách thích thú bởi những ảnh hưởng đầu tiên của họ đối với kẻ thù bị đánh bại. Người Nhật chào đón cả nhóm tại sân bay với "thái độ lịch sự" và quan tâm đến mọi yêu cầu của Mỹ với rất ít sự kích động. Từ sân bay những người Mỹ được đưa tới "sở chỉ huy" mới của họ tại khách sạn Continental, tại đây họ được chào đón "bởi nửa số dân da trắng tại Sài Gòn", những người coi người Mỹ như "lộc trời cho".

Trong khi Hejna, Nardella và Paul tiến hành lắp đặt trạm điện đài của họ thì Counasse, Fitzsimmons và Woolington đi tới trại tù binh chiến tranh và họ nhận thấy các tù nhân trong tinh thần thoải mái và sức khỏe khá tốt. Mặc dù công việc chủ yếu của nhóm Counasse trong năm ngày sau sẽ tập trung vào việc chuẩn bị và sắp xếp cho các tù binh hồi hương, nhưng họ không thể phớt lờ tình hình chính trị quanh họ.

Counasse và Nardella gửi báo cáo thường xuyên cho Dewey tại Rangoon để tóm lược tình hình nơi anh ta sắp đến. Ngày 2 tháng 9, sau chuyến thăm trại tù binh chiến tranh lần đầu, Counasse quay trở lại khách sạn và thấy "người dân An Nam của Sài Gòn trong một cuộc biểu tình lớn":

Chúng tôi được báo rằng có từ 30.000 tới 40.000 người tham gia, và điều này dễ dàng tin được sau khi nhìn thấy họ. Tất cả bọn họ đều trang bị vũ khí theo một kiểu. Nhưng người chỉ huy đeo gươm và súng ngắn của Nhật. Vài người khác được trang bị súng ngắn, súng kíp cổ, một số súng trường Nhật và một bộ sưu tập pha tạp các loại vũ khí cũ. Đa số bọn họ có những cọc tre dài vót nhọn một đầu. Họ bắt đầu diễu hành khoảng giữa buổi sáng, và tiếp tục suốt ngày. Các biểu ngữ căng ngang qua những con phố khắp mọi nơi trong thành phố với khẩu hiệu được viết bằng tiếng Pháp, An Nam, và tiếng Anh. "Đả đảo phát xít Pháp!", "Đả đảo chủ nghĩa phát xít Pháp!", "Tự do hay là chết!" "Độc Lập hay là chết!" "Chào mừng Đồng Minh!", "Chào mừng những vị cứu tinh!"… Tầm giữa buổi chiều cuộc biểu tình càng đông hơn nhưng vẫn rất có trật tự.

Mặc dù mọi thứ dường như "rất có trật tự" nhưng người Việt Nam hoàn toàn khiến Counasse phát điên khi họ chĩa súng chặn anh ta lại khi anh ta trên đường về khách sạn.

Càng làm cho tình hình xấu thêm, Counasse rút khẩu súng ngắn 32 và người lính đã ngăn anh ta ngay lập tức đánh rơi khẩu súng trường và bỏ chạy. Khi Counasse tiếp tục đi về phía khách sạn Continental, năm người lính khác lại rút vũ khí; và sau đó bốn người đánh rơi súng trường rồi bỏ chạy, người thứ năm đứng nguyên. Tuy nhiên, "sau khoảng mười phút tranh cãi", Counasse "thuyết phục anh ta rằng chúng tôi" là người Mỹ và là những người trung lập, vì thế chúng tôi có quyền đi qua nơi nào chúng tôi muốn".

Tại khách sạn mọi việc dường như nghiêm trọng hơn. Cuộc biểu tình đã trở thành "một đám đông bạo lực" và "vài trăm" người dân Pháp đã tìm nơi ẩn náu trong khách sạn. Đại uý Fitzsimmons vội kể cho Counasse về tin đồn rằng "người An Nam đã tuyên bố ý định của họ là giết mọi người da trắng tại Sài Gòn vào đêm đó, mục tiêu tiếp theo của họ là khách sạn". Counasse yêu cầu Nhật bảo vệ, ngay lập tức họ trả lời sẽ đặt một lính gác bên ngoài mỗi phòng người Mỹ nhưng sẽ không bảo vệ khách sạn nói chung. Rõ ràng, người Nhật cho rằng họ chỉ có trách nhiệm bảo vệ các nhân viên và tài sản thuộc Đồng Minh - người Anh và người Mỹ - chứ không có trách nhiệm bảo vệ kiều dân Pháp tại Sài Gòn. Do đó, Counasse quyết định "mua" khách sạn và các khu vực phụ.

Ông chủ khách sạn rất vui mừng khi bán được nó. Khách sạn Continental trở thành tài sản của Mỹ, và Nhật vội tuân theo mệnh lệnh của Counasse là cung cấp sự bảo vệ hoàn toàn.

Các nguồn thông tin Pháp của Counasse thuyết phục anh ta rằng nhờ hành động của anh ta và sự bảo vệ sau đó của Nhật nên những người lánh nạn Pháp được an toàn. Counasse kết luận rằng việc nắm quyền chủ khách sạn và việc sử dụng binh lính Nhật "đã ngăn" người Việt "đến mục tiêu của họ, khách sạn Continental". Theo yêu cầu của Counasse, thêm 1.000 lính Nhật đi tuần tra các con phố của Sài Gòn đã khiến tình hình trở lại yên tĩnh vào khoảng 11 giờ đêm.

Khi đường phố đã yên tĩnh trở lại, Woolington, Hejna và Fitzsimmons đưa mười phụ nữ Pháp về nhà để "tìm con cái". Trên đường đi, họ được thông báo có hai người Mỹ đang bị người Việt Nam giữ tại đồn cảnh sát địa phương. Mặc dù nghi ngờ thông tin này nhưng họ vẫn đi đến nhà giam để tận mắt xem xét. Với lý do người Mỹ có thể bị giữ bên trong, cả nhóm được vào kiểm tra các phòng giam. Mặc dù rõ ràng không thấy người Mỹ nào ở đó nhưng Woolington, "là một bác sĩ, đã rất nổi giận vì điều kiện của những người Pháp và cách họ bị giam giữ", và anh ta yêu cầu lời giải thích. Mặc dù viên cai tù người Việt cố gắng giải thích rằng cuộc đấu tranh vì độc lập của người Việt cũng tương tự như của Mỹ nhưng Woolington không hề cảm động. Anh ta lên lớp cho người đàn ông kia về nghị định thư về tù binh và lớn tiếng de đoạ về sự không bằng lòng của Đồng Minh.

Bác sĩ Woolington nói nếu phụ nữ và trẻ em Pháp không được tha ngay thì anh ta sẽ báo cáo việc này tới các chính quyền Mỹ, Anh, Nga và Trung Quốc. Anh ta chắc chắn là quân đội Mỹ sẽ can thiệp. Nếu người An Nam mong đợi được công nhận là một nước cộng hoà thì họ sẽ phải sửa đổi đường lối rất nhiều. Sau đó viên cai tù tuyên bố rằng anh ta mong được làm theo các chuẩn mực của Mỹ và anh ta sẽ tha các tù nhân ngay lập tức.

Nhóm người Mỹ rời nhà giam với khoảng gần 200 phụ nữ, trẻ em Pháp và họ được cho ở lại qua đêm tại khách sạn Continental. Tù nhân nam được tha vào sáng hôm sau.

Tới lúc đó, cả Counasse lẫn Woolington đều nhận ra vị thế là người Mỹ của họ đem lại kết quả nhanh chóng đối với người Việt. Tuy nhiên, sự nhầm lẫn ngày 3 tháng 9 đối với nhân dạng của Counasse đã làm thay đổi đáng kể quan điểm của anh ta về tình hình. Được một lãnh sự người Italia báo tin (sai) rằng mười dân thường Mỹ bị nhốt tại Mỹ Tho, một thành phố cách Sài Gòn gần 45 dặm, Counasse và một nhóm nhỏ, có cả hai phụ nữ Pháp, bắt đầu lên đường. Cách thành phố khoảng gần 10 dặm họ bị chặn lại và "khoảng 100 đến 150 người An Nam trang bị súng kíp cổ, súng ngắn và gậy tầm vông vây quanh chướng ngại vật". Counasse và binh lính ra khỏi xe Jeep để xem xét và nhanh chóng bị tước vũ khí, lục soát trói giật cánh khuỷu. Counasse tường thuật lại:

Sau khi tất cả chúng tôi bị trói, chỉ huy của họ tiến lại gần để xem chúng tôi là ai. Tôi nói anh ta nhìn tấm thẻ căn cước trong ví của tôi, nhưng không có tác dụng gì vì nó được viết bằng tiếng Anh mà họ thì không thể đọc được. Sau một hồi trao đổi và tranh cãi, cuối cùng viên lãnh sự người Italia mới làm cho họ hiểu rằng họ nên xem giấy căn cước của ông ta để trong túi quần… Cuối cùng chúng tôi cũng được tha sau khi bị giữ làm tù binh khoảng hai tiếng đồng hồ.

Cả nhóm lại tiếp tục lên đường tới Mỹ Tho và họ bị chặn lại hai lần nữa. Nhưng tại hai "điểm dừng" sau họ không gặp rắc rối gì trong việc chứng minh quốc tịch, cũng không bị hành hạ hay cản trở gì. Tuy nhiên vì thấy mặt trời sắp lặn nên Counasse quyết định quay trở lại Sài Gòn và sẽ đến Mỹ Tho vào hôm khác. Trong báo cáo nhiệm vụ, Counasse viết: "Cảm giác của tôi khi bị bắt làm tù binh là: "Điều này không thể xảy ra đối với tôi. Chiến tranh đã kết thúc".

Tâm trạng của Counasse là tâm trạng điển hình của nhiều người Mỹ khác, những người được người Việt Nam đối xử với thái độ khâm phục và tôn trọng sâu sắc nhất. Nói chung, là người chiến thắng trước hai kẻ thù ghê gớm - Đức và Nhật - nên lính Mỹ mong phải được đối xử như vậy trong mọi trường hợp. Sự mong đợi này sau đó sẽ gây ra thương tích cho một thành viên thuộc Biệt đội 404, và sẽ chứng tỏ sự tác hại đối với một người khác nữa. Tuy nhiên, trong vài ngày sau Counasse cùng đội của mình tiếp tục chuẩn bị di tản các tù binh chiến tranh, phần lớn là không có rắc rối gì. Mặc dù những báo cáo của đội phần lớn là lạc quan về vai trò của Nhật, nhưng Hejna kết luận rằng Nhật đáng bị khiển trách vì những cuộc khởi nghĩa tại Sài Gòn. Những cuộc biểu tình vào ngày 2 tháng 9 đã "được sắp đặt" để "gây khó khăn và khiến chúng tôi mất mặt trong con mắt người Nhật và người An Nam". Anh ta nói thêm. "Tôi tin là Nhật hài lòng với tình trạng này". Những thành viên khác của đội lại khen ngợi thái độ của Nhật nhưng tiếp tục lưu ý những khó khăn với "cuộc cách mạng dược phẩm" của Việt Nam, mặc dù mối quan hệ với người Việt của họ được cho là "rất tốt". Trung sĩ Nardella viết: "Sự nắm quyền của họ (người Việt Nam) lúc này đã hoàn tất, việc họ cướp bóc, gây hấn cộng đồng người Pháp sau khi đã giành được những gì họ mong mỏi nhất xem ra rất không thích hợp".

Trong vài ngày ở Sài Gòn, Biệt đội 404 cố gắng thu thập cho Dewey danh sách các nhóm người Việt có dính dáng đến những cuộc khởi nghĩa. Có 4 nhóm chính là: nhóm Dân Chủ Xã hội đã lập nên Việt Minh, Quốc Dân Đảng, Đảng Cộng sản và phái Cao Đài. Được chú ý đặc biệt là phái Cao Đài, mà theo mô tả của người Mỹ là nhóm tôn giáo "chống người da trắng" có nhiệm vụ "khủng bố tất cả". Tuy nhiên, những báo cáo của Mỹ đều thừa nhận "tất cả thông tin của chúng tôi đều xuất phát từ dân phương Pháp vốn luôn có thành kiến". Ngày 4 tháng 9, Counasse đón Peter Dewey và nhân viên của mình đền Sài Gòn và thông báo sơ lược những thông tin đã thu thập được, bao gồm những tin đồn đáng lo ngại về một cuộc biểu tình khác. Những người cung cấp tin báo rằng người Việt đang "cất giữ nhiều súng đạn trong hòm và các phần mộ và sẽ đào lên vào thời điểm thích hợp". Theo những chuyện ngồi lê đôi mách, "họ thậm chí còn đặt bia trên những phần mộ để làm cho chúng trông như thật". Counasse lưu ý rằng các thành viên của Biệt đội 404 đã trực tiếp quan sát "vài đám tang được sự hộ tống của khoảng hai mươi tay súng đi phía trước và sau với những quan tài nhỏ" nhưng việc xác định thực hư sẽ là phần của Dewey và các nhân viên của anh ta. Một vấn đề khiến Dewey quan tâm đặc biệt đó là nguồn vũ khí của người Việt Nam. Counasse tin rằng trách nhiệm chủ yếu về việc này thuộc về Nhật. Trong báo cáo tóm tắt đầu tiên Dewey thông báo: Nhật đã lấy được trang thiết bị của Anh thả dù xuống Sài Gòn trước thoả thuận đình chiến.

Họ đang bán đống vũ khí, bao gồm tất cả các loại, từ súng tiểu liên Ten cho tới súng tự động Webley, cho người An Nam, những người tuyên bố dự định tiến hành một cuộc cách mạng". Tin dồn trong những đầu mối liên lạc của Pháp có xu hướng củng cố những quan ngại này. Chắc chắn những chuyện trên vừa làm tăng nỗi sợ hãi của Pháp rằng Nhật dự định ủng hộ tích cực cho nỗ lực giành độc lập của Việt Nam vừa làm mất uy tín của quân Nhật bại trận đã tuyên bố hợp tác. Nhà báo Mỹ Harold Issacs đã nhận ra rằng nhiều người Pháp mà ông phỏng vấn ngay sau khi Nhật đầu hàng hoàn toàn không thể tưởng tượng được là người Việt Nam có khả năng thực hiện một cuộc khởi nghĩa chống Pháp và tin chắc rằng các hành động đầu tháng Chín có thể chỉ là tác phẩm của Nhật. Trong cuộc đối thoại với một cảnh sát Pháp, Issacs bình luận dường như đối với ông tình thế hiện nay là "một phong trào của người An Nam, những người không muốn Pháp quay trở lại đất nước họ". Viên cảnh sát này "đã nhảy phắt lên vì kích động" và vặn lại, "Tất cả những người này được Nhật trả tiền, được Nhật trang bị vũ khí, và bị Nhật xúi giục… Đó chính là một phong trào của Nhật chống lại Đồng Minh, không còn gì khác hơn".

Trong những tháng sau khi Chiến tranh thế giới 2 kết thúc và cả những năm sau đó, rất nhiều cuộc tranh cãi tiếp tục trong các phạm vi chính trị và quân sự tại Pháp, Mỹ và những nơi khác về mối quan hệ giữa người Nhật và người Việt và có hay không việc Nhật cung cấp vũ khí cho các nhóm người Việt, cụ thể là cho Việt Minh. Phần lớn những nguồn tin đều có khuynh hướng đồng ý rằng người Việt thu được vài vũ khí của một số lính Nhật bất mãn - tuy nhiên, mức độ giúp đỡ chắc chắn thì lại thay đổi đáng kể. Vài người cho rằng sự giúp đỡ của Nhật thượng là thăm dò khi ủng hộ cuộc xung đột giết hại lẫn nhau giữa các nhóm của Việt Nam. Lời buộc tội nghiêm trọng hơn còn cho rằng Nhật trang bị vũ khí cho tù nhân người Việt gần đây được phóng thích khỏi những nhà tù và "các trại trừng giới" của Pháp; sau đó những người này đã sử dụng vũ khí để "cướp bóc dân chúng" tại miền Nam.

Trong khi những lời buộc tội cho rằng sự ủng hộ là của những lính Nhật thì cả hai nhà sử học David Marr và Stein Tonnesson đều kết luận rằng các sĩ quan Nhật chỉ cung cấp một ít vũ khí cho Việt Minh. Cuối tháng Tám, trước khi quân Đồng Minh đến, các ông Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Thạch và Nguyễn Văn Tạo, đại diện cho "Uỷ ban Hành pháp của Việt Minh tham gia buổi họp bí mật đầu tiên trong số năm đêm họp với những giới chức cao cấp của rihật… Kết quả quan trọng nhất sau những cuộc gặp bí mật tại Sài Gòn này là sự nhượng lại một lượng vũ khí cho các nhà chức trách cách mạng". Tuy nhiên, theo ông Trần Văn Giàu, người được Marr phỏng vấn vào năm 1990, những vũ khí này chủ yếu là của Pháp. Nói chung, Marr nhận thấy, mặc dù "một vài sĩ quan Nhật chuẩn bị chuyển giao những kho vũ khí thu được của Pháp" nhưng không hề có "sự sẵn sàng chấp nhận tối hậu thư, đặc biệt về các vũ khí và trang thiết bị của Nhật". Điều này có lẽ được thống chế Terauchi Hisaichi minh hoạ rõ nét nhất. Ông là người tỏ ra rất thông cảm với sự nghiệp của Việt Minh, tuy nhiên vẫn không hề dao động trong việc phục tùng mệnh lệnh cấp trên. Ông Trần Văn Giàu nhớ lại cuộc đối thoại tháng Tám năm 1945 với vị thống chế này. "Các ông thất bại, bây giờ đến lượt chúng tôi đánh nhau với những tên đế quốc da trắng". Đáp lại Teraushi trả lời rằng "Mệnh lệnh từ Hoàng đế Showa không cho phép ông ta trao vũ khí của quân đội Nhật Hoàng cho bất cứ ai ngoại trừ Đồng Minh", ông nói thêm, "còn trang thiết bị đã tịch thu của Pháp có lẽ lại là một vấn đề khác. Vì vậy, trong một hành động bày tỏ thiện chí, Teraushi đưa cho ông Phạm Ngọc Thạch thanh gươm ngắn và cho ông Trần Văn Giàu khẩu súng lục ổ quay bằng bạc". Jean Cédile, đại diện được uỷ quyền của Pháp tại Nam Kỳ, buộc tội người Nhật không chỉ ủng hộ về tinh thần và vũ khí cho Việt Minh mà còn đấu tranh sát cánh với họ. Trong một cuộc phỏng vấn với Peter Dung, ông ta tuyên bố:

Người ta không được quên được rằng trên thực tế những người Nhật này đã trang bị vũ khí cho du kích Việt Nam. Nhật trang bị vũ khí và huấn luyện họ chống lại chúng tôi và đó chính là lý do chúng tôi rất nhanh chóng nhận ra du kích Việt Nam chiến đấu chống lại chùng tôi và thậm chí ở nhiều nơi chúng tôi còn thấy người Nhật đang chỉ huy đội đặc công người Việt. Tôi không chắc là Chính phủ Nhật có biết việc đó hay không nhưng tôi tin chắc rằng họ hẳn đã có ý niệm mơ hồ về việc này, nhưng họ luôn phủ nhận khi được hỏi.

Mối quan tâm về địa điểm kho vũ khi Nhật và các khả năng có thể về những lính Nhật đào ngũ chiến đấu cùng Việt Minh không chỉ giới hạn ở miền Nam. Ngày 12 tháng 8, sở chỉ huy OSS tại Côn Minh nhận được nhiều báo cáo những đội viên du kích thân Nhật nắm giữ khu vực từ Lạng Sơn cho tới biên giới Trung Quốc, "tất cả đều trang bị vũ khí và do những hạ sĩ quan và sĩ quan Nhật chỉ huy". Ngày 18 tháng 8

Helliwell thông báo cho cấp trên tại Trùng Khánh về "các nguồn tin chính xác của Pháp và An Nam nói rõ rằng uỷ ban Trung ương đang tiến hành đàm phán với các giới chức quân sự Nhật địa phương về việc mua bán vũ khí và đạn được để sử dụng nếu người Pháp và người Trung Quốc cố chiếm lại những khu vực của họ". Khoảng cuối tháng, báo cáo này được một "quan chức cấp cao của Thái" chứng minh và được gửi tới Washington. Báo cáo khẳng định rằng "việc Nhật trao vũ khí cho người An Nam là một phần trong chính sách Đại Đông Á và người An Nam có thể và sẽ không từ bỏ cuộc đấu tranh du kích trong nhiều năm… người An Nam và người miền Nam Trung Quốc bề ngoài giống người Nhật hơn bất cứ sắc dân Đông Nam Á nào khác và người Nhật có thể hoà lẫn vào hàng ngũ du kích An Nam. Những ước lượng về số lính Nhật "hoà lẫn" vào hàng ngũ người Việt cũng thay đổi. Các nhà sử học Joseph Buttinger và William Duiker tin rằng chỉ có một vài cá nhân đào ngũ. Stein Tonnesson kết luận rằng "vài trăm lính dào ngũ để tiếp tục cuộc chiến chống người châu Âu với tư cách là cố vấn cho Việt Minh, hoặc cho các đội quân của phái Cao Đài và Hoà Hảo".

David Marr đồng tình với ý kiến này và nói thêm rằng số lính đào ngũ đặc biệt nhiều ở miền Nam. Những người khác ước tính con số còn cao hơn rất nhiều. Cecil Currey, John Mcalister và Murakami Hoe tin rằng số lính đào ngũ là từ 1.500 cho tới 4.500. Đa phần những nguồn tin đồng ý rằng các lính đào ngũ Nhật có dính dáng đến việc huấn luyện các đơn vị của Việt Minh và đặc biệt rất thạo hướng dẫn sử dụng vũ khí và tổ chức điều kiện thuận lợi cho việc chế tạo và sửa chữa các thiết bị nhỏ và hậu cần. Mỗi người lính đào ngũ "đều được đặt một cái tên Việt và được khuyến khích để hoà hợp với nhau". Cả Currey và Mcalister đều cho đó là một vai trò thậm chí gây ấn tượng sâu sắc hơn đối với người Nhật. Theo như lời Currey, tướng Giáp đặc biệt tuyển được "1.500 nhân viên quân sự Nhật chống người da trắng cuồng nhiệt. Họ đã giúp đỡ ông sau khi Nhật đầu hàng". Currey mô tả những người bỏ trốn:

Những người lình này do 230 sĩ quan không chính thức và 47 hiến binh Nhật chỉ huy, tâí cả bọn họ đều bí Đỏng Minh yêu cầu trả lời về những lời buộc tội nghi ngờ họ là tội phạm chiến tranh. Cả nhóm do đại tá Nukayama thuộc ban tham mưu Đạo quân Thiên Hoàng 38 chỉ huy. Võ Nguyên Giáp đã sắp xếp cho tất cả bọn họ nhập quốc tịch Việt Nam. Nukayama trở thành một người ủng hộ trung thành của tướng Giáp và sẵn sàng phục vụ khi được yêu cầu.

Tỷ lệ thương vong rõ ràng cao trong số lính dào ngũ Nhật, và chỉ "một vài người sống sót âm thầm quay trở về Nhật Bản vào cuối những năm 50". Điều chắc chắn là ít nhất có vài lính Nhật đã đào ngũ và gia nhập Việt Minh. Các báo cáo tình báo OSS sau khi Nhật đầu hàng ước tính phần lớn lính đào ngũ ở "cấp bậc trung bình" và không "nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tokyo hoặc của bất cứ sự chỉ huy cao cấp nào" và họ là "những kẻ tự tư tự lợi". Những động cơ của họ, theo như OSS có quá ít để làm việc với GEACPS. Thay vì thế, OSS lập luận rằng lính Nhật đào ngũ ngày càng tăng lên bởi vì điều kiện sống ngày càng khó khăn, nhuệ khí thấp là do sự trông mong chờ đợi buồn chán trước khi được trở về nước, vì cuộc nói chuyện về tội phạm chiến tranh ngày càng tăng lên, vì nỗi sợ hãi và thái độ khinh bỉ của người Pháp, và vì "nỗi thất vọng chung về việc tạo dựng được một cuộc sống tươm tất trong nhiều năm trời". Tuy nhiên, vào tháng 8 và đầu tháng 9 năm 1945, các thành viên của OSS quan tâm tới việc Nhật có đang chuyển giao vũ khí cho người Việt hay không hơn là khả năng lính đào ngũ Nhật tham gia vào Việt Minh.

Tại Hà Nội, Patti nhận thấy "ba hoặc bốn nghìn lính Nhật biến mất trong phong trào bí mật ủng hộ châu Á", nhưng ông tập trung chú ý vào thông tin tình báo nói rằng Nhật đang bán vũ khí, đạn được cũng như thóc gạo, đồ đạc, và trang thiết bị cho người Việt. Dường như tình báo của Patti đã đúng. Trong một cuộc phỏng vấn với David Marr, thống sứ Nishimura Kumao nhớ lại lời đề xuất của ông ta với các đại diện Việt Minh: "Các loại súng có thể mua được một cách không chính thức từ các đơn vị của Nhật ở xa thành phố, dù là tất cả vũ khí cần phải nộp chính thức cho các đại diện của Đồng Minh". Patti cảnh báo người Nhật về trách nhiệm của họ là phải giữ đúng luật, đúng trật tự và phải giao nộp tất cả trang thiết bị quân sự cho các nhà chức trách hợp thức thuộc Đồng Minh. Khi bị buộc tội không thực hiện đúng yêu cầu, người Nhật ngay lập tức cam đoan với Patti rằng "các biện pháp kỷ luật khắt khe" sẽ được thực hiện đối với những ai vi phạm quy định bảo vệ các trang thiết bị. Tuy nhiên, thông tin "vài lính Nhật đang bán vũ khí của họ cho người An Nam" tiếp tục tới sở chỉ huy của OSS trong suốt cả tháng. Patti không phải là sĩ quan Mỹ duy nhất tại Hà Nội thêm phiền về người Nhật.

Tướng Galllagher viết: "Tôi khá chắc chắn việc chuyển giao vũ khí này là một hành động cố ý của một phần người Nhật nhằm trao vào tay người An Nam những loại vũ khí cần thiết để gây ra các cuộc bạo động chống Pháp, và để gây rối cho Lư Hán".

Rõ ràng, vài người Nhật đã cung cấp - cả dưới hình thức quà tặng lẫn - một số vũ khí cho Việt Minh, nhưng chắc chắn không nhiều đến mức như người Pháp vì quá sợ hãi những cuộc cách mạng sớm lan ra các thành phố, khẳng định. Điều này được chứng thực bởi "lời thừa nhận" của nhà sử học Việt Minh Trường Chinh: "Điểm yếu thứ hai trong Cuộc Cách Mạng Tháng Tám là sự thất bại trong việc thu giữ toàn bộ vũ khí của quân đội Nhật vào giờ khởi nghĩa trước khi Đồng Minh đến". Chắc chắn phần lớn vũ khí mà Việt Minh giành được từ Nhật là số vũ khí thu của Pháp được các sĩ quan cấp dưới và binh lính Nhật chuyển giao cho quân cách mạng. Mặc dù cả vũ khí và lính đào ngũ Nhật rõ ràng là nguyên nhân gây nên mối quan ngại trong lực lượng Đồng Minh, nhưng cả hai đều không góp phần quyết định đối với những cuộc cách mạng lan ra hai miền Nam Bắc. Quan trọng hơn nhiều là sự thiếu hoạt động của chỉ huy cấp cao Nhật khi Việt Minh giành quyền kiểm soát Hà Nội và cố gắng hành động tương tự cùng liên minh các đảng phái tại Sài Gòn. Chắc chắn người Pháp và người Anh sẽ thích hơn, còn người Mỹ có thể thấy cuộc sống của họ dễ chịu hơn nếu Nhật vẫn duy trì quyền kiểm soát hoàn toàn tất cả các toà nhà và phương tiện cho tới khi quân Đồng Minh tới. Thật rõ ràng có sức mạnh hơn để làm được việc đó nhưng họ chịu thua trước Việt Minh yếu hơn rất nhiều. Điều này gây ra một số vấn đề quan trọng tại Hà Nội, nơi quân Tưởng có nhiệm vụ tiếp nhận sự đầu hàng tại miền Bắc, và "người Mỹ tỏ ra sẵn sàng làm việc với Việt Minh. Tại Sài Gòn tình hình lại khác rất nhiều, như Dewey sau đó đã nhận ra. tháng ngày đầu tiên đội của Dewey có mặt tại Sài Gòn trôi qua không có rắc rối gì. Mặc dù những tin đồn vẫn còn, nhưng anh ta và Counasse tiếp tục xem xét các vấn đề xung quanh chuyện hồi hương của tù binh chiến tranh Mỹ và nhận được nhiều sự giúp đỡ từ phía Nhật cũng như kiều dân Pháp.

Cũng như ở Hà Nội, Việt Minh tại Sài Gòn tiếp tục được khích lệ bởi sự hiện diện của người Mỹ. Sau ngày Dewey đến Sài Gòn, tờ báo duy nhất lúc đó được xuất bản tại Sài Gòn in một bản tin phát hành trước đó hai ngày tại Hà Nội. Tiêu đề bài báo là: "Hai đại diện Mỹ khuyên Việt Nam chống xâm lược đến hơi thở cuối cùng". Trong bài báo ngắn những người Mỹ được trích dẫn là đã khuyên người Việt Nam "hãy chiến đấu đến giọt máu cuối cùng trong cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược của ngoại bang để giành lại nền độc lập".

Rõ ràng, các quan chức Việt Nam chào đón bất cứ khán giả nào họ có thể sử dụng được trong các thành viên của biệt đội Mỹ. Các báo cáo đầu tiên của OSS từ Sài Gòn nói về biểu hiện tình bạn của Việt Nam đối với quân Đồng Minh (đặc biệt là người Mỹ và người Anh) và công khai yêu cầu Mỹ ủng hộ.

Đội quân Anh đầu tiên đến vào ngày 6 tháng 9 làm tăng thêm nhận thức của Việt Minh về tình hình bất ổn trong việc nắm chính quyền của họ. Mặc dù Việt Minh hy vọng thiết lập những mối quan hệ tốt đẹp với người Anh nhưng họ có lý do chính đáng để luôn thận trọng. Họ sợ rằng vai trò của Anh với tư cách là một cường quốc thực dân sẽ công khai ủng hộ Pháp quay lại nắm quyền. Việt Minh hy vọng người Mỹ có thể hành động như một đối trọng và ngăn chặn sự trở lại có vẻ sắp diễn ra của Pháp.

Lịch đến Sài Gòn của Anh đã bị hoãn lại bởi người Mỹ - mặc dù không phải vì mong muốn ủng hộ Việt Minh. Quân Anh theo lịch đến Sài Gòn vào ngày 2 tháng 9. Tuy nhiên, ngày 20 tháng 8 tướng Douglas MacArthur hoãn tất cả các kế hoạch giải giáp quân đội Nhật cho tới sau nghi lễ đầu hàng chính thức tại Vịnh Tokyo, ban đầu dự định vào ngày 28 tháng 8. Thời tiết khắc nghiệt đã làm chậm trễ việc ký kết cho tới tận ngày 2 tháng 9. Do đó, quân đội Anh đến Sài Gòn chậm hơn so với dự kiến. nhiều người Anh và Pháp sau đó kết luận rằng "nếu không phải vì MacArthur, Anh sẽ có mặt tại Sài Gòn sớm hơn, trước khi Việt Minh có thể củng cố quyền lực. Và nếu như người Mỹ không kịch liệt phản đối nỗ lực quay trở lại Đông Dương của Pháp, điều tương tự cũng có thể được biện hộ cho việc chiếm đóng Hà Nội".

Có hay không sự hiện diện của quân đội Anh tại Sài Gòn sẽ hoặc có thể ngăn chặn được cuộc biểu tình và những rắc rối sau đó vào ngày 2 tháng 9 còn đang được bàn cãi. Điều chắc chắn là vào đầu tháng 9, những người Mỹ có mặt tại Sài Gòn không quá mức bận tâm đến sự có mặt của người Anh hoặc những ý định của họ. Bấy giờ Biệt đội 404 do Dewey chỉ huy bắt đầu hoàn tất công tác liên quan tới các tù binh chiến tranh, bảo vệ tài sản của Mỹ, và thu thập thông tin tình báo.

Trong lúc đó, các thành viên khác trong đội của Dewey đến Sài Gòn, trong đó có binh nhất George Wickes và đại uý Frank White.

Vào tháng 8 năm 1945, George Wickes ở Rangoon với tư cách là thành viên chi nhánh SI thuộc OSS. Anh ta học tiếng Việt tại Chương trình Đào tạo Chuyên môn Quân đội và chớp ngay cơ hội gia nhập đội quân đến Sài Gòn. Wickes nhớ lại khi anh ta tới gặp Dewey để nhận nhiệm vụ, vị chỉ huy này dường như không ấn tượng gì với vốn tiếng Việt của anh ta.

Thay vào đó, Dewey kiểm tra khả năng nói tiếng Pháp của Wickes. Được bà mẹ người Bỉ dạy cho thông thạo hai thứ tiếng và Wickes được chấp nhận. Thời gian sau, anh ta được điều tới Sài Gòn với một nhiệm vụ không chính thức.

Không giống như Wickes, Frank White được Dewey tuyển mộ để tham gia vào Chiến dịch EMBANKMENT. White, cựu phóng viên của AP, được OSS chiêu mộ năm 1943 trong khi đang công tác tại bộ tham mưu ở Fort Knox với nhiệm vụ biên tập tờ báo Annored Fort News cũng như phát biểu của viên tướng. Tháng 7 năm 1945 anh ta là một trong số nhiều người đã mãn nhiệm và nhận ra mình có mặt tại một "trại giam" ở Rangoon. Từ đó, anh ta bay cùng với Wickes tới Sài Gòn.

HCM16

Lực lượng Việt Minh cầm súng cacbin M-l của Mỹ đứng gác cạnh một chiếc xe Jeep treo cờ Mỹ và cờ Anh.

 

Trong khi lưu lại thành phố miền Nam, White viết phần lớn các bức điện chung chung giữa Chiến dịch EMBANKMENT với cấp trên của nó. Dewey tự viết phần lớn các báo cáo nhanh, được Wickes ghi thành mật mã.

Sau khi Counasse và nhóm của anh ta ra đi, Dewey và những thành viên còn lại của Biệt đội 404 chuyển từ khách sạn Continental tới một biệt thự ở vùng ngoại o thành phố trước đây thuộc về một đô đốc hải quân Nhật. Từ nơi đó, Wickes gửi những bức điện do White và Dewey viết về tổng hành dinh OSS trình bày tỉ mỉ các hành động của đội và "mọi sự phát triển chính trị tại miền Nam Việt Nam". Bận rộn với công việc, lúc đầu Wickes không thể thường xuyên ra khỏi khu biệt thự. Tuy nhiên, anh ta luôn được những thành viên khác của đội, những người "vẫn để mắt" tới các hoạt động của người Pháp, Anh, Việt Nam, Nhật Và Trung Quốc, cập nhật thông tin. "Tất cả bọn họ bị hút vào trong bầu không khí cuồng nhiệt với những sự kiện đang lan khắp Sài Gòn và chỉ nói chuyện về vấn đề đó khi họ quay trở về biệt thự", Wickes nhớ lại. Anh ta bổ sung thêm: "Trung tá Dewey kể cho tôi hầu hết mọi chuyện, và tôi bị ấn tượng bởi mô tả của ông về những gì đang diễn ra… Điều khiến tôi ấn tượng nhất là cách hiểu của ông về các thủ đoạn chính trị phức tạp của nhiều cá nhân và các thành phần đại diện tại Sài Gòn". Mặc dù Wickes bị lôi cuốn bởi những ảnh hưởng và mô tả của Dewey về các nhóm chính trị, nhưng anh ta lại dửng dưng với sự xuất hiện của viên chỉ huy Anh mới đến, tướng Douglas Gracey.

Thậm chí trước khi đến thành phố, tướng Gracey đã cảm thấy lo ngại người Mỹ vì đã làm chậm thời gian đến Sài Gòn của lực lượng chiếm đóng Anh. Mặc dù đội quân đầu tiên đã đến vào ngày 6 tháng 9 trước "sự đón tiếp nồng nhiệt từ dân chúng địa phương - người An Nam cũng như người Pháp", nhưng Đơn vị Tiên phong của Sư đoàn Ấn Độ 20 (Gurkhas) còn bị hoãn lại trễ hơn cho tới tận ngày 12 tháng 9. Gracey và bộ sậu chính đến vào ngày hôm sau cùng thiếu tướng M. S. K. Maunsell, tham mưu trưởng Ban Quân quản Anh. Mặc dù biết tình trạng bất bình chung nhưng không nói ra của dân chúng trong thành phố, nhưng cả các sĩ quan lẫn binh lính Anh đều không muốn quan hệ với người Việt Nam. Quân Gurkhas biết trước mình sẽ đóng vai trò quan trọng trong nghi lễ đầu hàng, và cả Gracey lẫn Maunsell đều muốn bàn bạc với người Nhật chứ không phải với Việt Minh.

Trên thực tế, mặc dù một nhóm nhỏ các đại biểu của Việt Minh có mặt tại đường băng để đón Gracey khi ông ta xuống máy bay, nhưng Maunsell nhớ lại rằng cả ông ta lẫn Gracey đều không biết Việt Minh là ai. Khi các đại biểu Việt Minh bắt đầu tiến tới để nói chuyện, Gracey lại hướng về phía các sĩ quan cao cấp Nhật, những người này ngay lập tức tiến hành các nghi lễ long trọng và cúi đầu chào Gracey. Sau khi kết luận việc phải làm đầu tiên với người Nhật, Gracey chuẩn bị đi vào trung tâm Sài Gòn thì Việt Minh một lần nữa lại cố gắng nói chuyện với ông ta. Tuy nhiên, Gracey không nhận ra họ, chỉ "gạt phăng họ sang một bên" và tiếp tục đi về trung tâm thành phố. Ngày hôm sau, Maunsell quyết định đi thăm thú Sài Gòn và tự mình xem xét tình hình. Ông ta mô tả thành phố này "khá yên tĩnh, và một nửa nằm dưới quyền kiểm soát của Nhật (những người chỉ hành động khi họ cảm thấy thích".

Theo ý kiến của Maunsell, việc Việt Minh cho rằng mình kiểm soát cả thành phố thật "nực cười" - họ chẳng hề kiểm soát.

Sau chuyến dạo quanh thành phố, Maunsell tuyên bố Sài Gòn dường như là "một thành phố hoàn toàn yên ắng". Ông ta thông báo với Gracey rằng "nếu như có sự bất đồng quan điểm cơ bản thì cũng rất khó nhận ra". Tuy nhiên trong các báo cáo chính thức của Anh sau cuộc chiếm đóng, tình hình tại Sài Gòn khi lực lượng Anh đến được mô tả là "ngự trị tình trạng khủng bố chống Pháp" của Việt Minh. Trên thực tế, những báo cáo của Anh cho rằng chính quyền Việt Minh "không đủ khả năng giữ gìn luật pháp và trật tự".

Chắc chắn Việt Minh không kiểm soát được toàn thành phố, theo như sự thừa nhận của chính họ, nhưng lời mô tả Sài Gòn "ngự trị tình trạng khủng bố" của Việt Minh dường như hết sức mâu thuẫn với cả hai mô tả về một thành phố "yên ắng" và thái độ thân thiết đối với người Anh. Dường như chắc chắn hơn là các nhóm của Việt Nam đang nín thở chờ xem việc người Anh đến quả thực có ý nghĩa với việc lập lại ách cai trị của Pháp hay không. Mặc dù ngày hôm đó Maunsell nhận thấy thành phố này cơ bản là yên tĩnh nhưng Gracey thấy mình ở nơi không hy vọng thành công. Dẫu muốn bàn bạc với người Nhật và có lẽ thậm chí cả với người dân Đông Dương, nhưng ông ta không được mời làm việc sau khi đến. Thay vào đó, nhà sử học Peter Dunn nói rõ: "Các hoạt động của biệt đội OSS rõ ràng có tính chất phá vỡ quyền chỉ huy của Đồng Minh đến nỗi trong 48 giờ sau khi đến, Gracey cảm thấy bắt buộc phải triệu tập chỉ huy biệt đội, trung tá Peter Dewey, đến gặp".

Theo ý kiến của Dunn, Biệt đội 404 có mặt tại Sài Gòn "chỉ vì chiếm đóng là nỗ lực của Đồng Minh, và chỉ có hai nhiệm vụ không mấy khó khăn" - bảo vệ tài sản của Mỹ và "giúp Nhóm Tình báo Phản gián Anh" thu thập tài liệu liên quan tới tội phạm chiến tranh.

Tuy nhiên, đánh giá này đưa trên cách hiểu của người Anh về vai trò của Dewwey. Cùng với các nhiệm vụ trên, Dewey còn có nhiệm vụ nghiên cứu tình hình chính trị, đặc biệt về "vị thế của Đông Dương với Đế quốc Pháp". Theo thông tin thu thập được những báo cáo của Dewey chuyển từ tổng hành dinh OSS đến Bộ Ngoại giao Mỹ đang đối mặt với tình trạng hỗn độn nội bộ về chính sách của Mỹ đối với các thuộc địa châu Á trước chiến tranh và các lãnh chúa châu Âu của họ. Trên thực tế Dewey được lệnh không được phơi bày toàn bộ phạm vi nhiệm vụ của mình. Phần 4 trong "Kế hoạch Cơ bản của Chiến dịch Embankment" nói rõ: "Phái đoàn chỉ được tiết lộ hoạt động chi tiết cụ thể đối với X-2 (Tình báo phản gián). Tù binh chiến tranh, tội phạm chiến tranh và thu thập tài liệu, báo chí xuất bản thực chất không gây khó chịu cho tính nhạy cảm của người Pháp". Rõ ràng, "phơi bày toàn bộ" nhiệm vụ của Dewey chính là phát hiện thực chất các kế hoạch của Pháp đối với thuộc địa - bao gồm liệu Việt Nam có được chấp nhận quyền tự trị hay không - hẳn sẽ làm nhiều kiều dân Pháp khó chịu.

Bản chất chính trị của hoạt động thu thập thông tin tình báo này khiến Dewey phải tiếp xúc với rất nhiều người, trong đó có Việt Minh và "có lẽ cả những tổ chức Việt Nam khác".

Theo ý kiến của Gracey, thời gian "ra ra vào vào các con đường và quán cà phê tối tăm trong mối quan hệ với các Đảng viên Cộng sản và Việt Minh" của Dewey là không thích hợp và gây phiền toái. Gracey cũng nêu vấn đề đặt sở chỉ huy OSS tại biệt thự, bên ngoài "khu người Anh", và việc Dewey bác bỏ "tất cả đề xuất rằng ở đó anh ta phải mạo hiểm". Tuy nhiên, theo quan điểm của chỉ huy OSS thì việc di chuyển chỗ ở của người Mỹ ra khỏi phạm vi của người Âu - thực dân hoàn toàn có ý nghĩa. Việc này khiến nước Mỹ tách xa hơn nữa vết nhơ của chủ nghĩa thực dân và tạo điều kiện thuận lợi cho đội nắm bắt tình hình chính trị một cách độc lập. Lời khiển trách của Gracey vin vào nhiệm vụ viện trợ cho Đồng Minh càng làm cho Dewey phát cáu. Trong bức điện gửi cho Coughlin anh ta viết rằng "Theo yêu cầu của Gracey, chúng ta phải dừng việc giúp đỡ (của chúng ta) cho những người quản lý lợi ích của Mỹ, dừng thu thập tài liệu và điều tra tội phạm chiến tranh cho tới khi có chỉ thị (của chúng ta) đối với công tác này và sự hiện diện của Embankment được làm sáng tỏ. Vì không có quan chức cao cấp nào khác của Mỹ tại Sài Gòn nên tôi coi thái độ ngăn cấm trên là một kiểu cắt xén tlghiêm trọng đặc quyền của Mỹ".

Thái độ khó chịu của Dewey được bổ sung bởi Gracey - người cảm thấy rằng ngoài những gì đã được đề cập, "Dewey còn nói dối rất vụng về". Theo Dunn, "Dewey xuất hiện và thông báo với Gracey rằng anh ta còn có nhiệm vụ lãnh sự mà Gracey không được thông báo và Mounbatten không chấp thuận. Báo cáo gửi Bộ ngoại giao tại London có đoạn viết: "Tôi e rằng điều cốt lõi của vấn đề là OSS yêu cầu được tới mọi nơi thực hiện một hoặc nhiều mục đích đã đình chỉ để tham dự vào những hoạt động khác - những hoạt động mà họ không tiết lộ và tạo ra một ấn tượng rất xấu. Không có gì xấu xa trong việc đảm nhận trách nhiệm Lãnh sự, nhưng không có lý do tại sao Chỉ huy Tối cao không được hỏi ý kiến trước tiên".

Mặc dù có thể hiểu được thái độ bực tức của người Anh, nhưng theo quan điểm của Dewey, một phần công việc của anh ta là bí mật và đảm nhận các mối quan hệ với các dân tộc khác nhau, những mối quan hệ có thể được mô tả tốt đẹp với tư cách lãnh sự thực chất". Đối với người Anh, điều khó chịu nhất trong cách cư xử của Dewey đáng như chính là những cuộc gặp gỡ của anh ta với Việt Minh - một nhóm người mà Gracey không biết cách đối phó. Bất chấp những gì có thể hoặc không thể đã là thái độ của cá nhân Gracey đối với những dân tộc thuộc địa, vào giữa tháng 9 năm 1945 ông ta đã nói lên sự thiếu quyết đoán của Chính phủ của mình về cách đối phó với người Việt Nam. Giám đốc OSS William Donovan gửi một giác thư báo cáo cho tổng thống về tình hình vào ngày 14 tháng 9:

Hiển nhiên người Anh gặp trở ngại vì thiếu một chính sách rõ rành đối với Chính quyền của người An Nam hiện đang kiểm soát Sài Gòn. Nghe nói người Anh tại SEAC (Bộ Tư lệnh Đông Nam Á) không biết rằng người Pháp đã mất hữu trách chỉ thị của SEAC yêu cầu hợp tác với Pháp trong việc khôi phục chức năng của chmh quyến. Người Anh bây giờ cần phải chờ đợi một quyết định từ các cấp cao nhất liên quan tới chính sách chính thức được chấp thuận đối với người An Nam. Mặt khác người An Nam mặc dù rất nóng lòng hợp tác, nhưng lại miễn cưỡng chấp thuận lực lượng chiếm đóng Anh cho tới khi được đảm bảo rằng Anh sẽ không gây trở ngại cho những tham vọng chính trị của người An Nam.

Mặc dù chính sách của Anh vẫn chưa xác định nhưng quan điểm của Gracey chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về sức mạnh niềm tin của người Việt Nam. Những báo cáo của OSS ghi lại một chuỗi sự kiện thường xuyên suốt cả tháng. Chuỗi sự kiện bắt đầu vào tuần thứ ba của tháng Chín không gây ra bạo lực nghiêm trọng về phía những người Việt; nhưng sau đó tình hình sẽ không còn yên tĩnh nữa. Chuỗi sự kiện bắt đầu khi một vài tù nhân chiến tranh người Pháp "thường lang thang say xỉn trên đường phố, phá cửa cướp bóc nhà cửa và cửa hiệu người Việt và người Hoa", và khi các kiều dân Pháp được đám cựu tù binh chiến tranh khuyến khích "trả thù bừa bãi bất cứ người Việt không may mắn nào họ gặp trên đường".

Để trả đũa, người Việt Nam sau đó "bắt đầu sử dụng những chiến thuật bạo lực đối với những người đồng hương vẫn phục vụ cho Pháp". Người Anh đáp lại bằng cách ra lệnh cho Nhật tước vũ khí của người Việt đồng thời tuyên bổ rằng lệnh đó "không liên quan gì tới chính trị". Tiếp đó, người Pháp nằm được cơ hội để bắt đầu "kéo cờ tam tài" sau nhiều tháng trời vắng bóng lên trên những toà nhà và ô tô. Đài phát thanh Sài Gòn làm tăng thêm tình trạng căng thẳng bằng việc thông báo người Anh sẽ "duy trì luật pháp và trật tự cho tới khi quân đội Pháp đến". Vẫn còn hy vọng, Việt Minh sử dụng áp phích quảng cáo để hô hào quần chúng "giữ bình tĩnh và tránh những vụ xô xát". Tuy nhiên họ bắt đầu lo sơ tán phụ nữ và trẻ em ra khỏi thành phố. Tại Hà Nội, người Việt tổ chức một cuộc tuần hành hoà bình chống Anh kéo dài bốn tiếng với những bức tranh cổ động và biểu ngữ lên án kịch liệt quan điểm của người Anh tại miền Nam".

Trong vài ngày sau đó, Gracey phát truyền đơn cho người Việt Nam nhấn mạnh việc duy trì nghiêm ngặt luật pháp và trật tự đồng thời cảnh báo những cuộc tấn công đối với người châu Âu. Vào ngày 19 tháng 9, ông ta tuyên bố phục hồi lệnh giới nghiêm do Nhật thiết lập sau cuộc đảo chính tháng Ba và đe doạ những tội phạm bị kết tội phá hoại và cướp bóc tài sản công cộng cũng như tài sản riêng sẽ "bị hành quyết ngay tức khắc". Báo cáo của OSS nói rõ sự tiếp tục kháng cự thụ động để trả đũa chỉ thị của Anh và tại các khu chợ những tiểu thương người Việt từ chối bán hàng cho người Pháp. Cả Patti ở Hà Nội và Dewey ở miền Nam đều gửi điện cho Donovan khuyên OSS "nếu người Anh ở miền Nam và người Trung Quốc ở miền Bắc có chiều hướng can thiệp đối với sự trở lại của người Pháp thì chúng ta nên tách mình ra khỏi kế hoạch đó hoặc sẵn sàng liên kết những lợi ích thuộc địa tại Viễn Đông". Như sẽ thấy, cả Patti và Dewey đều không hiểu những thay đổi đã xảy ra trong phạm vi chính sách ngoại giao của Mỹ kể từ sau cái chết của Roosevelt vào tháng 4. Tuy nhiên vào thời điểm đó cả hai đều tiếp tục theo đuổi nhiệm vụ OSS của mình. Mặc dù công tác tình báo của Patti không bị gây trở ngại nhưng Dewey nhận thấy nỗ lực thu thập thông tin trong người Việt của anh ta trở nên khó khăn hơn. Wickes nhớ lại: "Vì cả người Pháp và người Anh biết Dewey, cả hai nhóm này lại phản đối mối quan hệ của ông ấy với "kẻ thù" nên Dewey không thể gặp những người Việt mà không bị theo dõi". Do đó, để tiếp tục nhiệm vụ, Dewey cử Wickes thay mình đến gặp Việt Minh. Wickes nhớ lại:

Những con đường tối om, vẫn có nhiều cựu tù binh chiến tranh đang đi lang thang, và tôi ăn mặc giống họ để thoát khỏi sự chú ý. Tôi đi tới một ngôi nhà trên một con phố yên tĩnh và ở đó có lẽ trong khoảng hái tiếng đồng hồ để gặp ba hay bốn người rõ ràng rất tận tâm với sự nghiệp giải phóng đất nước… Họ là lãnh đão phong trào độc lập và muốn chúng tôi cho Washington biết rằng nhân dân Việt Nam kiên quyết giành độc lập từ tay người Pháp. Trong thời gian chiến tranh họ đã nghe Đài phát thanh Mỹ nói về dân chủ và tự do, và họ coi nước Mỹ không chỉ là một kiểu mẫu mà còn là người bênh vực Chính phủ tự trị ủng hộ sự nghiệp của họ.

Mặc dù Wickes biểu lộ nhiều tình cảm tương tự các sĩ quan OSS tại Hà Nội nhưng tình hình ở hai nơi lại hoàn toàn khác nhau. Mối quan hệ của người Trung Quốc với người Mỹ, kết hợp với chuyến đến sớm của một nhóm người Mỹ và sự kiểm soát Hà Nội tương đối vững chắc của Hồ Chủ tịch đã làm cho các chuyến thăm Việt Minh của Pattti không ít thì nhiều có thể chấp nhận được đối với người Trung Quốc - quốc gia Đồng Minh chính thức có trách nhiệm tại miền Bắc. Tuy nhiên, miền Nam lại hoàn toàn khác. Đó là những khác biệt lớn giữa chính quyền Tưởng Giới Thạch và Clement Attlee, Thủ tướng Anh, và đòi hỏi sự ủng hộ của Mỹ đối với các sự kiện có ảnh hưởng của họ cũng như sự kiểm soát mỏng manh cửa Việt Minh tại miền Nam, và thực tế là cộng đồng người Pháp tại Sài Gòn lớn hơn, giàu có hơn và to mồm hơn đồng hương của họ ở Hà Nội. Một thời gian sau đó Wickes mới biết thất vọng của người Pháp đã lên tới đỉnh điểm và họ đã "đặt giá" cho cái đầu của anh ta, mặc dù thực tế là họ đã nhầm lẫn Wickes và Dewey.

Wickes không tin là mình đã từng ở trong tình thế nguy hiểm, nhưng "rõ ràng Dewey là người không được chấp nhận vì thái độ thông cảm với sự nghiệp của Việt Minh". Sự thông cảm với người Việt không bị cấm đối với Wickes và Dewey nhưng "tất cả thành viên" của đội đều cảm nhận rõ tình cảm này. "Những bức điện của chúng tôi gửi tới Washington", Wickes kể lại chi tiết, "báo trước chính xác những gì rốt cục sẽ xảy ra nếu Pháp cố phủ nhận nền độc lập đối với Việt Nam. Điều này chỉ là một trong số nhiều sự trớ trêu của Sài Gòn vào năm 1945". Mặc dù khó chịu, nhưng những căng thẳng giữa OSS và bạn Đồng Minh châu Âu của họ chịu hậu quả nhỏ nhất khi tháng Chín sắp trôi qua. Người Pháp, người Anh và Việt Nam ngày càng trở nên thù địch hơn. Quân đội Anh tiếp tục quá trình thâu tóm quyền kiểm soát từ quân đội Thiên hoàng. Sau khi được Nhật trao cho quyền kiểm soát ở khu vực nào đó, Anh tiếp tục trao lại cho Pháp. Dunn viết: "Một kiểu chuyển tiếp cho tới khi Anh rời khỏi Đông Dương, vì Nhật sẽ không hợp tác trực tiếp với Pháp". Để tăng thêm lực lượng, Pháp tiếp tục vũ trang lại cho đám cựu tù binh chiến tranh thuộc quân đội thuộc địa. Vào ngày 21 tháng 9, Gracey tuyên bố tình trạng thiết quân luật. Patti nhớ lại cơn giận dữ của Dewey trước hành động của Gracey: "Dewey nói rất giễu cợt rằng mặc dù những biện pháp này rõ ràng nhằm vào người Việt Nam, nhưng Gracey dám trơ tráo tuyên bố một cách công khai "mục đích kiên quyết" của ông ta cho thấy rằng việc chiếm đóng đã được kiểm soát trong điều kiện hoà bình và "tuyệt đối công bằng". Việc giải thoát và vũ trang lại cho cựu tù binh chiến tranh thổi bùng sự giận dữ của cả người Pháp lẫn người Việt. Mặc dù một giác thư của OSS gửi ngoại trưởng Mỹ đã cảnh báo về khả năng bạo lực của Pháp trước đó gần hai tuần, nhưng tình hình chưa đến mức tới hạn cho tới ngày 22 tháng 9.

Đêm 21 tháng 9, Jean Cédile thông báo cho Gracey, theo các nguồn tin của ông ta thì Việt Minh đang chuẩn bị một cuộc tấn công quy mô lớn vào thành phố. Cédile đề nghị Gracey giải thoát và vũ trang lại cho 1.400 tù binh chiến tranh Pháp sau đó cho đóng bên ngoài Sài Gòn để hỗ trợ cho đội quân Anh ít ỏi. Biết rõ rằng 1.800 quân của ông ta có thể gặp khó khăn nghiêm trọng nếu những tin đồn về cuộc tấn công lớn là sự thực, Gracey đồng ý với kế hoạch của Cédile, và sáng sớm 22 tháng 9 ông ta bắt đầu quá trình thực hiện. Mặc dù được chỉ thị có mặt ở một nơi nào đó và đợi lệnh, nhưng đám cựu tù binh chiến tranh "hăm hở chứng tỏ sự dũng cảm và lòng trung thành của mình" sau quá nhiều tháng ngày bị Nhật giam cầm, "đã đổ về trung tâm Sài Gòn và tấn công bất cứ người Việt vô tội nào vô tình gặp chúng trên đường".

Trong khi đó, các thành viên của Biệt đội 404 đang gặp gỡ đại diện của Việt Minh, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Phạm Ngọc Thạch. Chính phủ Lâm thời Việt Minh tại Sài Gòn, giống như tại Hà Nội, đề nghị OSS chuyển lời thỉnh cầu của họ đến Tổng thống Harry Truman để có được sự ủng hộ "tinh thần" của Washington và thông báo với người Mỹ về ý định của Việt Minh tổ chức một cuộc biểu tình hoà bình với "vài nghìn người Việt Nam" vào ngày 23. Khi được cảnh báo là cuộc biểu tình không hợp pháp theo quy định của Gracey và sẽ có thể gây đổ máu, Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch trả lời rằng mục đích của cuộc biểu tình là phản đối những vụ trả thù của Pháp và Anh "đã gây ra rất nhiều thương vong" và vì vậy sẽ thu hút được sự quan tâm của toàn thế giới đối với người Việt Nam, "những chiến sĩ yêu hoà bình tự do". Đại uý Herbert Bluechel, một thành viên của OSS gặp Phạm Ngọc Thạch, đã "tin chắc rằng ông ấy không bao giờ dự kiến dùng tới bạo lực", "Tôi có lý do để tin rằng Thạch quan ngại trước những sự kiện đã xảy ra". Tuy nhiên, Patti nhớ lại, "Tình thế tuyệt vọng của người Việt Nam tại Sài Gòn đã thu hút sự quan tâm của thế giới, không phải thông qua một cuộc biểu tình lớn, mà qua một vụ bạo lực điên cuồng của Pháp".

Vào sáng sớm 23 tháng 9, quân đội của Cédile di chuyển nhanh qua thành phố, chiếm lại các toà nhà Chính phủ, treo cờ Pháp, giết hoặc bắt giam những người Việt trên đường đi. Nguồn tin của OSS nhanh chóng kết luận rằng nếu đám cựu tù binh chiến tranh Pháp bị kiềm chế, "hành động mạnh mẽ này sẽ không cần thiết vì chế độ của An Nam từ lúc ban đầu đã dự kiến chỉ là kháng cự thụ động". Mặc dù đóng quân ở miền Bắc nhưng Archimedes Patti đã kết luận đúng phản ứng của phần lớn người Mỹ thuộc OSS:

Những người Pháp đã sống với nỗi sợ hãi trong suốt ba tuần giờ đều vui mừng. Thời điểm chiến thắng của họ đã đến, và cũng là thời điểm trả thù của họ. Ngay lập tức họ phản ứng giống một lũ người hung dữ trong cơn thinh nộ… Họ nhận ra nhiều người vẫn chưa biết gì về cuộc đảo chính của Pháp và tấn công những người kia một cách dã man với gậy gộc và nắm đấm. Trong cơn điên cuồng đám người Pháp đã phá cửa để tìm "những người An Nam" và lôi họ ra khói nhà hoặc nơi làm việc để cho "một trận đòn xứng đáng". Đối với phần lớn các nạn nhân, những vụ đánh đập là rất dữ dội, một vài người bị thành tật suốt đời. Nói chung, sau các vụ đánh đập các nạn nhân bị đẩy lên ô tô hoặc xe tải và đưa tới những nhà giam gần nhất vì tội là Việt Minh… Số nạn nhân được tính, thậm chí là dè đặt, là hàng trăm và có lẽ lên tới con số hàng nghìn.

Dewey cố gắng kháng nghị cả những hành động của tù binh chiến tranh và sự thiếu hành động của quân Anh. Gracey từ chối gặp anh ta. Tiếp đó Dewey phàn nàn với quân đội Pháp và được Cédile cảnh báo rằng "đó không phải việc của anh ta và rõ ràng người Mỹ đáng bị khiển trách về tình trạng này". Mặc dù về cá nhân cả Gracey lẫn Cédile đều bị thất vọng bởi những hành động của đám tù binh chiến tranh nhưng họ cũng coi việc Dewey gặp gỡ các nhóm người Việt là hành động ủng hộ ngầm cho các hành động của người Việt Nam và gây ra rắc rối. Hôm sau, ngày 24 tháng 9, Gracey lại lần nữa tuyên bố Dewey là "người không được chấp nhận" - lần này Gracey còn ra lệnh cho Dewey phải "rời khỏi Sài Gòn càng sớm càng tốt". Dewey không có lựa chọn nào ngoại trừ việc thu xếp rời Sài Gòn. Chuyến đi được dự định vào 9 giờ rưỡi tối ngày 26 tháng 9.

Với hy vọng ngăn chặn được bạo lực, Gracey ra lệnh tước vũ khí của đám tù binh chiến tranh và đưa chúng quay trở lại các trại giam đồng thời thả nhiều người Việt Nam. Nhưng thái độ thù địch của người Việt Nam trong việc phản ứng lại các hành động của Pháp không thể dễ dàng kìm lại được: Vào ngày 24 họ bắt đầu phản công. Họ xông vào các nhà tù và giải thoát cho những người bị bắt, tấn công sân bay, và cắt đứt lưới điện, hệ thống cung cấp nước. Hành động bạo lực nhất xuất hiện tại ngoại o Sài Gòn, tại Cité Herault. Nhiều cuộc nổi dậy ít bạo lực hơn xảy ra khắp Sài Gòn trong đêm đó khi các nhóm Việt Nam phản ứng lại cuộc xâm lược trước kia của Pháp và cố giành quyền điều hành cách mạng. Trong một nỗ lực duy trì quyền lực của Việt Minh qua phong trào này, Trần Văn Giàu phát động một cuộc tổng bãi công, tản cư dân chúng người Việt ra khỏi Sài Gòn, và phong toả những con đường ra vào thành phố. OSS tường thuật lại các sự kiện về tổng hành dinh:

Phong trào kháng cự thụ động ngày càng tăng của người An Nam trở thành một phong trào chống người da trắng theo sau hàng loạt tin đồn rằng Anh có ý định giúp Pháp lập lại quyền lực tại Đông Dương. Khi đám cựu tù binh chiến tranh Pháp được trang bị vũ khí và giao đứng gác trên các cây cầu thì chiều hướng chống người da trắng lại bùng nổ. Tình thế này nhanh chóng phát triển vượt quá tầm kiểm soát của Việt Minh, vâ những người An Nam thể hiện ý chí sẵn sàng hy sinh để giành được tự do.

OSS cho rằng người Mỹ không phải là mục tiêu của phong trào chống người da trắng và không được coi là "người Âu" thay vì thế "được coi là một dân tộc riêng biệt".

Các phóng viên Mỹ phê phán hơn nữa những sự kiện tại Sài Gòn. Trong một buổi phỏng vấn công khai, một phóng viên của hãng AP đã làm tăng thêm sự oán giận của người Pháp về những gì họ nhận thấy là quan điểm toàn diện của Mỹ. Anh ta nói: "Tôi sẽ lập tức quay trở lại Hà Nội để thông báo cho phái đoàn Mỹ ở đó về những chuyện đang xảy ra tại miền Nam để tránh cuộc đổ máu tại Bắc Kỳ. Người Pháp đang đi theo một con đường sai lầm còn người Anh đã mất trí khi làm những việc họ đã làm". Vào tối 24 tháng 9, Dewey gửi báo cáo cuối cùng với tư cách là chỉ huy Biệt đội 404. "Nam Kỳ đang rực cháy", Dewey cảnh báo, người Pháp và người Anh đã kết thúc tại đây, và chúng ta buộc phải cuốn xéo khỏi Đông Nam Á". Mặc dù cả Dewey lẫn cấp trên của anh ta đều không vui với "hành động đuổi Dewey" ra khỏi Sài Gòn, nhưng họ không thể làm gì hơn để ngăn cản điều này. Trên thực tế, những ghi chép về chuyến ra đi của Dewey nhanh chóng thông qua OSS chuyển trực tiếp tới bàn làm việc của Abbot Low Moffatt tại Bộ ngoại giao Mỹ. Các bức điện của OSS chỉ ra rằng mặc dù Dewey đang bị rút khỏi Sài Gòn "vì người Anh phản đối báo cáo tình hình chính trị và kinh tế của anh ta", nhưng không có câu hỏi nào liên quan tới "trách nhiệm cao ở báo cáo không thiên vị" của Dewey và "thông tin có giá trị cao mà anh ta đã gửi". Những bức điện cũng nói rõ ngoại trưởng Mỹ "đã đặc biệt yêu cầu OSS phát triển mạng lưới tình báo tại Đông Dương thuộc Pháp", và nếu Bộ ngoại giao mong muốn dạng thông tin đó tiếp tục đến tới tấp thì cần phải bổ nhiệm một "người kế vị tài giỏi" thay Dewey. Tổng hành dinh OSS tại Kandy, Ceylon, còn khuyên Dewey mang theo "những bản báo cáo viết tay" để bào chữa cho mình thoát khỏi những lời buộc tội của Gracey. Bức điện nói rõ rằng Dewey không phải chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì, nhưng cũng yêu cầu Bộ ngoại giao nên "quan tâm" tới công việc của anh ta.

Dựa vào tham vọng mạnh mẽ của Dewey về công tác ngoại giao, địa vị cựu nghị sĩ bang Illinois của người cha, và tình bạn gia đình với giám đốc OSS William Donovan, sự quan tâm không có gì lạ. Thông thường với tình hình này, Dewey hẳn sẽ bị loại ra khỏi đơn vị và trở thành một người khác trong một danh sách dài các đặc vụ OSS đã hoàn thành nhiệm vụ và đang chuẩn bị bị thải hồi. Tuy nhiên, trong trường hợp của Dewey, nhiều tình huống đã xen vào.

Sự giận dữ của Gracey đối với Dewey là rất nhỏ nếu so sánh với cơn cuồng nộ của ông ta đối với Nhật vì những gì mà ông ta coi là thái độ bất hợp tác với Đồng Minh và có thể là tội đồng loã với người Việt Nam. Mặc dù ông ta quá choáng váng với những tin đồn liên tục về các đặc vụ bí mật của Nhật và các nội gián, nhưng lúc này ông ta khiển trách một cách gay gắt chỉ huy Nhật vì không duy trì được trật tự và de doạ sẽ có những hành động nghiêm khắc vì thái độ bất hợp tác.

Khi các sự kiện tiến triển, thay vì tước vũ khí của Nhật, Gracey lại bắt đầu tích cực sử dụng quân đội Nhật để lập lại trật tự tại Sài Gòn và đàn áp cách mạng Việt Nam. Một bài báo của Hãng tin Reuter tại London đã bình luận: "Có hơn 4.000 lính Nhật trang bị vũ khí đầy đủ trong thành phố và 70.000 lính Nhật đóng trên đất nước này… Chúng ta phụ thuộc vào họ để duy trì luật pháp và trật tự. Trên thực tế, trong suốt bốn tháng ở Sài Gòn, tướng Gracey "thường ra lệnh" cho quân Nhật tham gia vào "các hoạt động tấn công", cũng như "những nhiệm vụ tuần tra, cảnh sát, canh gác và hậu cần".

Khi Gracey tiến hành chấm dứt sự phong toả và lập lại trật tự trong thành phố thì các thành viên OSS tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của họ. Ngày 25 tháng 9, một phái đoàn của OSS do đại uý Joseph Coolidge dẫn dầu rời Sài Gòn tới Đà Lạt để "đánh giá điều kiện tài sản đáng kể của Hội Truyền giáo Mỹ" và thu thập những bản đồ của Nhật tại trung tâm vẽ bản đồ. Mặc dù Việt Minh cho phép các nhân viên của Anh và Mỹ đi qua vòng vây quanh thành phố, nhưng Coolidge gặp rắc rối trên đường trở về. Nhóm của Coolidge gồm anh ta, trung uý Varner, một số sĩ quan Đồng Minh - trong đó có người Pháp - và vài phụ nữ người Việt. Trên đường về nhóm phát hiện ra rào chắn đường của người Việt, "nhóm sĩ quan hỗn hợp, tất cả đều nói tiếng Pháp một cách hùng hổ, xuống xe và tiến hành tháo dỡ rào chắn. Tưởng nhầm họ là người Pháp, những người Việt Nam cố ngăn cản họ". Trong quá trình đó nổ súng đã xảy ra và Coolidge bị thương vào cổ. Mặc dù bị thương nặng nhưng Coolidge không bị nguy hiểm đến tính mạng.

Bị Gracey đuổi khỏi Sài Gòn và không vui về rắc rối xảy ra với Coolidge nhưng Dewey vẫn ra sân bay vào ngày 26 tháng 9. Mặc dù chuyến bay theo kế hoạch sẽ khởi hành vào 9 giờ 30 sáng tới Kandy, nhưng Dewey được thông báo rằng máy bay bị trễ cho tới tận buổi chiều. Thấy còn nhiều thời gian, Dewey và thành viên của đội là Herbert Bluechel quyết định đến thăm Coolidge tại bệnh viện và quay trở lại sân bay vào đầu giờ chiều. Được thông báo rằng chuyến bay vẫn chưa đến và có lẽ sẽ còn chậm hơn nữa, Dewey và Bluechel quyết định quay trở lại sở chỉ huy của OSS, chỉ cách có mười phút đi xe, để dùng bữa trưa.

Cách toà nhà của OSS gần 500m, Dewey và Bluechel đến gần một rào chắn quen thuộc gồm hai khúc gỗ đặt ngang qua đường để buộc xe cộ đến gần phải đi chậm lại và từ từ ngoặt theo hình chữ S. Vì vật chướng ngại không hoàn toàn chặn hết đường đi, Dewey giảm tốc độ và lái ngoặt qua chướng ngại vật, giống như đã làm vào sáng hôm đó. Đúng lúc ấy, một khẩu súng máy được giấu kín đã khai hoả với khoảng cách chưa dầy 3m. Dewey bị bắn vào đầu và chết ngay tại chỗ. Tài xế chết, chiếc xe Jeep không có người điều khiển lật ngược sang bên phải, do đó bảo vệ được Bluechel đang ngồi ghế bên cạnh. Bluechel đẩy xác Dewey và thoát ra ngoài. Anh ta rút súng bắn trả nhưng phát hiện khẩu súng trường bị kẹt đạn nên anh ta phải sử dụng đến súng lục tự động. Bluechel ước lượng rằng khoảng một phút trôi qua trước khi anh ta sẵn sàng để tự bảo vệ mình. Trong suốt thời gian đó, "mặc dù có nhiều người An Nam có vũ khí nữa xuất hiện ngoài kẻ bắn khẩu súng máy kia" nhưng không ai cố tấn công Bluechel.

Sau đó Bluechel bắt đầu chạy về phía sở chỉ huy của OSS, thỉnh thoảng quay lại để bắn những người Việt đang đuổi theo. Mặc dù bị bắn vài lần nhưng anh ta không bị trúng đạn. Những người Việt sau đó tấn công sở chỉ huy của OSS.

Vào thời gian đó, chỉ có hai thành viên của đội OSS và ba vị khách được mời ăn trưa có mặt. Bluechel sắp đặt mọi người vào các vị trí chiến lược ở khắp ngôi nhà. Anh ta ra lệnh cho George Wickes hét to bằng tiếng Việt rằng những người đang ở trong nhà là người Mỹ. Tuy nhiên, tình hình không có gì thay đổi. "Tôi không tin", Wickes nói, "những người An Nam có thể nghe tôi". Không thể biết những người Việt đang tấn công kia có nghe thấy hay không.

Vì sở chỉ huy đặt ở rìa phía nam sân gôn Sài Gòn, đội OSS có một tầm quan sát rộng còn những người Việt có quá ít chỗ núp trong suốt cuộc tấn công ban đầu kéo dài hai mươi tới ba mươi phút. Nhận thấy ở vị trí khó trụ được nên họ chuyển tới mặt khác của ngôi nhà, nơi có nhiều bụi cây và hàng rào hơn và họ có thể ẩn núp. Khi cuộc đấu súng tạm ngừng, có thêm bốn thành viên OSS về đến nơi. Một trong số họ, trung uý Leslie Frost, là người đặc biệt được hoan nghênh; Bluechel muốn gửi một bức điện tới Phái đoàn Anh yêu cầu trợ giúp nhưng không thể vì đường dây điện thoại đã bị cắt. Với sự trở về của Frost, nhân viên điện đài, họ có thể đánh điện cho sở chỉ huy OSS tại Kandy, đề nghị thông báo cho quân đội Anh.

Vào lúc đó, 45 phút sau khi cuộc tấn công bắt đầu, Bluechel ra lệnh cho đại uý Frank White huy động 9 lính Nhật có nhiệm vụ canh gác ngôi nhà. Mặc dù White sắp xếp quân Nhật vào các vị trí chiến lược quanh nhà nhưng phần lớn bọn họ không tham gia chiến đấu. Khoảng 3 giờ chiều, sau hơn 2 tiếng bắn nhau, những người Việt Nam "buộc phải rút lui", Bluechel báo cáo "vì chúng tôi bắn rất chính xác". Khoảng 10 phút sau, một "xe tải chở một nhóm lính Nhật" đi ngang qua trước nhà, đại uý White chặn xe lại và yêu cầu họ cùng anh ta ra nhặt thi thể Dewey. Tuy nhiên, khi đến hiện trường, White phát hiện ra cả xác Dewey và chiếc xe Jeep đều biến mất.

Khi White và sĩ quan người Pháp đã ăn trưa cùng anh ta đang cân nhắc phải làm gì tiếp theo, họ nhìn thấy một nhóm người Việt trên một chiếc xe Jeep có cắm cờ Hội Chữ thập Đỏ ở cách họ hơi xa. Từ phía sân bay xuất hiện một chiếc xe Jeep khác chở thiếu tá Frank Rhoads, USAAF (Lực lượng Không quân Mỹ), một sĩ quan thuộc Quân đoàn Samtary, cùng hai phóng viên, Downs và Mcclincy. Họ vừa tình cờ quen nhau. Họ cùng nhập vào nhóm của White. Nhóm của White tiến đến gần những người Việt với một "lá cờ" điều đình. White đề nghị nói chuyện với người có trách nhiệm, và khi người đó xuất hiện White thương lượng một vụ trao đổi: bây giờ người Việt có thể vào khu vực an toàn thuộc sân gôn để nhặt những người bị thương của họ, đổi lại là thi thể của Dewey. Trong suốt cuộc đối thoại anh chàng người Việt "quả quyết nói rằng nếu biết nạn nhân, viên trung tá kia, là người Mỹ thì anh sẽ không bao giờ cho phép những phát súng kia được bắn ra. Anh đã tham gia tấn công, anh nói, vì tin rằng các sĩ quan Pháp và Anh sống trong ngôi nhà, dù ở đó có treo một lá cờ Mỹ và vì chúng tôi đã giết quá nhiều quân của anh".

Viên chỉ huy người Việt sau đó ra lệnh cho binh lính vào chuyển xác đồng đội. Hai phóng viên đặt hàng loạt câu hỏi cho viên chỉ huy và anh phát biểu sôi nổi về nỗi sỉ nhục mà người Việt Nam đã phải chịu từ người Pháp. Cuối cùng anh cũng phê phán cả người Anh, buộc tội người Anh cũng muốn "thống trị" dân tộc An Nam. Khi đồng đội của anh quay trở lại với những xác chết, White không thể không nhận ra các trang thiết bị trên người họ là của Nhật, ví dụ như hộp đạn và bi đông. Tuy nhiên, nhiệm vụ của họ đã hoàn thành, viên chỉ huy Việt Nam chuẩn bị rời đi để tìm thi thể của Dewey. Đúng lúc đó, hai trung đội của đơn vị Gurkha 31 xuất hiện và nã đạn khiến rất nhiều dân thường An Nam chạy toán loạn phía trước họ. White tiếp tục nhớ lại quang cảnh lúc đó:

Vị trí của chúng tôi lúc đó - đang ở trong tay những người An Nam còn quân của Gurkha thì cũng đang tiến về phía chúng tôi bắt đầu trở nên nguy hiểm. Tình hình này còn phức tạp hơn bởi hai phóng viên chiến trường kìa. Rõ ràng là không quen với sự sắp đặt của quân đội Gurkha trong suốt trận đánh, hai phóng viên cố ngăn đội quân hùng hổ kia để họ tha cho dân thường An Nam vô tội bị kẹt giữa hai làn đạn. Theo thoả thuận với thiếu tá Rhoads, tôi từ bỏ việc điều đình với người An Nam để cố gắng và ngăn chặn rắc rối giữa Downs, McClincy với thiếu tá người Anh, chỉ huy đội quân Gurkha. Nhưng tôi không thành công. Hai phóng viên yêu cầu đội quân Gurkha rút lui trong khi dân thường được đưa ra khỏi khu vực này. Viên thiếu tá từ chối. Anh ta nói với họ nhiệm vụ của anh ta là khôi phục lại trật tự "bằng cách sử dụng lực lượng tối đa" và đó chính là việc anh ta định làm. Hai phóng viên cáo buộc anh ta là một "tên giết người" nếu vẫn cữ tiếp tục. Cuối cùng tôi cũng thuyết phục được hai người này là họ đang lãng phí thời gian của chính họ và những người khác. Và họ cùng tôi quay trở lại sở chỉ huy OSS.

Nhiệm vụ bị phá ngang, White trở về báo cáo lại tình hình cho Bluechel. Theo đánh giá của White, không thể biết được viên chỉ huy người Việt kia rốt cục có thực hiện lời hứa đi tìm và đem thi thể của Dewey về hay không. Không quan tâm tới ý định của chỉ huy, những người Việt bị đội quân Gurkha phân tán mỗi người mỗi nơi, và thi thể của Dewey thì vẫn biệt vô âm tín. Theo Bluechel, "khu vực này có thể không được bảo vệ thoả đáng để chống lại một cuộc tấn công đêm". Anh ta ra lệnh cho những người Mỹ tập trung tất cả đồ dùng cá nhân và chuẩn bị rút khỏi nơi này. Đội OSS rời sở chỉ huy vào lúc 5 giờ 15 chiều với sự hộ tống của một phân đội quân Gurkha, để lính Nhật lại canh gác ngôi nhà. Khoảng 5 giờ 40 Bluechel và binh lính, bây giờ do anh ta chi tuy, tìm được cho mình chổ ở phù hợp tại khách sạn Continental. Bluechel thông báo cho Cédile về cái chết của Dewey và thi thể bị mất tích. Đến lượt Cédile tới gặp tướng Gracey. Mặc dù cả hai người này đều không thích Dewey nhưng họ đều tỏ lòng thương tiếc về cái chết của anh ta và ra lệnh cho các lực lượng dưới quyền thực hiện một cuộc tìm kiếm toàn diện thi thể Dewey.

Mặc dù 52 linh Nhật đi tìm kiếm xác Dewey từ ngày 28 tháng 9 cho tới ngày 15 tháng 10 nhưng họ có quá ít may mắn. Vào ngày 2 tháng 10 họ đã thành công khi tìm thấy địa điểm được cho là nơi chôn xác Dewey đầu tiên. Trong khi đào "chỗ đất khả nghi", đội tìm kiếm phát hiện ra một đai đeo gươm, bao súng lục, và chai nước mà sau đó được Bluechel xác nhận là tài sản của Dewey. Người ta cho rằng thi thể của Dewey đã được chôn ở đó vào ngày anh ta chết và sau đó được chuyển đi nơi khác. Báo cáo của người Anh đã thuật lại chi tiết những nỗ lực của đội tìm kiếm người Nhật và quy trách nhiệm cho Việt Minh về việc bắn chết và làm mất thi thể của Dewey cũng như gây trở ngại cho đội tìm kiếm Nhật.

Hầu hết mỗi nhóm ở Sài gòn đều chịu trách nhiệm về cái chết của Dewey vào lúc này hay lúc khác. Người Pháp kết tội Việt Minh, Việt Minh khẳng định đây là một âm mưu của Pháp, và người Anh buộc tội Việt Minh và sau đó là các đặc vụ người Việt của Nhật. Mặc dù binh lính của OSS rõ ràng nhận ra kẻ bắn súng là người Việt nhưng họ không tin là người Việt hiểu rõ họ đang bắn vào người Mỹ. Bluechel viết:

Khi thấy rõ sự tôn trọng được thế hiện đối với tôi và các thành viên khác của phái đoàn OSS trong khi đi qua khắp các quận huyện của người An Nam dưới sự bảo vệ của lá cờ Mỹ

Tôi tin rằng Trung tá A. Peter Dewey, AC, 0911947, bị phục kích và bị giết chỉ vì bị nhầm là thuộc quốc tịch khác chứ không phải người Mỹ. Nếu chiếc xe Jeep mà anh ấy đang lái vào lúc rắc rối đó có cắm cờ Mỹ thì tôi chắc chắn rằng những phát đạn kia sẽ không được bắn ra… Sự thực là người An Nam đã bắn vào sở chỉ huy của OSS cho dù cờ Mỹ đang treo trên đó. Tuy nhiên vào thời điểm đó cuộc đọ súng đang diễn ra và tôi không tin những người An Nam kia dừng lái để xem xét hoặc nhận ra họ đang tấn công vào ngôi nhà của người Mỹ. Họ rõ ràng đang muốn trả thù cho năm đồng đội bị trúng đạn trong khi tôi chạy thoát khỏi cuộc phục kích. Không có cái gì ngoại trừ quân đội có vũ trang mới có thể ngăn được họ.

Theo quan điểm của binh lính Biệt đội 404, những người biết về những cuộc gặp của Dewey với các thành viên của Việt Minh và sự cảm thông của anh ta với sự nghiệp của Việt Nam, việc không có cờ Mỹ trên xe Jeep của Dewey là một nhân tố góp phần vào cái chết của anh ta. Chỉ vài ngày sau khi đến Sài Gòn, tướng Gracey đã ra lệnh chỉ những sĩ quan "cấp bậc một sao trở lên (hàm đô đốc hoặc phó đô đốc) mới được phép cắm cờ trên xe của mình. Điều này là để chỉ rõ cấp bậc vì thế nói chung không có lá cờ quốc gia nào được phép cắm". Vào lúc đó, là một người Mỹ có thâm niên ở Sài Gòn hơn nên Dewey đã kháng nghị quy định này. Dewey cho rằng công việc của mình rất cần cắm cờ Mỹ. Gracey lên tiếng cảnh báo Dewey rằng "công việc của anh ta không buộc anh ta tới những nơi mà anh ta thấy cần thiết phải tìm kiếm sự bảo vệ dưới lá cờ Mỹ". Người Anh kiên quyết không chấp nhận khả năng là không có cờ Mỹ trên mui chiếc xe Jeep góp phần vào cái chết của Dewey, thay vào đó họ biện hộ rằng "hoàn toàn không chắc chắn việc cắm cờ Mỹ hoặc bức tranh cờ Mỹ trên xe Jeep có hiệu quả ngăn chặn đối với những kẻ tấn công hay không". Sau đó các cuộc điều tra của Mỹ đi đến những kết luận tương tự về việc không cắm cờ; tuy nhiên, thậm chí họ không thể bằng lòng về những động cơ thúc đấy có thể. Một báo cáo cho rằng việc bắn Dewey "không phải là tình cờ mà có dự tính" và bản báo cáo thứ hai thì cho rằng "không chắc người An Nam nhận biết được quốc tịch của Dewey vào thời điểm anh ta bị bắn". Những ý kiến mới về nguyên nhân cái chết của Dewey và những manh mối về địa điểm có thể chôn xác Dewey tiếp tục xuất hiện trong hai tháng sau. Vào tháng 11, sĩ quan thay thế Dewey, trung uý James Withrow, báo cáo rằng tất cả các manh mối như thế "không tạo ra giá trị gì". Một kịch bản dường như đặc biệt hợp lý cũng đặc biệt làm thất vọng những người đang hy vọng lời giải thích sự bí ẩn về cái xác mất tích của Dewey: Trong khi đọc kỹ đống tài liệu của Anh liên quan tới cái chết của Dewey, đại uý Robert Leonard đã phát hiện ra một thông báo bàn về việc khám phá ra bức phác hoạ phía trước chiếc xe Jeep của Dewey cùng một tài liệu gồm một danh sách những cái tên Việt tại sớ chỉ huy kempeitai tại Chợ Lớn. Withrow viết cho sở chỉ huy khu vực Ấn - Burma về phát hiện này:

Điều đã được xác minh khá chắc là Nhật có một vài băng nhóm người địa phương, thường là người An Nam, được sử dụng cho các hoạt động khủng bố không chính thức. Vì vậy những băng nhóm này sẵn sàng thực hiện bất cứ việc gì nếu được những người trả giá cao nhất thuê. Nếu hành động này là do một trong số băng nhóm này gây ra thì lực luơng có động cơ thực sự đứng đằng sau vụ giết người có thể là bất cứ người nào có mối bất bình đối với trung tá Dewey hoặc nước Mỹ.

Yêu cầu của Leonard về bức phác hoạ và một bản dịch những cái tên Việt Nam được chấp thuận, tuy nhiên, hai tuần sau đó anh ta được thông báo rằng rất tiếc là những tài liệu đó đã bị mất và thực tế có thể đã bị coi là vô giá trị và bị vất vào thùng rác.

Khi cuộc điều tra tại Sài Gòn không tìm được những manh mối hiệu quả, gia đình Dewey trực tiếp bỏ hết công sức để tìm cho ra xác Dewey và đưa về Mỹ chôn cất. Bị suy sụp vì cái chết của con trai, đặc biệt kể từ khi cuộc chiến tranh lâu dài và cực khổ đã kết thúc thắng lợi, gia đình Dewey tìm kiếm câu trả lời tại Việt Nam. Nói một cách chính xác, nơi họ muốn đổ lỗi cho cái chết yểu của Dewey rõ ràng chỉ là suy đoán.

Các tờ báo tại Mỹ rõ ràng rất quan tâm đến vụ thương vong thời bình này. Trong khi tiêu đề trên một tờ báo Washington công khai chỉ trích cái chết của Peter Dewey là kết quả của "những người An Nam nổi loạn" thì cáo phó của anh ta trên tờ Thời báo New York lại đưa ra một bức tranh khác, không phải đổ lỗi cho một đám đông giận dữ mà thay vào đó là những người "đã nhầm lẫn" Dewey là một sĩ quan Pháp, "kẻ áp bức" họ. Tờ Thời báo còn xót xa hơn cho cái chết của người thanh niên trẻ được xem như "một nhà lãnh đạo tương lai" dưới ánh sáng của sự cảm thông đối với "tất cả những người bị lệ thuộc vào "ách thống trị của ngoại bang".

Không công khai chỉ trích ai, Charles Dewey Sr., cha của Peter, đưa ra một phần thưởng cho ai tìm được xác con trai ông, và Charles Dewey Jr., anh trai của Peter, đến Sài Gòn để trợ giúp quá trình tìm kiếm. Mặc dù không có nỗ lực nào mang lại kết quả, gia đình Dewey rất cảm động bởi lá thư họ nhận được từ Việt Minh ngay sau khi Charles Jr. trở về Illinois. Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch bày tỏ thái độ nuối tiếc khi không được gặp Charles Jr. trong khi anh đang ở Sài Gòn để chia buồn với gia đình và ca ngợi Peter Dewey. Ông nói rằng "một nụ cười thân thiết sáng ngời luôn hiện trên khuôn mặt của trung tá Dewey. Đó là ánh sáng sáng ngời trong tâm hồn một con người hào hoa, và từ sâu thẳm trái tim anh ấy đã cố gắng để hiểu chúng tôi bằng trí thông minh và thái độ hết sức cảm thông đối với sự nghiệp của chúng tôi".

Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch cam đoan với gia đình Dewey rằng Chính phủ Việt Minh đang cố gắng xác định địa điểm chôn thi thể Dewey và báo cho họ biết quyết định của Việt Minh là đặt tên Dewey cho con đường nơi anh bị giết và dựng một đài kỷ niệm tại đó. Charles Dewey Sr. viết thư trả lời để cảm ơn ông. Tuy nhiên, vì không có địa chỉ nên anh ta gửi nó cho thiếu tướng John Magruder thuộc Hội đồng chiến tranh và đề nghị chuyển bức thư tới địa chỉ thích hợp tại Sài Gòn. Magruder gửi trả lại lá thư cho gia đình Dewey với lời giải thích: "Chúng tôi rất muốn giúp đỡ ngài nhưng tình hình chính trị tại Đông Dương hiện nay không ổn định và vị thế của quân đội Mỹ ở đó hết sức tế nhị, vì vậy chuyển lá thư này sẽ là một việc mạo hiểm dễ gây ra hiểu lầm và buộc tội lẫn nhau mà đơn vị chúng tôi cần phải tránh bằng bất cứ giá nào".

Thạch cũng viết cho Herbert Bluechel, ông lấy làm tiệc về vụ giết Dewey và việc Bluechel rời Sài Gòn để trở về Washington vào đầu tháng 10. Thạch viết: "Tôi không đưa ra lý do gì cho hành động bạo lực này cũng không cố gắng bào chữa. Hơn bất cứ ai khác, tôi rất tiếc về việc đó, nhưng những người có trách nhiệm trực tiếp lại coi nhẹ quyền lợi của một dân tộc tự do, đó là những người, trong thế kỷ đại dân chủ, giải phóng loài người, cố tìm cách duy trì những đặc quyền của một nước thực dân". Rõ ràng ông đánh giá nước Mỹ là người bạn tiềm năng duy nhất của Việt Nam trong số những quốc gia phương Tây có mặt tại Sài Gòn lúc đó.

Thạch không phải là đại diện duy nhất của Việt Minh bày tỏ sự thương tiếc về cái chết của Peter Dewey. Hồ Chí Minh cũng rất sửng sốt khi nghe tin người Việt Nam chịu trách nhiệm về cái chết của một sĩ quan Mỹ. Trớ trêu thay, trong cùng ngày hôm đó ông đã có "Thư gửi đồng bào miền Nam" kêu gọi họ, trong số nhiều việc khác, theo dõi cẩn thận những người Pháp bị bắt giữ trong chiến tranh nhưng cũng phải cư xử với họ một cách rộng lượng. Ông gặp trong Galllagher để bày tỏ sự đau lòng và thất vọng về cái chết của chàng thanh niên người Mỹ. Ông cho rằng sự cố đó "có thể đã được đặc vụ Pháp sắp xếp vì lợi ích tuyên truyền của Pháp, nhưng cũng thừa nhận đó có thể là hành động của những người An Nam". Ông cam đoan với Galllagher rằng một sự kiện như vậy không thể xảy ra tại Hà Nội. Ông cũng viết một lá thư gửi Truman bày tỏ sự đau buồn của ông về cái chết của Dewey và hứa sẽ tìm ra "thủ phạm và nghiêm khắc trừng phạt" ngay khi có thể, mặc dù ông nói thêm, "không thể điều tra kỹ vấn đề ngay lúc này. Sài Gòn vẫn đang trong tay quân đội Anh - Pháp".

Không có những manh mối rõ ràng để trả lời vô số câu hỏi quanh cái chết của Dewey, quân đội buộc phải dừng cuộc điều tra. Dewey đã được tuyên dương sau khi chết vì "tư cách đạo đức đặc biệt xứng đáng" và được trao tặng Bắc đẩu Bội tinh vì "thực hiện được những hoạt động phức tạp mà không bị gián đoạn về việc cung cấp đều đặn các thông tin tình báo có giá trị cao về Tổng hành dinh". Một hậu quả nữa liên quan đến cái chết của Dewey là việc giảm bớt sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Sài Gòn. Trong một phần báo cáo về cái chết của Dewey, thiếu tá F. M. Small đã nói: "Theo ý kiến tôi, chắc chắn các nhân viên quân sự trong tương lai sẽ không còn thuận lợi trong việc thu thập thông tin tình báo có giá trị từ vùng Đông Dương thuộc Pháp. Ngay khi tình hình đã ở mức độ này, họ nên được thay thế bởi những nhân viên dân sự hoạt động dưới vỏ bọc là phóng viên hoặc những nhà kinh doanh hợp pháp trong khu vực".

Trong số các thành viên đầu tiên của Biệt đội 404 chỉ có George Wickes và Frank White ở lại Sài Gòn cho tới ngày 1 tháng 11. Cả hai đều nói về sự căng thẳng ngày càng tăng trong thành phố. Mặc dù thành phố thường yên tĩnh suốt cả ngày, nhưng sau lúc nhá nhem tối cuộc đọ súng lại bắt đầu.

"Mỗi đêm", Wickes nhớ lại, "chúng tôi có thể nghe thấy tiếng trống báo hiệu của người Việt Nam bên kia sông, hầu hết vào lúc chuông điểm 12 giờ, rồi những tiếng súng rộ lên, ánh lửa bùng lên từ những kho hàng cao su, trà và thuốc lá trong các xưởng sửa chữa và đóng tàu". Ngày càng tăng số lính Nhật được sử dụng, kết hợp với quân đội Gurkhas và Pháp với nỗ lực đưa thành phố vào tầm kiểm soát. Mặc dù nỗ lực đó nói chung là thành công, nhưng những người Mỹ ở Sài Gòn vẫn "thấy mỗi lúc một thông cảm hơn với người Việt Nam".

"Chúng tôi không còn tiếp xúc hay liên lạc với các đại diện của phong trào độc lập", Wickes tuyên bố, "nhưng những tên thực dân Pháp mà chúng tôi gặp càng khiến chúng tôi thêm ủng hộ Việt Nam với cuộc đối thoại không thay đổi của họ nói về việc họ đã làm được gì cho đất nước này và họ sẽ đối xử với những kẻ thực dân kia thế nào một khi họ giành lại được quyền kiểm soát". Tuy nhiên, cả Wickes lẫn White luôn cho rằng: mặc dù họ thông cảm với người Việt Nam nhưng hành động của họ chưa bao giờ vượt quá "một lời tuyên bố cảm thông". Phóng sự hiện diện của họ tại Sài Gòn và những lời nhận xét của họ cũng đủ làm cho người Pháp, những kẻ ngày càng thấy mệt mỏi với quan điểm của Mỹ, tức giận. Nhận thấy công việc trở nên khó khăn, Biệt đội 404 được rút dần. White và Wickes rời Việt Nam trong một thời gian ngắn.

Tuy nhiên, họ sẽ sớm được gặp lại tại Hà Nội. Mặc dù ngày càng ít nhân viên quân sự Mỹ có mặt tại Sài Gòn, nhưng đối với nhiều người Việt Nam, sự hiện diện của người Mỹ dường như đang phát triển theo chiều hướng tiêu cực nhất. Vào tháng 11, quân đội Pháp, hình như đã được Chính phủ Mỹ trang bị đầy đủ gồm những chiếc xe tải và xe Jeep thuê mượn của Mỹ rõ ràng mang nhãn hiệu Mỹ, đã đến miền Nam Việt Nam. Nước Mỹ, được người Việt Nam tán dương quá lâu như là vị cứu tinh có khả năng giúp họ thoát khỏi thực dân Pháp, ngày càng bị coi là cùng một giuộc với kẻ thù của Việt Nam tại miền Nam: người Anh, những người dường như mải mê với việc chuyển giao Việt Nam cho Pháp, những người, theo tất cả biểu hiện bên ngoài, dự định một lần nữa nô dịch dân tộc này, và người Nhật, trước kia là kẻ thù của quân Đồng Minh nhưng bây giờ là cộng sự của họ trong việc phủ nhận nền độc lập của Việt Nam. Dựa vào thái độ thù địch ngày càng tăng của tình hình, bản báo cáo nhanh cuối cùng của Peter Dewey từ Sài Gòn dường như là lời tiên tri:

"Nam Kỳ đang rực cháy, người Pháp và người Anh bị kết liễu ở đây và chúng ta buộc phải cuốn xéo khỏi Đông Nam Á".

 

<< Chương 8 (c) | Chương 10 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 739

Return to top