Tôi biết rất rõ là Kinkel tử tế một cách kì lạ đối với tôi. Tôi còn cho là, nếu tôi hỏi, hắn cũng đưa cả tiền cho tôi nữa. Nhưng lối nói khoa trương về siêu hình học, mồm ngậm xì gà, và cách hắn nổi nóng khi tôi nói với hắn về các bức tranh Đức Mẹ đã thực sự làm tôi ghê tởm. Tôi không còn muốn nghe nói gì về hắn nữa. Cả về bà Fredebeul. Kết thúc! Còn về bản thân Fredebeul, sẽ có ngày tôi cho hắn đủ hai cái tát tai. Thật là vô lí nếu muốn hạ hắn bằng "các vũ khí trí tuệ". Đôi khi tôi thấy tiếc là việc đấu gươm không còn thông dụng. Như vậy sự tranh chấp giữa chúng tôi, Zupfner và tôi - được thua bằng Marie - chỉ có thể ngã ngũ bằng một cuộc đấu gươm. Thật bẩn thỉu khi người ta đánh tôi bằng những nguyên tắc đạo đức, với những bản khai và với những cuộc thương lượng bí mật trong một khách sạn ở Hanovre. Sau lần sảy thai thứ hai, Marie đã rất suy sụp, căng thẳng... chẳng có lí do gì em cũng chạy vào nhà thờ và những buổi chiều khi tôi rỗi rãi, nếu tôi từ chối không đưa em đi nhà hát kịch, nghe hòa nhạc hoặc dự một cuộc nói chuyện là em giận dỗi ngay. Lúc đó nếu rủ em chơi cờ như trước đây và uống chè, nằm sấp trên giường, em càng giận dỗi hơn. Tóm lại đã có lúc em chỉ còn chơi cờ để chiều ý tôi, nếu không phải là để làm tôi yên lòng hoặc để không muốn làm tôi buồn. Em cũng không cùng tôi đi xem những phim tôi ưa thích nữa: những phim không bị cấm đối với các trẻ em dưới mười sáu tuổi.
Tôi cho rằng không một ai trên đời này có thể hiểu được một diễn viên hài, ngay cả một diễn viên hài khác cũng vậy, vì trong trường hợp này sự đố kị vẫn xen vào. Marie có thể hiểu tôi hơn, mặc dù em không hiểu được hoàn toàn. Em cho là với tư cách người "sáng tác" tôi cần phải đạt tới một trình độ văn hóa càng rộng càng tốt. Thật là sai lầm! Dĩ nhiên tôi sẽ nhảy ngay lên xe taxi nếu có được một buổi tối rỗi rãi, tôi biết rằng ở đâu đó người ta biểu diễn một vở của Beckett. Tôi thỉnh thoảng cũng đi xem phim, nghĩ kĩ lại có thể còn đi xem nhiều là khác, nhưng chỉ để xem những phim không bị cấm đối với trẻ em dưới mười sáu tuổi. Marie không bao giờ có thể hiểu được là tại sao tôi lại thích xem loại phim ấy hơn cả, có thể là mấu chốt của nền giáo dục Cơ Đốc giáo của em dựa trên cơ sở tâm lí giáo dục học và chủ nghĩa duy lí, thêm vào đó thuyết thần bí theo kiểu: "Cho chúng đi đá bóng để chúng khỏi nghĩ đến bọn con gái". Điều đó, ở trường hợp của tôi, cũng không bao giờ ngăn cản được tôi nghĩ đến họ cho tới ngày tôi chỉ còn nghĩ tới có Marie. Vì vậy đôi khi tôi tự biến mình thành quái dị. Nếu tôi thích đi xem những phim không bị cấm đối với trẻ em dưới mười sáu tuổi hơn những phim khác là vì chúng tránh cho tôi khỏi phải dùng những thứ thuốc sắc cho người lớn có nguồn gốc ngoại tình và li hôn. Trong những phim về li hôn và về ngoại tình, hạnh phúc của ai đó bao giờ cũng có nguy cơ: "Hãy làm cho em được hạnh phúc, anh yêu", hoặc "Anh không muốn em được hạnh phúc ư?" Tôi không thể tưởng tượng được một thứ hạnh phúc chỉ kéo dài trong hơn một giây, cứ cho là hai hoặc ba giây đi nữa. Tôi cũng rất thích những phim về gái điếm, nhưng loại này có rất ít. Và nói chung những phim này lại quá cường điệu, đến mức người ta không còn nhận ra chúng là những phim về gái điếm. Tất nhiên có những phụ nữ không thuộc loại gái điếm, cũng không thuộc loại các bà vợ: những người phụ nữ đầy lòng trắc ẩn, nhưng trong điện ảnh người ta không chú ý đến loại phim này. Ngược lại, trong những phim không bị cấm đối với trẻ em dưới mười sáu tuổi, lại có rất nhiều gái điếm. Tôi không bao giờ có thể hiểu được những chuẩn mực của việc lập danh mục phim, căn cứ vào đó người ta không cấm trẻ em dưới mười sáu tuổi xem những phim về gái điếm. Những cô gái này được coi như thế hoặc do bản chất của họ hoặc chỉ đơn thuần về phương diện xã hội học. Họ gần như không bao giờ là những người phụ nữ có lòng vị tha. Trong một salon(1) nào đấy ở Far-west, những cô gái trẻ đẹp, tóc hoe nhảy kiểu căng căng trước những con mắt dâm đãng của những tay cao bồi thô lỗ đi săn bẫy hoặc đi tìm vàng đã sống hai năm trong hiu quạnh để săn lùng những con vật hôi, nhưng khi cũng những tay cao bồi ấy, những tay đi săn bẫy hoặc đi tìm vàng ấy, muốn theo các cô gái trẻ, đẹp, tóc hoe vào buồng các cô thì các cô thường đóng sập cửa trước mũi họ, trừ phi một tên súc sinh bẩn thỉu nào đó đã nhận phụ trách việc đánh các cô đến chết một cách không thương tiếc. Tôi nghĩ không có gì lạ nếu những gã khốn khổ đáng thương ấy lao vào chuyện ẩu đả tranh giành nhau; như chuyện chúng tôi đá bóng ở kí túc xá, nhưng tàn nhẫn hơn vì đây là chuyện của người lớn. Tôi thật không hiểu nền đạo đức Mĩ. Tôi cho là ở Hoa Kì, một phụ nữ đầy lòng trắc ẩn có thể sẽ bị ném vào lửa chỉ vì cô xử sự không phải vì tình yêu đối với người đàn ông, cũng không phải vì tiền, mà chỉ vì lòng thương cảm thân phận con người.
Trong những cuốn phim này, nỗi đau tinh thần, sự khốn quẫn và cuộc chiến đấu của anh ta với quỷ sứ bao giờ cũng được trình bày qua quá khứ. Một người nghệ sĩ sinh thời, không đủ tiền hút thuốc lá hoặc để mua giày tặng vợ, không gây hứng thú gì cho những nhà sản xuất phim, vì cần phải đến ba thế hệ những kẻ huyênh hoang mới có thể làm cho họ tin tưởng được rằng con người là một thiên tài. Một thế hệ những kẻ huyênh hoang đối với họ chưa đủ... "Sự tìm kiếm mãnh liệt của tâm hồn người nghệ sĩ". Đến Marie cũng tin là như vậy. Than ôi, tất nhiên có thể có cái gì trong thị hiếu ấy, nhưng phải đánh giá nó theo cách khác. Cái mà một diễn viên hài tìm kiếm là sự thanh thản, anh ta cần có ảo tưởng được thưởng thức cái mà con người bình thường gọi là những giờ nghỉ ngơi. Nhưng những người này thật ra không hiểu được rằng đối với một diễn viên hài, ảo tưởng về sự nghỉ ngơi chính là ở sự quên đi nghề nghiệp của mình, họ không hiểu điều đó bởi vì mối quan tâm lớn nhất của họ (hoàn toàn là tự nhiên đối với họ) chủ yếu là để thỏa mãn nhu cầu giải trí của họ bằng nghệ thuật. Còn đối với những người yêu nghệ thuật, đúng là họ chỉ nghĩ đến nghệ thuật, nhưng họ không cần sự nghỉ ngơi bởi vì họ không lao động, đấy là một chuyện hoàn toàn khác. Liệu thử gọi người nghệ sĩ là một người yêu nghệ thuật, tất sẽ gây ra những sự hiểu lầm khó chịu. Những người yêu nghệ thuật bắt đầu nói về nghệ thuật đúng vào lúc người nghệ sĩ cho là cuối cùng mình đã có thể được hưởng thụ cái gì đó tựa như là sự nghỉ ngơi. Nói chung họ chạm đúng cân não với một sự chính xác phi thường; trong khoảng hai, ba hoặc năm phút khi người nghệ sĩ quên đi nghệ thuật, thì người yêu nghệ thuật đưa ra Van Gogh, Kafka(1), Chaplin hoặc Beckett làm đề tài câu chuyện. Trong những lúc như thế, tôi thật chỉ muốn tự tử. Chỉ cần tôi chợt nghĩ đến cái việc mà tôi làm với Marie, hoặc đến một cốc bia, đến những chiếc lá mùa thu hoặc đến việc chơi cờ, nếu không phải là một chủ đề hơi tục tĩu nào đó hoặc có tính chất tình cảm, là một Fredebeul hoặc Sommerwild đã thao thao bất tuyệt về nghệ thuật. Đúng vào lúc tôi có cảm giác say sưa được là một con người hoàn toàn bình thường, cũng bình thường theo kiểu tư sản như một Karl Emonds, thì ông bạn Fredebeul hoặc Sommerwild đã dẫn ra Claudel(1) hay Ionesco. Marie cũng có khuynh hướng đáng buồn như vậy, nhất là trong thời gian gần đây. Điều đó đã làm tôi kinh ngạc, hôm tôi nói với em là tôi có ý định sẽ hát và đệm đàn với cây ghi ta của tôi. Căn cứ vào thái độ của em thì hình như tôi đã phạm vào khiếu thẩm mĩ của em.
Chính là vào lúc, người phàm tục rời bỏ công việc của mình thì người diễn viên hài bắt đầu công việc của anh ta. Tất cả, từ ông bầu với nguồn lợi đế vương đến người thợ tầm thường nhất đều biết thế nào là sự nghỉ ngơi, họ đi uống bia hay đi săn bắn ở Alaska(2), sưu tập tem thơ, thưởng thức phái ấn tượng hoặc phái biểu hiện (có điều chắc chắn: người "sưu tập" nghệ thuật không phải là một nghệ sĩ). Vào lúc họ nghỉ làm việc, chỉ cái lối họ châm thuốc lá và tự tạo cho mình một bộ mặt riêng biệt đủ làm cho tôi bực mình. Thực tế, tôi biết khá đầy đủ cái cảm giác ấy để tị nạnh với họ về thì giờ họ dùng để cảm nghiệm nó, vì một diễn viên hài cũng đánh dấu sự kết thúc công việc của mình: anh ta có thể ngồi duổi chân ra và, trong thời gian dành cho một nửa điếu thuốc lá, thưởng thức những niềm vui của sự nghỉ ngơi. Ngược lại cái mà người ta gọi là "nghỉ phép" thì lại chết người. Bọn họ có thể tạo cho họ đến ba, bốn hoặc sáu tuần lễ! Marie đã cố gắng nhiều lần thu xếp cho tôi được hưởng cái thú của việc đi nghỉ phép. Chúng tôi ra bờ biển, về nông thôn, tắm lội, leo núi. Đến ngày thứ hai tôi đã lăn ra ốm: người tôi nổi đầy mụn từ đầu đến chân, còn đầu óc tôi thì tràn ngập những ý nghĩ chết chóc. Tôi cho là tôi ốm vì tôi có quá nhiều ham muốn. Và một hôm Marie nghĩ ra chuyện đưa tôi đến nghỉ ở một nơi chủ yếu dành cho các nghệ sĩ. ý kiến thật tai hại! Tất nhiên ở đây chỉ toàn những người sinh sống bằng nghệ thuật, và ngay buổi tối đầu tiên tôi đã gây gổ với một tên ngu xuẩn, một tay có thần thế trong kĩ nghệ điện ảnh đã kéo tôi vào một cuộc tranh luận về Gruck(1), Chaplin và vai người điên trong các vở kịch viết theo lối Shakespear(2). Không những tôi nhận đủ một trận đòn ra trò (những tay này sống đầy đủ bằng một nghề người ta gọi là nghệ thuật, không bao giờ biết mệt là gì và khỏe như những người Thổ), thêm vào đó còn mắc vào một cơn sốt vàng da dữ dội. Vừa thoát ra khỏi cái sào huyệt đó là tôi khỏi ốm ngay hoặc gần như thế. Điều ngăn cản tôi không được hưởng sự nghỉ ngơi là do tôi bất lực trong việc tự hạn chế mình, hay như Zohnerer ông bầu của tôi nói, hoạt động của tôi không có sự tập trung. Trong những tiết mục của tôi, tôi pha trộn các loại hình: kịch câm, mĩ học, trò hề. Tôi có thể thực hiện một vai kịch câm, cũng có thể thực hiện tốt một vai hề, nhưng tôi dàn dựng quá nhiều tiết mục. Tôi có thể sống nhiều năm chỉ với một số tiết mục trong đó: Cơ Đốc thuyết giáo và Tin Lành giảng đạo, Phiên họp của Hội đồng quản trị, Giao thông thành phố và vài tiết mục khác. Những khi đã trình bày một tiết mục đến mười hoặc hai mươi lần, tôi thấy chán đến mức đương giữa lúc biểu diễn tôi muốn ngáp một cách kinh khủng, buộc phải bắt các cơ bắp của tôi cơ cán vào khuôn phép với một sự chăm chú cao độ. Tôi chán chính tôi. Nghĩ đến việc một vài diễn viên phải thực hiện cũng tiết mục ấy suốt ba mươi năm của cuộc đời họ, tôi thấy hoảng sợ như thể tôi bị bắt buộc phải ăn bằng thìa toàn bộ một túi bột mì. Mỗi khi một việc gì không còn gây hứng thú cho tôi nữa là tôi phát ốm... và lập tức tôi có ý nghĩ muốn làm trò tung hứng hoặc ca hát, đó cũng là một cớ để thoát khỏi sự luyện tập hàng ngày! Về nguyên tắc, buổi tập của tôi không bao giờ dưới bốn tiếng đồng hồ, nếu không phải là sáu tiếng hoặc có thể hơn. Vậy mà từ sáu tuần nay tôi đã hờ hững với việc luyện tập, tạm bằng lòng mỗi ngày với ít động tác thăng bằng bằng đầu và bằng tay, vài động tác nhào lộn và vài động tác thể dục trên tấm đệm cao su không lúc nào rời khỏi tôi. Bây giờ tôi đã có một lí do xác đáng - vết thương của tôi ở đầu gối - để nằm dài ra ở đivăng hút thuốc và mủi lòng trước số phận của mình. Tiết mục kịch câm cuối cùng của tôi đã dựng diễn: văn của ngài Bộ trưởng, tôi cho là rất đạt, nhưng tôi thấy mệt mỏi trong việc diễn tả dưới hình thức châm biếm mà không bao giờ có thể vượt qua được một giới hạn nhất định. Mọi cố gắng đưa chất trữ tình vào đều thất bại. Tôi chưa bao giờ thành công trong việc mô phỏng "bản chất con người" mà không rơi vào sự tầm thường hóa. Về mặt nghệ thuật, những tiết mục Cặp khiêu vũ và Đi đến trường học - từ trường học về không phải là tồi. Tuy nhiên ngay khi mà tôi thử nhại cuộc sống của một con người, là tôi lại rơi ngay vào kiểu biếm họa. Marie có lí khi cho việc tôi thích hát và tự đệm bằng cây ghi ta là một mưu toan lẩn trốn. Tôi thành công hơn cả trong việc miêu tả những chuyện phi lí hàng ngày: tôi quan sát, tổng hợp những điều quan sát được, nâng chúng lên tới một sức mạnh nào đó để từ đó rút ra căn nguyên, nhưng sử dụng một yếu tố khác với yếu tố mà tôi đã sử dụng để nâng chúng lên tới sức mạnh đó. Trong mỗi nhà ga tương đối quan trọng nào đó thường có hàng nghìn người vào thành phố để làm việc trong khi hàng nghìn người khác lại ra khỏi thành phố để đến làm việc ở những nơi khác. Tại sao họ không đơn giản hoán vị cho nhau nơi làm việc. Không nói đến cơn ác mộng về những dãy xe hơi dài dằng dặc không ngừng phải tránh nhau, vào những giờ cao điểm. Hoán vị nơi làm việc hoặc nơi ở, và trò chơi sẽ kết thúc: bớt đi cái mùi hôi thối không cần thiết kia, bớt đi cả việc bắt buộc những tay cảnh sát đáng thương kia phải chèo kéo như những người tù khổ sai. Luồng giao thông sẽ giảm đi ở các ngã tư và cảnh sát có thể ngồi chơi cờ. Tổng hợp những quan sát này, tôi dựng một tiết mục kịch câm, mặt trát phấn, thản nhiên và bất động, chỉ bằng tay và chân, tôi có thể tạo nên ấn tượng về một sự náo nhiệt phi thường. Mục tiêu của tôi là chỉ sử dụng một số đạo cụ tối thiểu, tốt nhất là hoàn toàn không sử dụng chúng. Trong tiết mục Đi đến trường học và từ trường học về, tôi không dùng cả đến cặp sách: kiểu cách cắp nó đủ để gợi lên hình ảnh đó. Tôi đi qua đường vào phút cuối cùng, đến trước một toa xe điện đang rung chuông báo hiệu, nhảy lên một chiếc xe khách đang chạy, xuống xe cũng bằng cách ấy, bị tủ kính các cửa hàng thu hút, viết phấn - sai chính tả - lên tường các ngôi nhà bên đường, đến trường chậm, bị giáo viên quở trách, đặt cặp sách lên bàn, lén ngồi vào ghế. Tôi biết cách biểu lộ cảm hứng trữ tình của tuổi thơ: trong cuộc sống của trẻ em, trong cái tầm thường có cái lớn lao, điều này khác thường, rời rạc và bao giờ cũng mang tính bi kịch. Một đứa trẻ, khi còn là đứa trẻ, không biết đến sự nghỉ ngơi chỉ bắt đầu với nó khi nó chấp nhận những "nguyên tắc đạo đức". Với lòng hăng hái cuồng nhiệt, tôi quan sát tất cả những biểu hiện gắn vào thời điểm tan tầm: cách người thợ nhét tiền lương vào túi và nhảy lên chiếc xe đạp máy của anh ta, cử chỉ kiên quyết của người buôn chứng khoán khi anh ta gác ống nghe telephon và cất quyển sổ tay của anh ta vào ngăn bàn, khóa nó lại, hoặc cả đến kiểu một người phụ nữ bán thực phẩm, cởi bỏ tấm tạp dề, rửa tay, sửa lại tóc và soi gương, tô lại đôi môi, nhặt lên chiếc khăn tay... và ra đi. Đối với tôi những cử chỉ có tính người sâu sắc ấy, nếu chỉ để từ đó rút ra một tiết mục hài thì thật dã man. Tôi vẫn thường tranh luận với Marie về việc làm thế nào để biết là một con vật có thể có hay không sự nghỉ ngơi, con bò đương gặm cỏ hay con lừa đứng ngủ gật sau hàng rào. Theo ý kiến của Marie, cho là một con vật đang nghỉ ngơi khi nó làm việc, điều đó giống như một sự báng bổ. Sự buồn ngủ theo em có thể là cái gì đó giống như là một sự nghỉ ngơi, một loại việc quan trọng chung cho cả người lẫn vật; nhưng sự nghỉ ngơi thực sự có phải là điều mà người ta có thể hưởng thụ một cách có ý thức không? Những người thày thuốc cũng tuân thủ sự ngừng làm việc trong lao động, và từ ít lâu nay các ông linh mục cũng vậy. Thế mà điều đó lại làm tôi bực tức: những loại người đó không nên được nghỉ ngơi, chỉ khi ấy họ mới hiểu được đặc điểm của đời người nghệ sĩ. Một vấn đề mà Marie và tôi không bao giờ có thể nhất trí được: Chúa Trời mà em tin, Người có nghỉ ngơi hay không? Marie cho là có và để chứng minh em lấy ra bài Cựu Ước và đọc tôi nghe đoạn rút ra từ lịch sử sáng tạo thế giới: "và đến ngày thứ bảy thì Chúa nghỉ ngơi". Dựa vào Tân Ước, tôi bác bỏ câu trích dẫn của em: nếu tôi buộc phải công nhận là Chúa của Cựu Ước có sự nghỉ ngơi, tôi cũng không thể hình dung được là Christ lại có thể ngừng làm việc vào giờ nhất định. Marie tím mặt lại nhưng cũng phải thừa nhận một quan niệm như vậy về cuộc đời của Christ đối với em là có tính chất báng bổ. Có thể Chúa hành lễ, phải, tất nhiên, nhưng ngừng làm việc vào giờ nhất định! Chuyện đó không thể có được!
Tôi có thể ngủ như một con vật, một giấc ngủ nói chung không mộng mị. Có khi tôi chỉ mới ngủ có vài phút đã có cảm giác mình vắng mặt cả một thời gian dài, như thể là tôi đã để đầu tôi xuyên qua bức tường đằng sau đó là sự vô cùng, sự quên lãng, sự yên nghỉ đời đời và cũng có cái cảm giác đã choán đầy tâm trí Henriette khi chị để rơi chiếc vợt tennis khỏi tay chị, khi chị để rớt chiếc thìa của chị vào đĩa súp hoặc với một cử chỉ đột ngột chị quẳng những con bài của chị vào lửa: sự trống rỗng. Hôm tôi hỏi chị nghĩ đến gì mà lại có thể đãng trí đến như vậy, chị trả lời tôi: "Em không biết thật à?" và khi tôi lắc đầu, chị nói tiếp trong tiếng thì thầm: "Chẳng nghĩ đến gì cả, chị chẳng nghĩ đến gì cả". Không thể, tôi nói, không nghĩ đến gì được. "Có chứ, rất có thể có thể như thếÕ, chị trả lời tôi. Ỏở chị bỗng như có sự trống rỗng, chị như say rượu, và nếu có thể thì lúc đó chị sẽ cởi bỏ hết quần áo, giày dép để cảm thấy mình được hoàn toàn nhẹ nhõm". Chị nói thêm là chị thấy cảm giác ấy tuyệt vời như thế nào, chị luôn luôn bồn chồn chờ đợi cái khoảnh khắc ấy; nhưng khổ thay cái khoảnh khắc ấy bao giờ cũng đến với chị một cách bất ngờ: cứ như là bước vào cõi vĩnh hằng. Chuyện cũng đã xảy ra với chị một hay hai lần ở trường học, vả lại tôi cũng nhớ lại những cuộc trao đổi qua telephon giữa mẹ tôi và cô giáo nhà trường: "Phải, phải, đấy là chứng ictêri, đúng thế... và nhất là cần phải trừng phạt nó thật nghiêm khắc vào!"
Đôi khi tôi cũng có cái cảm giác cao cả ấy vào lúc tôi chơi cờ tào cáo liền ba hoặc bốn tiếng đồng hồ. Những tiếng động đã đủ truyền vào tôi cảm giác đó: tiếng lăn của con xúc xắc, tiếng kéo lê của những con tốt trên mặt các ô bàn cờ, tiếng "tắc" khi người ta chồng chúng lên nhau. Marie mặc dù thích chơi cờ chiếu tướng hơn, cuối cùng cũng mê loại cờ này. Nó kích thích chúng tôi như một chất ma tuý. Có khi chúng tôi chơi cờ liền năm hoặc sáu tiếng đồng hồ. Những nhân viên nam hay các cô hầu phòng đem chè uống hay cà phê lên cho chúng tôi thường có vẻ mặt pha trộn giữa sự sợ hãi và sự phẫn nộ như vẻ mặt của mẹ tôi trước đây mỗi khi Henriette lên cơn; họ đôi khi lẩm bẩm điều mà lão đeo mục kỉnh lẩm bẩm trên xe ca cái buổi sáng khi tôi từ nhà Marie trở về: "Không thể tưởng tượng được!" Marie còn sáng tạo ra một hệ thống tính điểm rất phức tạp: tùy theo ta bị chặn hay là ta chặn được đối phương, mất điểm hay được điểm; cuối cùng thành một bảng điểm rất gây ấn tượng. Tôi còn mua cho em một chiếc bút chì máy bốn mầu để em có thể phân biệt rõ hơn các dấu có giá trị dương, giá trị âm. Có khi chúng tôi còn chơi cờ trên toa xe lửa trong những chặng đường dài, gây kinh ngạc lớn cho những khách đi du lịch vào loại nghiêm chỉnh... Cho đến cái ngày tôi phát hiện ra là Marie chỉ còn chơi cờ để làm vui lòng tôi và cũng để giữ cho tôi được bình tĩnh bằng cách làm bớt căng thẳng "tâm hồn nghệ sĩ" của tôi: tâm trí của em từ bây giờ trở đi đã ở nơi khác. Sự bất hòa giữa chúng tôi đã bắt đầu bộc lộ, từ mấy tháng nay, khi có được năm ngày tự do, tôi đã từ chối không đi Bonn. Lí do là tôi khiếp sợ cái câu lạc bộ ấy và cũng vì ngại gặp Léo. Marie không ngớt nhắc đi nhắc lại là em muốn được thở lại "bầu không khí Cơ Đốc giáo", tôi nhắc lại với em về tình trạng của chúng tôi khi từ Bonn trở về Cologne sau buổi tối đầu tiên của chúng tôi ở câu lạc bộ: mệt mỏi, khổ sở và ủ rột. Trên toa xe em không ngừng nói: "Em yêu anh biết chừng nào, em yêu anh biết chừng nào"; em đã tựa đầu em lên vai tôi ngủ thiếp đi và chỉ tỉnh dậy mỗi khi trên sân ga người trưởng toa kêu to tên các ga: Sechtem, Walderberg, Bruhl, Kalscheuren... mỗi lần như vậy em lại giật mình; lúc đó tôi đặt lại đầu em trên vai tôi, và cuối cùng khi chúng tôi xuống ga phía Tây Cologne, em thở dài: "Có lẽ chúng ta nên đi xem phim". Phải, khi em tuyên bố với tôi là em cần được thở lại bầu không khí Cơ Đốc giáo, tôi nhắc lại với em tất cả những tình tiết trên và đề xuất việc đi xem phim hay đi khiêu vũ, hoặc có thể chơi cờ tào cáo, em lắc đầu và một mình bỏ đi Bonn. Cần phải hiểu "bầu không khí Cơ Đốc giáo" muốn nói gì? Đối với tôi, đấy là một công thức rỗng tuếch. Tóm lại lúc đó chúng tôi đương ở Osnabrỹck(1), và tôi không cho là bầu không khí ở đây nhất định là không
- Cơ Đốc giáo.