NĂM 1942, do nhiều nguyên nhân, nước ta lại gặp phải những thử thách gay go. Nhưng, cũng như hồi năm 1941, trong chiến dịch bảo vệ Mát-xcơ-va, nhân dân và các lực lượng vũ trang Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng Lê-nin, đã anh dũng vượt qua khó khăn, tiêu diệt cánh quân chiến lược hết sức lớn của Đức ở vùng giữa sông Đông và sông Von-ga, mở đầu giai đoạn đuổi quân phát-xít Đức ra khỏi bờ cõi Tổ quốc ta.
Để hiểu sâu hơn những sự kiện xảy ra ở miền Nam nước ta, cần biết sơ lược tình hình chính trị - quân sự hồi đầu mùa hè năm 1942.
Cuối mùa xuân 1942, tình hình trong nước và vị trí quốc tế của Liên Xô có khá hơn đôi chút. Mặt trận chống phát-xít tiếp tục mở rộng và củng cố. Tháng Giêng, 26 nước đã ký bản tuyên bố, cùng nhau thỏa thuận sử dụng mọi lực lượng và phương tiện chống lại các nước xâm lược và nguyện không ký kết hòa ước riêng rẽ hay đình chiến với chúng. Với Mỹ và Anh, đã có sự thỏa thuận mở mặt trận thứ hai ở châu Âu năm 1942. Tất cả những điều ấy cùng với những tình hình khác, đặc biệt là việc tiêu diệt quân Đức ở Mát-xcơ-va, phá tan kế hoạch chiến tranh chớp nhoáng đánh Liên Xô của bọn Hít-le, đã cổ vũ mạnh mẽ các lực lượng chống phát-xít trong tất cả các nước.
Trên mặt trận Xô-Đức tạm yên tiếng súng. Cả hai bên đều chuyển sang phòng ngự. Ở các trận địa phòng ngự, bộ đội lo đào chiến hào, xây công sự, đặt mìn trên những cửa ngõ vào tiền duyên, mắc dây thép gai và làm các công việc khác về củng cố phòng ngự. Cán bộ chỉ huy và các cơ quan tham mưu của ta nghiên cứu bố trí hệ thống hỏa lực tổ chức hiệp đồng giữa các binh chủng và nhiều vấn đề khác. Đại bản doanh, Bộ Tổng tham mưu và các đơn vị đều lo tổng kết giai đoạn chiến tranh vừa qua, kiểm điểm ưu, khuyết điểm của bộ đội ta, tìm hiểu sâu thêm nghệ thuật quân sự của địch, các mặt mạnh, yếu của chúng.
Phấn khởi trước thắng lợi to lớn của Hồng quân ở vùng Mát-xcơ-va, thắng lợi có ý nghĩa mở đầu bước ngoặt cơ bản trong chiến tranh, nhân dân Liên Xô đã thực hiện có kết quả việc chuyển nền kinh tế quốc dân thời bình thành kinh tế thời chiến. Quân đội Liên Xô được trang bị ngày càng nhiều xe tăng, máy bay mới, pháo, vũ khí phản lực và đạn dược.
Ở hậu phương, lực lượng dự bị chiến lược mới gồm đủ các binh chủng đã được xây dựng. Những thành tựu của công nghiệp xe tăng và pháo cho phép Bộ Tổng tư lệnh tối cao xây dựng các quân đoàn và tập đoàn quân xe tăng có khí tài mới nhất lúc bấy giờ.
Quân đội ta được trang bị pháo chống tăng cải tiến 45 mm, pháo 76 mm mới. Các lữ đoàn và sư đoàn chống tăng mới được thành lập để đánh các binh đoàn xe tăng lớn. Có nhiều biện pháp tổ chức phòng không trong bộ đội nói riêng và trong cả nước nói chung. Không quân của chúng ta đã có khả năng để bắt tay vào thành lập những tập đoàn quân. Tháng 6, chúng ta đã có 8 tập đoàn quân không quân. Các binh đoàn không quân tầm xa và các quân đoàn dự bị của Bộ Tổng tư lệnh được bổ sung thêm rất nhiều. Tổng quân số bộ đội tại ngũ tăng lên tới 5.534.500 người, xe tăng có 4.959 chiếc, pháo và cối có 40.798 khẩu, máy bay có 2.480 chiếc. Khắp các đơn vị đều triển khai huấn luyện chiến đấu, nghiên cứu nắm vững kinh nghiệm chiến tranh và khí tài mới.
Bộ chỉ huy phát-xít Đức cũng chuẩn bị chiến cục mùa hè; chúng vẫn coi mặt trận Liên Xô là chủ yếu. Bọn Hít-le ngày càng điều sang mặt trận phía đông nhiều lực lượng đồng minh của chúng.
Phát-xít Đức và các đồng minh của chúng trên các mặt trận từ Ba-rên-xép đến Biển Đen có 217 sư đoàn và 20 lữ đoàn trong đó có 178 sư đoàn, 8 lữ đoàn và 4 phi đoàn không quân là Đức thuần túy. Trên các mặt trận khác và trong các nước bị chiếm đóng, vì chưa mở mặt trận thứ hai, bọn Đức chỉ giữ ở đây không quá 20% số quân của chúng.
Đến tháng 5-1942, trên mặt trận Xô-Đức, kẻ thù đã có một đội quân hơn sáu triệu người (trong đó có 81 vạn quân thuộc các nước đồng minh của nó), 3.230 xe tăng và pháo tấn công, gần 57.000 khẩu pháo và cối, 3.400 máy bay chiến đấu. Về người, pháo và cối, quân Đức vẫn chiếm ưu thế như trước. Chúng ta có hơn một ít về số lượng máy bay và xe tăng, nhưng về chất lượng thì phần lớn xe tăng của ta hãy còn kém xe tăng Đức.
Nhìn chung, chiến lược quân sự và chính trị của Hít-le thời kỳ trước mắt năm 1942 là nhằm tiêu diệt quân ta ở phía nam, chiếm vùng Cáp-ca-dơ, tiến đến sông Von-ga, chiếm Xta-lin-grát (nay là Von-ga-grát), A-xtơ-ra-khan và tạo điều kiện tiêu diệt Nhà nước Liên Xô.
Trong khi đặt kế hoạch tiến công mùa hè năm 1942, bộ chỉ huy Đức tuy vẫn có ưu thế về lực lượng và phương tiện so với các lực lượng vũ trang Liên xô, nhưng đã không còn khả năng cùng một lúc tiến công trên tất cả các hướng chiến lược như chúng đã làm năm 1941, theo kế hoạch “Bác-ba-rốt-xơ”.
Đến mùa xuân 1942, quân Đức đã bị căng ra từ Ba-rên-xép đến Biển Đen. Do đó mật độ chiến dịch của chúng giảm sút rõ rệt. Nhờ thi hành một loạt chủ trương tổng hợp, bọn chỉ huy Đức đã xây dựng được cụm tập đoàn quân “Nam” và tập trung vào đó những lực lượng trội hơn lực lượng ta ở hướng tây-nam.
Chỉ thị của Hít-le số 41 ngày 5-4-1942 dự kiến chiếm đoạt những vùng công nghiệp, nông nghiệp trù phú nhất của Liên Xô để có nguồn kinh tế bổ sung (trước hết là dầu hỏa ở Cáp-ca-dơ) và chiếm thế chiến lược áp đảo có lợi, nhằm đạt những mục tiêu quân sự - chính trị của chúng.
Hít-le và vây cánh hy vọng rằng, hễ quân Đức hoạt động có kết quả ở phía nam nước ta thì chúng có thể đánh ngay vào cả các hướng khác và lại tấn công Lê-nin-grát, Mát-xcơ-va. Trên hướng chiến lược Mát-xcơ-va, chúng dự tính chỉ mở các chiến dịch tiến công bộ phận để thanh toán số quân Liên Xô đã lấn sâu vào khu vực phòng ngự của Đức. Làm như thế nhằm hai mục đích: thứ nhất, cải thiện thế chiến dịch của quân đội chúng; thứ hai, làm cho bộ chỉ huy Liên Xô không chú ý đến hướng chiến lược phía nam, nơi chúng chuẩn bị đòn chủ yếu. Đặt kế hoạch chiếm Cáp-ca-dơ và Von-ga, bọn Hít-le âm mưu cắt đứt đường giao thông của Liên Xô với các đồng minh của mình thông qua Cáp-ca-dơ.
Mùa xuân năm 1942, tôi thường có mặt ở Bộ Tổng tư lệnh, tham gia thảo luận ở chỗ Tổng tư lệnh tối cao về nhiều vấn đề chiến lược quyết định, vì vậy tôi biết rõ đồng chí Tổng tư lệnh đánh giá tình hình lúc bấy giờ như thế nào và triển vọng của chiến tranh trong năm 1942 ra sao.
Rõ ràng là Tổng tư lệnh không thật tin những cam kết của Sớc-sin và Ru-dơ-ven về việc mở mặt trận thứ hai ở châu Âu, nhưng vẫn hy vọng họ sẽ làm một cái gì với mức độ nào đó ở các vùng khác. I.V. Xta-lin tin Ru-dơ-ven nhiều hơn Sớc-sin.
Tổng tư lệnh phán đoán rằng mùa hè năm 1942, bọn Đức sẽ có đủ sức mở những chiến dịch tiến công lớn cùng một lúc trên hai hướng chiến lược, mà có khả năng nhiều nhất là hướng Mát-xcơ-va và hướng nam. Còn ở phía bắc và tây-bắc, Xta-lin nói, có thể chúng có những hoạt động không đáng kể. Có khả năng chúng cố cắt những chỗ lồi ra trên tuyến phòng ngự của ta và cải tiến việc bố trí quân của chúng.
Trong hai hướng mà theo ý Tổng tư lệnh, địch có thể triển khai những chiến dịch tiến công chiến lược, đồng chí lo nhất cho hướng Mát-xcơ-va, ở đây địch tập trung hơn 70 sư đoàn.
Về các kế hoạch mùa xuân và đầu mùa hè 1942 của ta, Xta-lin cho rằng, hiện nay chúng ta không đủ lực lượng và phương tiện mở những chiến dịch tiến công lớn. Trước mắt, đồng chí cho rằng, chỉ nên phòng ngự chiến lược tích cực, nhưng đồng thời mở một loạt chiến dịch tiến công bộ phận ở Crưm, ở khu vực Khác-cốp, trên hướng Lơ-gốp - Cuốc-xcơ và Xmô-len-xcơ, và cả ở các khu vực Lê-nin-grát và Đê-mi-an-xcơ.
Tôi được biết, ý kiến của B.M Sa-pô-sni-cốp về nguyên tắc thì giống ý kiến của Xta-lin, nhưng về kế hoạch hành động của quân ta thì đồng chí chủ trương đầu mùa hè chỉ nên phòng ngự chiến lược tích cực, tiêu hao và làm suy yếu kẻ địch, để sau đó, khi đã tích lũy lực lượng dự bị rồi thì chuyển sang phản công rộng rãi. Tôi ủng hộ Sa-pô-sni-cốp, nhưng cho rằng, ngay đầu mùa hè, ở hướng tây, nhất định cần tiêu diệt cánh quân Rơ-giép - Vi-a-dơ-ma, ở đây, quân Đức đang giữ một bàn đạp rộng lớn và có nhiều lực lượng.
Đại bản doanh và Bộ Tổng tham mưu cho rằng, hướng đặc biệt nguy hiểm là hướng O-ri-ôn - Tu-la và hướng Cuốc-xcơ - Vô-rô-ne-giơ vì từ đấy địch có thể đánh Mát-xcơ-va bằng cách vu hồi Thủ đô từ phía tây-nam. Với tưởng định ấy, để bảo vệ Mát-xcơ-va từ hướng tây-nam, Đại bản doanh hạ quyết tâm đến cuối mùa xuân sẽ tập trung phần lớn lực lượng dự bị của Bộ ở khu vực thuộc Phương diện quân Bri-an-xcơ.
Phương diện quân Bri-an-xcơ được bổ sung nhiều lực lượng và phương tiện. Giữa tháng 5, nó có thêm 4 quân đoàn xe tăng, 7 sư đoàn bộ binh, 11 lữ đoàn bộ binh độc lập, 4 lữ đoàn xe tăng độc lập và một số lớn pháo binh. Ngoài ra, còn phối thuộc cho Phương diện quân Bri-an-xcơ tập đoàn xe tăng 5, lực lượng dự bị của Bộ tổng tư lệnh, để phản kích mạnh mẽ quân địch khi chúng tiến công vào khu vực phương diện quân đó.
Về cơ bản, tôi đồng ý với dự kiến chiến dịch - chiến lược của Tổng tư lệnh, nhưng không thể đồng ý về số lượng các chiến dịch bộ phận do phương diện quân tiến hành, vì nó sẽ ngốn mất lực lượng dự bị của ta, do đó gây khó khăn cho việc chuẩn bị tổng tiến công sau này.
Báo cáo ý kiến của mình, tôi đề nghị với Xta-lin và Bộ Tổng tham mưu, như đã nói trên, trước hết đánh thật mạnh vào hướng chiến lược phía tây để tiêu diệt cánh quân địch ở Vi-a-dơ-ma - Rơ-giép. Lực lượng sử dụng là các Phương diện quân miền Tây, Ca-li-nin và các phương diện quân gần đấy, cùng là không quân của Bộ Tổng tư lệnh tối cao và lực lượng phòng không Mát-xcơ-va. Việc tiêu diệt quân địch ở hướng tây nhằm làm suy yếu nghiêm trọng quân Đức, buộc chúng bỏ các chiến dịch tiến công lớn, ít ra cũng trong thời gian trước mắt.
Tất nhiên, về sau này nhìn lại mà đánh giá tình hình, kết luận ấy chưa hẳn là điều không phải bàn cãi, nhưng lúc ấy, trong điều kiện chưa có thật đầy đủ số liệu về địch thì tôi tin chắc là tôi đúng.
Vì đây là vấn đề phức tạp, Xta-lin ra lệnh thảo luận về tình hình chung và các loại phương án hoạt động có thể của quân ta trong chiến cục mùa hè.
Cuộc hội nghị này họp vào cuối tháng 3 tại Hội đồng quốc phòng; tham dự có Vô-rô-si-lốp, Ti-mô-sen-cô, Sa-pô-sni-cốp, tôi và Ba-gra-mi-an.
Sa-pô-sni-cốp đọc bản báo cáo rất súc tích và căn bản phù hợp với dự kiến của I.V. Xta-lin. Nhưng, xét thấy địch có ưu thế về quân số và chưa có mặt trận thứ hai ở châu Âu, Sa-pô-sni-cốp đề nghị là trước mắt chỉ nên tích cực phòng ngự. Các đội dự bị chiến lược cơ bản cứ để nguyên, tập trung vào hướng giữa và một phần ở khu Vô-rô-ne-giơ là nơi mà Bộ Tổng tham mưu cho rằng mùa hè năm 1942, có thể xảy ra những sự kiện chủ yếu.
Khi nghiên cứu kế hoạch chiến dịch tiến công do bộ chỉ huy hướng tây-nam trình bày (dùng lực lượng của các Phương diện quân Bri-an-xcơ, Tây-nam và Nam), nguyên soái Sa-pô-sni-cốp cố nêu rõ những khó khăn trong việc tổ chức chiến dịch đó, nhưng Tổng tư lệnh tối cao ngắt lời và nói:
- Chúng ta không thể ngồi khoanh tay phòng ngự chờ bọn Đức đánh trước! Chính chúng ta cần đánh chúng những đòn phủ đầu trên chính diện rộng và thăm dò sự chuẩn bị của địch. Giu-cốp có ý kiến triển khai tiến công ở hướng tây, còn trên các mặt trận khác thì phòng ngự. Tôi nghĩ rằng đó là một biện pháp nửa vời.
Đến lượt X.K Ti-mô-sen-cô nói. Trình bày xong tình hình ở hướng tây-nam, đồng chí nói tiếp:
- Quân ta ở hướng tây-nam hiện giờ có thể và nhất thiết cần đánh bọn Đức ở đó một đòn phủ đầu làm phá sản kế hoạch của chúng định tiến công vào các Phương diện quân Nam và Tây-nam, nếu không thì sẽ tái diễn cái cảnh hồi đầu chiến tranh. Còn việc chuyển sang tiến công ở hướng tây, tôi ủng hộ Giu-cốp. Như thế sẽ giam chân lực lượng của địch.
K.E. Vô-rô-si-lốp ủng hộ ý kiến của X.K. Ti-mô-sen-cô.
Tôi lại báo cáo ý kiến của tôi không tán thành triển khai nhiều chiến dịch tiến công. Sa-pô-sni-cốp, theo tôi biết, cũng không tán thành mở các chiến dịch tiến công bộ phận, lần này, tiếc rằng lại im lặng. Kết thúc hội nghị, Tổng tư lệnh tối cao chỉ thị chuẩn bị và tiến hành ngay trước mắt những chiến dịch bộ phận ở Crưm, trên hướng Khác-cốp và ở một số nơi khác. Sau hội nghị ở Đại bản doanh, chúng tôi ai nấy về vị trí của mình.
Tình hình tháng 5 và tháng 6 cho thấy Đại bản doanh đã tính sai. Lực lượng vũ trang của chúng ta ở phía nam lại gặp khó khăn nghiêm trọng. Cuối tháng 4, quân ta tiến công ở Crưm không thành công. Bộ đội ở mặt trận Crưm do trung tướng Đ.T. Cô-dơ-lốp chỉ huy không đạt được mục tiêu, bị tổn thất lớn. Đại bản doanh chỉ thị cho bộ tư lệnh phương diện quân chuyển sang phòng ngự quyết liệt.
Ngày 8-5, địch tập trung lực lượng xung kích đánh vào mặt trận Crưm và huy động nhiều máy bay đến chọc thủng được trận địa phòng ngự. Bộ đội ta lâm vào tình thế rất gay go, phải bỏ Kéc-sơ.
Thất bại ở khu vực Kéc-sơ gây khó khăn cho Xê-va-xtôn-pôn; tại đây các chiến sĩ bảo vệ thành phố đã chiến đấu ác liệt từ tháng 10. Chiếm xong Kéc-sơ, bộ chỉ huy quân Đức tập trung tất cả lực lượng đánh Xê-va-xtôn-pôn.
Sau 9 tháng bị vây hãm, sau những trận chiến đấu dài ngày và quyết liệt trong đó các chiến sĩ hải quân, lục quân ta đã phát huy truyền thống vinh quang bất diệt, ngày 4-7, quân ta phải bỏ Xê-vô xtôn-pôn.
Crưm mất toàn bộ, điều đó làm cho tình hình chung của chúng ta gay go thêm rất nhiều và tất nhiên làm cho tình hình của địch thuận lợi lên vì nó đã có thể dành ra một trong những tập đoàn quân có sức chiến đấu và có rất nhiều phương diện tăng cường.
Ngày 3-5, Phương diện quân Tây-bắc bắt đầu tấn công vào tập đoàn quân 16 của Đức ở Đê-mi-an-xcơ. Cuộc chiến đấu kéo dài suốt cả tháng nhưng không kết quả. Dĩ nhiên kẻ địch cũng có bị thiệt hại nặng.
Một lần nào đó, nói chuyện qua điện thoại về tình hình mặt trận Crưm và hướng Tây-nam, Tổng tư lệnh nói:
- Anh thấy đấy, phòng ngự đưa đến kết quả thế nào... Chúng ta phải khiển trách nặng Cô-dơ-lốp, Mê-khơ-lít và Cu-lích vì họ không thận trọng, để cho những người khác sau này đừng có cẩu thả. Ti-mô-sen-cô sắp bắt đầu tiến công. Anh thế nào, không thay đổi ý kiến về phương thức hành động ở phía nam à?
- Thưa không! Tôi cho rằng ở phía nam cần dùng không quân và hỏa lực mạnh để đánh địch, hãy dùng phòng ngự kiên cường làm cho chúng bị thất bại, rồi sau đó chuyển sang tiến công.
Ngày 12-5, Phương diện quân Tây-nam chuyển sang tiến công ở hướng Khác-cốp bằng hai mũi: một mũi từ khu vực Vô-chan-xcơ, một mũi từ khu đất nhô Bác-ven-cô-vô.
Phương diện quân Nam có trách nhiệm phục vụ cho chiến dịch trên khu vực Lô-dơ-vai-a - Bác-ven-cô-vô - Xla-vi-an-xcơ. Nhưng bộ chỉ huy hướng tây-nam không tính đến mối đe dọa từ phía Cra-ma-toóc-xcơ. Ở đây Đức đã tập trung được một cánh quân lớn để tiến công.
Bộ đội phương diện quân Tây-nam, tiến công từ mũi nhô Bác-ven-cô-vô, đã chọc thủng trận địa phòng ngự của địch, và sau ba ngày đêm, ở tất cả các khu vực, đã tiến lên được 25 - 50 km. Nhưng chiến dịch không tiếp tục phát triển được.
Sáng ngày 17-5, 11 sư đoàn thuộc đạo quân “Cơ-lây-xtơ” bắt đầu tiến công từ vùng Xla-vi-an-xcơ - Cra-ma-toóc-xcơ, đánh vào các tập đoàn quân 9 và 57 của Phương diện quân Nam. Sau khi chọc thủng trận địa phòng ngự, trong hai ngày đêm, địch tiến được 50 km và thọc đến sườn của cánh trái Phương diện quân Tây-nam ở khu vực Pê-tơ-rốp-xcơ.
Giữa tháng 5, tôi có mặt trong cuộc nói chuyện của Xta-lin với tư lệnh phương diện quân và nhớ rõ là Xta-lin tỏ ý rất băn khoăn về cánh quân địch ở Cra-ma-toóc-xcơ.
Ngay tối hôm đó, Tổng tư lệnh lại nói chuyện về việc này với ủy viên Hội đồng quẩn sự phương diện N.X. Khơ-rút-xốp; ý kiến của Khơ-rút-xốp cũng giống bộ tư lệnh Phương diện quân Tây-nam: nguy cơ từ phía cụm quân địch ở Cra-ma-toóc-xcơ đã bị thổi phồng, và không có lý do gì để phải chấm dứt chiến dịch.
Đến chập tối 18-5, tình hình thêm gay go làm cho quyền Tổng tham mưu trưởng Va-xi-lép-xki rất lo lắng, và đồng chí báo cáo ngay với Tổng tư lệnh là bộ đội ta cần chấm dứt tiến công và đưa lực lượng cơ bản của cánh quân Bác-ven-cô-vô quay trở lại đánh quân địch ở Cra-ma-toóc-xcơ.
Tổng tư lệnh căn cứ vào ý kiến của Hội đồng quân sự Phương diện quân Tây-nam là cần tiếp tục tiến công nên đã bác ý kiến của Va-xi-lép-xki. Hiện nay có người nói rằng, Hội đồng quân sự các Phương diện quân Nam và Tây-nam đã bày tỏ với Tổng tư lệnh tối cao về những lo ngại của mình; nói như vậy là không đúng với thực tế. Tôi khẳng định điều này vì chính tôi đã có mặt trong các buổi trao đổi ý kiến của Tổng tư lệnh.
Ngày 19-5, Hội đồng quân sự phương diện quân Tây-nam đã hiểu là tình hình trở nên quá gay go và bắt đầu tìm cách đánh lui những đòn công kích của địch, nhưng muộn rồi.
Ngày 22-5, các tập đoàn quân 6, 57, một phần lực lượng của tập đoàn quân 9 và cụm chiến dịch của tướng L.V. Bốp-kin bị vây hoàn toàn. Nhiều đơn vị đã chọc thủng được vòng vây, nhưng một số khác không thoát nổi, họ đã không chịu đầu hàng mà chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.
Trong những trận chiến đấu ấy, nhiều đồng chí đã hy sinh như phó tư lệnh phương diện quân, tướng Phê-đo Ya-cốp-lê-vích Cô-xten-cô - anh hùng trong nội chiến và Chiến tranh giữ nước, trước kia là trung đoàn trưởng trung đoàn 19 Ma-nứt-xcô thuộc sư đoàn 4 Cô-dắc sông Đông, tướng K.P. Pốp-lát, tư lệnh tập đoàn quân 6 và tướng Bốp-kin, tư lệnh cụm chiến dịch; tôi đã cùng hai đồng chí này học ở lớp bổ túc cao cấp. Đây là những cán bộ chỉ huy rất giỏi và là những người con trung thành của Đảng và Tổ quốc ta.
Phân tích nguyên nhân không thành công của chiến dịch Khác-cốp thì ta dễ dàng nhận thấy rằng, nguyên nhân cơ bản làm cho bộ đội hướng tây-nam thất bại là không đánh giá đúng nguy cơ nghiêm trọng chứa đựng ngay tại hướng chiến lược tây-nam, vì ở đây không tập trung đầy đủ lực lượng dự bị cần thiết của Đại bản doanh.
Giá như tại các tuyến hậu phương chiến dịch của hướng tây-nam có một số tập đoàn quân dự bị của Đại bản doanh thì mùa hè năm 1942, bộ đội ta trên hướng tây-nam có thể không bị tổn thất to lớn như vậy.
Tháng 6 vẫn tiếp tục những trận đánh ác liệt trên toàn hướng tây-nam. Bị địch đánh, quân ta rút lui đến sông Ô-xcôn với những tổn thất lớn, và cố gắng bám lại ở các tuyến sau.
Ngày 28-6, địch bắt đầu tiến công rộng rãi hơn. Chúng đánh từ Cuốc-xcơ trên hướng Vô-rô-ne-giơ vào các tập đoàn quân 13 và 40 của Phương diện quân Bri-an-xcơ Ngày 30-6, tập đoàn quân 6 của Đức sau khi chọc thủng trận địa phòng ngự của các tập đoàn quân 21 và 28, đã từ Von-chan-xcơ chuyển sang tiến công vào hướng Ô-xtơ-rô-gốt-xcơ. Tình hình bộ đội ta trên hướng Vô-rô-ne-giơ xấu hẳn đi. Một phần lực lượng bị bao vây.
Trong hồi ký của mình, nguyên soái Liên Xô Va-xi-lép-xki đã viết:
“Đến cuối ngày 2-7, tình hình trên hướng Vô-rô-ne-giơ xấu hẳn đi. Trận địa phòng ngự chỗ tiếp giáp giữa hai Phương diện quân Bri-an-xcơ và Tây-nam bị chọc thủng sâu đến 80 km. Lực lượng dự bị mà các phương diện quân này nắm ở hướng ấy đều được tung vào chiến đấu. Rõ ràng là có nguy cơ quân xung kích của địch sẽ chọc thẳng tới sông Đông và chiếm Vô-rô-ne-giơ.
Để ngăn địch vượt sông Đông và kìm hãm đà tiến của chúng, Bộ Tổng tư lệnh rút trong lực lượng dự bị của mình giao cho tư lệnh Phương diện quân Bri-an-xcơ hai tập đoàn quân bộ đội hợp thành[1], ra lệnh triển khai ở hữu ngạn sông Đông trong khu vực Da-đôn-xcơ - Páp-lốp-xcơ. Đồng thời giao thêm cho phương diện quân ấy sử dụng tập đoàn quân xe tăng 5 để cùng các binh đoàn xe tăng của phương diện quân phản kích vào sườn và hậu phương quân phát-xít Đức đang tiến công vào Vô-rô-ne-giơ... Nếu tập đoàn quân xe tăng 5 đánh quyết liệt và kịp thời .. Thì có thể làm thay đổi hẳn tình hình có lợi cho ta.
Nhưng trong suốt ngày 3-7, tập đoàn quân xe tăng 5 không được bộ tư lệnh phương diện quân giao nhiệm vụ. Do đó, được Đại bản doanh phân công, tôi phải đến ngay vùng En-xa để thúc giục việc đưa tập đoàn quân xe tăng 5 vào chiến đấu, trước đó tôi đánh điện truyền đạt nhiệm vụ cho tư lệnh tập đoàn quân và tư lệnh phương diện quân tổ chức phản kích và yêu cầu lập tức chuẩn bị ngay.
Mặc dầu được Đại bản doanh và Bộ Tổng tham mưu ra sức chi viện, tình hình ở Phương diện quân Bri-an-xcơ vẫn ngày càng trở nên gay go, và tình hình ngày càng xấu thêm, một phần rất lớn là do những thiếu sót trong việc chỉ huy bộ đội ở khâu phương diện quân và tập đoàn quân. Do đó, Đại bản doanh phải có biện pháp tổ chức, chia phương diện quân Bri-an-xcơ ra làm hai. Tư lệnh phương diện quân mới, Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ là N.Ph.Va-tu-tin; tư lệnh Phương diện quân Bri-an-xcơ là K.K. Rô-cô-xốp-xki thay cho Ph.I. Gô-li-cốp.”
Các tập đoàn quân bộ đội hợp thành 6, 60 và tập đoàn quân xe tăng 5 do Đại bản doanh điều đến đã tham gia chiến đấu ở Vô-rô-ne-giơ, khiến việc phòng ngự được vững chắc thêm phần nào, nhưng vẫn không thủ tiêu được nguy cơ nghiêm trọng là địch sẽ chọc thẳng qua sông Đông và đánh dọc sông đó về phía Xta-lin-grát.
Do ta mất Crưm, do bộ đội ta bị thất bại ở Bác-ven-cô-vô, ở Đôn-bát và ở gần Vô-rô-ne-giơ, nên địch lại giành được chủ động chiến lược, và chúng đã điều thêm các đội dự bị mới mà tiến ào ạt đến sông Von-ga và vùng Cáp-ca-dơ. Giữa tháng 7, sau khi đẩy bật quân ta qua bên kia sông Đông từ Vô-rô-ne-giơ đến Clết-xcai-a và từ Xu-rô-vi-ki-nô đến Rô-xtốp, địch tiến đánh ở khúc ngoặt sông Đông hòng tiến về Xta-lin-grát.
Do bộ đội ta phải rút lui nên các vùng hết sức giàu có là vùng sông Đông và Đôn-bát rơi vào tay quân thù. Lúc này trực tiếp có nguy cơ là quân địch tiến đến sông Von-ga và đến bắc Cáp-ca-dơ, có thể mất cả Cu-ban và tất cả các đường giao thông nối liền với Cáp-ca-dơ, mất vùng kinh tế rất quan trọng cung cấp dầu hỏa cho quân đội và cho công nghiệp.
Tổng tư lệnh tối cao ra mệnh lệnh nổi tiếng số 227. Mệnh lệnh ấy quy định các biện pháp cứng rắn đối với những kẻ phao tin đồn nhảm và những người vi phạm kỷ luật, kiên quyết lên án tư tưởng “rút lui”. Trong mệnh lệnh, nói rõ rằng điều lệnh sắt đối với bộ đội đang chiến đấu phải là: “không lùi một bước!”. Công tác chính trị và công tác Đảng được đẩy mạnh để tăng thêm hiệu lực cho mệnh lệnh này.
Ban chấp hành trung ương Đảng, sau khi tổng kết công tác Đảng và công tác chính trị trong các phương diện quân và các hạm đội đã ra nhiều nghị quyết cải tiến công tác tổ chức Đảng và công tác chính trị quần chúng trong bộ đội. A.X. Séc-ba-cốp, Bí thư Ban chấp hành trung ương, bí thư đảng bộ Mát-xcơ-va, được cử làm Chủ nhiệm Tổng cục chính trị thay L.Đ. Mê-khơ-lít. Ban chấp hành trung ương đã tổ chức nhiều đợt động viên đặc biệt các đảng viên và đoàn viên vào củng cố lực lượng vũ trang. Đến cuối năm 1941, trong quân đội và hải quân có 1,3 triệu đảng viên, gấp đôi thời kỳ đầu chiến tranh. Ban chấp hành trung ương yêu cầu Hội đồng quân sự các phương diện quân và tập đoàn quân cải tiến công tác vận động giáo dục chiến sĩ và cán bộ để đề cao kỷ luật một cách rõ rệt, nâng cao ý chí kiên cường và sức mạnh chiến đấu của bộ đội.
Tháng 6, Ban chấp hành trung ương Đảng kiểm điểm toàn bộ tình hình công tác chính trị trong Hồng quân và đề ra nhiều biện pháp cải tiến hơn nữa công tác này. Ban chấp hành trung ương yêu cầu các cơ quan chính trị triển khai rộng rãi hơn nữa công tác tư tường và công tác chính trị trong các đơn vị. Tất cả các cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị, kể cả cao cấp, đều phải đích thân tiến hành tuyên truyền, giáo dục bộ đội. Việc lãnh đạo toàn bộ công tác quan trọng và khó khăn này được tăng cường, nhiều cán bộ chính trị có năng lực biểu hiện tốt trong các đơn vị chiến đấu, được điều về công tác tại Tổng cục chính trị Hồng quân công nông; mở nhiều cuộc Hội nghị các ủy viên Hội đồng quân sự và chủ nhiệm các cơ quan chính trị toàn quân; nhiều đồng chí Bí thư Ban chấp hành trung ương như M.I. Ca-li-nin, E.M. Ya-rô-xláp-xki, Đ.D. Ma-nu-in-xki và nhiều cán bộ quan trọng của Đảng và Nhà nước đã đến nói chuyện với các hội nghị đó, nhiều đồng chí cán bộ tuyên giáo cao cấp đã thường xuyên đến thăm và nói chuyện với các đơn vị đang chiến đấu ở nơi gay go nhất.
Bộ đội Phương diện quân Tây-nam trong quá trình rút lui khỏi Khác-cốp đã bị tổn thất lớn và không đủ sức kìm hãm đà tiến của địch. Phương diện quân Nam cũng vì lý do ấy, không thể chặn đứng quân thù trên hướng Cáp-ca-dơ.
Lúc bấy giờ cần phải chặn đường bọn Đức tiến đến sông Von-ga. Bộ Tổng tư lệnh cho thành lập vào ngày 12-7 một phương diện quân mới là Phương diện quân Xta-lin-grát, gồm tập đoàn quân 62 do thiếu tướng V.Ya. Côn-pắc-si chỉ huy, tập đoàn quân 63 của trung tướng V.I. Cu-dơ-nét-xốp, tập đoàn quân 64 và cả tập đoàn quân 21 của Phương diện quân Tây-nam đã giải thể.
Toàn bộ Hội đồng quân sự Phương diện quân Tây-nam cũ tiếp nhận Phương diện quân Xta-lin-grát mới thành lập. Để tăng cường cho phương diện quân này, còn chuyển giao thêm hai tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 mới thành lập và những đơn vị còn nguyên vẹn của các tập đoàn quân 28, 38, và 57. Đội tàu chiến sông Von-ga cũng được phối thuộc về chiến dịch cho bộ tư lệnh phương diện quân.
Trên các đoạn đường vào Xta-lin-grát đều triển khai các loại công sự phòng thủ. Giống như khi phòng thủ Mát-xcơ-va, hàng vạn nhân dân đã đến xây dựng các công sự và lao động quên mình, chuẩn bị bảo vệ thành phố. Tỉnh ủy và thành ủy Xta-lin-grát ra sức xây dựng và huấn luyện dân quân và các đội tự vệ công nhân, tổ chức lại sản xuất để phục vụ tiền tuyến, sơ tán trẻ con, người già và của cải của Nhà nước ra khỏi thành phố.
Tới ngày 17-7, Phương diện quân Xta-lin-grát chiếm lĩnh tuyến phòng ngự sau đây: Páp-lốp-xcơ trên sông Đông, kéo dài theo tả ngạn sông Đông đến Xê-ra-phi-mô-vích, tiếp đó là Chét-xcai-a, Xu-rô-vi-ki-nô đến tận Véc-khơ-ne - Cuốc-mô-yác-xcai-a.
Trong khi rút lui, Phương diện quân Nam bị tổn thất đến mức không thể khôi phục được. Bốn tập đoàn quân của nó chỉ còn lại hơn 10 vạn người. Để củng cố cơ quan lãnh đạo bộ đội ở hướng bắc Cáp-ca-dơ, Đại bản doanh giải thể Phương diện quân Nam và toàn bộ số quân còn lại của nó chuyển giao cho Phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ, và cử nguyên soái Liên Xô Bu-di-on-nưi làm tư lệnh.
Các tập đoàn quân 37 và 12 của Phương diện quân Bắc Cáp-ea-dơ có nhiệm vụ giữ hướng Xta-vrô-pôn, các tập đoàn quân 18, 56 và 47 giữ hướng Cra-xnô-da.
Cuối tháng 7, đầu tháng 8, tình hình trên hướng Bắc Cáp-ca-dơ rõ ràng không có lợi cho ta. Kẻ địch có ưu thế, đang tiến vững chắc. Chẳng bao lâu, quân Đức đã tiến đến sông Cu-ban.
Tháng 8, hai bên đánh nhau ác liệt ở hướng Mai-cốp.
Ngày 10-8, quân địch chiếm Mai-cốp, ngày 11-8, chiếm Cra-xnô-da.
Giữa tháng 8, sau khi chiếm được Mô-dơ-đốe, địch tiến đến sông Tê-réc. Đến ngày 9-9, sau khi đánh bật được tập đoàn quân 36 của ta, quân Đức chiếm hầu hết các đèo. Xu-khu-mi bị đe dọa nghiêm trọng.
Trong những ngày thử thách gay go và có nguy cơ sống còn ấy, nhân dân các dân tộc Cáp-ca-dơ không hề dao động, họ vững tin ở lực lượng và sức mạnh của gia đình các dân tộc Xô-viết.
Các đảng bộ Gru-di, Ác-mê-ni và A-giéc-bai-gian, thi hành chỉ thị của Hội đồng quốc phòng, đảm nhiệm việc cung cấp và phục vụ các đơn vị chiến đấu. Theo lời kêu gọi của Ban chấp hành trung ương Đảng Gru-đi, A-giéc-bai-gian và Ác-mê-ni, các đội vũ trang được thành lập, nhiều người tình nguyện gia nhập Hồng quân. Các chủ trương ấy góp phần củng cố các phương diện quân đang tham chiến. Những tính toán của bọn Hít-le cho rằng, khi quân Đức đến thì nhân dân vùng Cáp-ca-dơ sẽ tách khỏi Liên Xô, đã bị phá sản thảm hại.
Các đội du kích người Cáp-ca-dơ am hiểu địa hình đã giúp đỡ rất nhiều cho bộ đội chủ lực. Những cuộc tập kích rất táo bạo của họ làm cho quân thù hoảng sợ, gây cho chúng những thiệt hại lớn.
Đến cuối tháng 7, Phương diện quân Xta-lin-grát bao gồm 38 sư đoàn, trong đó chỉ nửa số sư đoàn có quân số từ 6.000 đến 8.000 người, số sư đoàn còn lại chỉ có 1.000 đến 3.000 người, tức là chỉ bằng 16 sư đoàn đúng biên chế. Số quân ít ỏi ấy phải triển khai trên chính diện 530 km.
Trong thời kỳ đó, phương diện quân này có cả thảy 18,7 vạn người, 360 xe tăng, 337 máy bay, 7.900 khẩu pháo và cối.
Để đánh với phương diện quân này, địch tập trung 25 vạn người, gần 740 xe tăng, 1.200 máy bay, 7.500 khẩu pháo và cối, như vậy so sánh lực lượng là địch hơn ta: về người 1,4:1, về pháo và cối 1:1; về xe tăng 2:1; về máy bay 3,5:1.
Về sau, do bộ đội ta chống cự ngoan cường trên các đường ở cửa ngõ Xta-lin-grát, địch buộc phải rút từ hướng Cáp-ca-dơ tập đoàn quân xe tăng 4 để đánh từ phía Ca-chi-ôn-ni-cốp sang và triển khai thêm một phần lực lượng của bọn chư hầu.
Theo chỉ thị số 45 ngày 23-7-1942 của bộ chỉ huy tối cao Đức, cụm tập đoàn quân “B”, được các đơn vị ở phía bắc dọc theo trung lưu sông Đông che chở (ở đây quân đội Hung, Ý, Ru-ma-ni triển khai kế tiếp nhau), có ý định cấp tốc đánh chiếm Xta-lin-grát, Át-xtra-khan và bám chắc sông Von-ga, cắt đứt Cáp-ca-dơ với trung tâm Liên Xô. Lực lượng cơ bản của phi đoàn không quân 4 (1.200 máy bay chiến đấu) được dành riêng để bảo đảm nhiệm vụ ấy.
Ngày 26-7, bộ đội thiết giáp và cơ giới của Đức chọc thủng trận địa phòng ngự của tập đoàn quân 62 và tiến về Ca-men-ski. Để đánh lui số quân thâm nhập này, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cấp tốc đưa vào chiến đấu các tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 đang xây dựng mà chỉ có 240 xe tăng, và hai sư đoàn bộ binh; số quân này không thể chặn đứng được quân địch, nhưng đã kìm hãm được phần nào bước tiến của chúng.
Tất nhiên, đưa những đơn vị đang trong thời kỳ hình thành ra chiến đấu là không đúng, nhưng lúc bấy giờ Bộ Tổng tư lệnh không có cách nào khác, vì lực lượng chặn địch tiến vào Xta-lin-grát còn yếu. Nhưng trận chiến đấu ác liệt cũng đã xảy ra ở khu vực tập đoàn quân 64, nhưng ở đây địch cũng không lọt được vào Xta-lin-grát. Suốt nửa đầu tháng 8, trên các đường dẫn vào thành phố luôn có chiến sự quyết liệt. Bộ đội ta dựa vào các tuyến công sự, anh dũng giữ từng tấc đất, phản kích, tiêu hao, làm suy yếu quân địch đang xông vào Xta-lin-grát.
Do bộ đội của Phương diện quân Xta-li-grát rải ra dài tới 700 km và đã nảy ra những khó khăn về chỉ huy, Đại bản doanh quyết định chia nó ra làm hai: Phương diện quân Xta-lin-grát và Phương diện quân Đông-nam. Công việc ấy tiến hành vào ngày 5-8.
Tư lệnh phương diện quân Xta-lin-grát vẫn là trung tướng V.N. Goóc-đốp, người vừa mới thay cho nguyên soái Liên Xô Ti-mô-sen-cô; tham mưu trưởng là thiếu tướng Đ.N. Ni-ki-sép. Phương diện quân này gồm các tập đoàn quân 63, 21, 62 và tập đoàn quân xe tăng 4 với cả tập đoàn không quân 16 đang tổ chức do thiếu tướng X.I. Ru-đen-cô chỉ huy.
Phương diện quân Đông-nam gồm các tập đoàn quân 57, 51, 64, tập đoàn quân cận vệ 1 và tập đoàn không quân 8. Thượng tướng A.I. Ê-rê-men-cô được cử làm tư lệnh phương diện quân này.
Ngày 12-8, Hội đồng quốc phòng cử thượng tướng, Tổng tham mưu trưởng A.M. Va-xi-lép-xki đến tổ chức phối hợp hành động cho bộ đội ở Xta-lin-grát. Về mặt chiến dịch, Phương diện quân Xta-lin-grát thuộc quyền của tư lệnh Phương diện quân Đông-nam.
Sau một đợt chiến đấu ác liệt, ngày 23-8, quân đoàn xe tăng 14 của địch tiến vào khu vực Véc-chi-ác-si, cắt đôi trận địa phòng ngự Xta-lin-grát, tiến đến sông Von-ga ở khu vực La-tô-sin-ca - Rư-nốc. Tập đoàn quân 62 bị cắt rời khỏi lực lượng cơ bản của Phương diện quân Xta-lin-grát, vì vậy phải cho sát nhập vào Phương diện quân Đông-nam.
Máy bay ném bom của Đức đánh phá dã man Xta-lin-grát, biến thành phố thành đống gạch ngói đổ nát. Thường dân bị chết, các xí nghiệp công nghiệp và các công trình văn hóa bị phá hủy.
Sáng 24-8, một phần lực lượng của quân đoàn xe tăng 14 chuyển sang tiến công vào hướng Nhà máy chế tạo máy kéo, nhưng không kết quả. Ở đây, công nhân vũ trang của các nhà máy Xta-lin-grát đã tham gia chiến đấu quyết liệt.
Cùng lúc đó, bộ đội của Phương diện quân Xta-lin-grát rút lên phía tây-bắc, đã đánh địch từ bắc xuống nam, buộc địch phải triển khai số lực lượng rất lớn dự định dùng để chiếm Xta-lin-grát. Cuộc hành quân đó đã làm suy yếu khá nhiều đòn tiến công của địch vào thành phố; quân đoàn xe tăng 14 của chúng bị cắt rời hậu phương và suốt mấy ngày liền phải nhận tiếp tế bằng đường không.
Sau khi đưa hết chủ lực qua sông Đông, địch mở một cuộc tiến công mãnh liệt có không quân bắn phá rất mạnh để yểm hộ.
Đến 30-8, bộ đội Phương diện quân Đông-nam, bị lực lượng địch trội hơn áp đảo, phải lùi về vùng ven phía ngoài, rồi về vùng ven phía trong. Các tập đoàn quân 62 và 64 chiếm lĩnh trận địa phòng ngự trên tuyến Rư-nốc - Oóc-lốp-ca - Gum-rắc - Pét-san-ca - I-va-nốp-ca. Lúc ấy tập đoàn quân 62 do trung tướng A.I. Lô-pa-tin chỉ huy. Đồng chí đã làm tất cả mọi việc thuộc trách nhiệm của mình và thậm chí còn hơn thế nữa, vì như mọi người đều biết, quân địch ở đây dùng số lượng đông hơn đánh vào tập đoàn quân của đồng chí. Tuy vậy, đồng chí vẫn biết nhìn xa, bảo toàn được tập đoàn quân 62 để tránh địch trong điều kiện của thành phố, ở đây về sau chúng đã bị tiêu hao dần rồi bị tiêu diệt.
Trong thời gian gay go đối với Xta-lin-grát ấy, Đại bản doanh đã ra lệnh mở ở hướng tây những chiến dịch tiến công bộ phận nhằm giam chân các đội dự bị của địch, không cho chúng tung các lực lượng đó vào vùng Xta-lin-grát.
Tại phương diện quân miền Tây, lúc đó do tôi chỉ huy, tình hình diễn biến như sau:
Tại cánh trái của phương diện quân, vào đầu tháng 7, các tập đoàn quân 10, 16, và 61 mở cuộc tiến công từ tuyến Ki-rốp - Bôn-khốp về phía Bri-an-xcơ. Trên cánh phải, ở khu vực Pô-gô-rê-lôi-ê Gô-rô-đi-sê; tháng 8, tập đoàn quân 20 có tăng cường đã hiệp đồng với cánh trái của phương diện quân Ca-li-nin, tiến hành một cuộc tiến công thắng lợi nhằm tiêu diệt quân địch ở vùng Xư-chép-ca - Rơ-giép.
Sau khi chọc thủng trận địa phòng ngự của Đức và tiến đến đường sắt Rơ-giép - Vi-a-dơ-ma, cuộc tiến công của Phương diện quân miền Tây bị chặn lại, và thành phố Rơ-giép vẫn trong tay quân địch.
Ở khu vực Pô-gô-rê-lôi-ê Gô-rô-đi-sê - Xư-chép-ca, quân địch bị thiệt hại nặng. Để chặn đòn tiến công của Phương diện quân miền Tây, bộ chỉ huy Đức phải vội vã tung vào đấy nhiều sư đoàn mà chúng dành để phát triển tiến công trên hướng Xta-lin-grát và Cáp-ca-dơ.
Tướng Đức K. Ti-pên-xkiếc đã viết về việc này như sau: “Ba sư đoàn xe tăng và mấy sư đoàn bộ binh sửa soạn tung ra chống Phương diện quân Nam đã phải giữ lại, lúc đầu là để hạn chế chỗ bị chọc thủng, mà tiếp đó là để phản kích nữa; chỉ bằng cách đó, ta mới chặn được việc địch chọc thủng phòng tuyến”[2].
Giá trong tay chúng tôi có một - hai tập đoàn quân thì đã có thể hiệp đồng với Phương diện quân Ca-li-nin do tướng I.X. Cô-nép chỉ huy, không những tiêu diệt cánh quân Rơ-giép, mà cả cụm quân Đức Rơ-giép - Vi-a-dơ-ma, và cải thiện khá nhiều tình hình chiến dịch trên toàn bộ hướng chiến lược phía tây. Tiếc rằng, khả năng hiện thực ấy, Tổng tư lệnh tối cao đã bỏ lỡ.
Nói chung, tôi phải nói rằng, Tổng tư lệnh tối cao đã nhận ra tình hình bất lợi hồi mùa hè 1942 là hậu quả của sai lầm bản thân đồng chí khi phê chuẩn kế hoạch hoạt động của quân ta trong chiến cục hè 1942. Và đồng chí không đổ lỗi cho bất cứ ai, trong số những người lãnh đạo của Đại bản doanh và Bộ Tổng tham mưu.
Ngày 27-8-1942, khi tôi đang ở Pô-gô-rê-lôi-ê Gô-rô-đi-sê, nơi chúng tôi đang mở chiến dịch tiến công, A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép gọi điện thoại cho tôi. Đồng chí cho biết hôm qua, 26-8, Hội đồng quốc phòng đã nghiên cứu tình hình phía nam và quyết định cử tôi làm Phó Tổng tư lệnh tối cao.
Đồng chí dặn tôi đúng 14 giờ có mặt ở sở chỉ huy đợi điện thoại của Xta-lin. Đồng chí hết sức ít nói, đối với tất cả các câu hỏi của tôi đồng chí đều trả lời: “Tôi không biết. Điểm này có lẽ bản thân đồng chí Tổng tư lệnh sẽ nói”. Nhưng qua những câu đó tôi cũng hiểu rằng, Hội đồng quốc phòng hết sức lo lắng về kết quả chiến sự ở khu vực Xta-lin-grát.
Sau đó một lúc, Tổng tư lệnh gọi điện cho tôi qua máy cao tần. Sau khi hỏi tình hình tại Phương diện quân miền Tây, đồng chí nói:
- Đồng chí cần về gấp Đại bản doanh. Để tham mưu trưởng làm việc này thay đồng chí - Đồng chí nói tiếp - Đồng chí nghĩ xem nên cử ai làm tư lệnh thay đồng chí.
Cuộc nói chuyện chỉ đến đây là thôi. I.V. Xta-lin không nói đến việc cử tôi làm Phó tổng tư lệnh. Có lẽ, đồng chí muốn tuyên bố việc ấy khi trực tiếp gặp tôi. Nói chung, Tổng tư lệnh chỉ nói qua điện thoại những điều cực kỳ cần thiết lúc ấy thôi. Đồng chí cũng căn dặn chúng tôi hết sức thận trọng khi nói điện thoại, đặc biệt ở vùng bộ đội đang chiến đấu, không có phương tiện cố định để giữ bí mật các cuộc nói chuyện.
Tôi đi thẳng về Mát-xcơ-va, không ghé lại bộ tư lệnh phương diện quân.
Tối khuya hôm ấy tôi đã có mặt ở điện Crem-lanh. Xta-lin đang làm việc trong phòng. Vài ủy viên Hội đồng quốc phòng cũng đang ở đấy.
Tổng tư lệnh nói, tình hình của chúng ta ở phía nam đang gay go và có thể bọn Đức sẽ lấy được Xta-lin-grát. Tình hình ở Bắc Cáp-ca-dơ cũng không khá hơn. Hội đồng quốc phòng quyết định bổ nhiệm Giu-cốp làm Phó Tổng tư lệnh tối cao và cử về khu vực Xta-lin-grát. Hiện giờ, ở Xta-lin-grát có Va-xi-lép-xki, Ma-len-cốp và Ma-lư-sép. Ma-len-cốp sẽ ở lại với Giu-cốp, còn Va-xi-lép-xki phải về Mát-xcơ-va ngay.
- Bao giờ đồng chí có thể lên đường được? - Tổng tư lệnh hỏi tôi.
Tôi đáp là tôi cần có một ngày đêm để nghiên cứu tình hình và ngày 29 có thể bay về Xta-lin-grát.
- Thế thì tốt lắm. Thế đồng chí có đói không? - Đột nhiên Xta-lin hỏi - Nên ăn uống chút ít.
Nước chè và mươi miếng bánh mì kẹp giò được mang đến. Trong khi uống nước, Xta-lin thông báo sơ lược tình hình lúc 20 giờ ngày 27-8. Sau khi kể lại vắn tắt những gì đã xảy ra ở Xta-lin-grát, Xta-lin nói, Đại bản doanh quyết định giao cho Phương diện quân Xta-lin-grát tập đoàn quân 24, tập đoàn quân cận vệ 1 và tập đoàn quân 66.
- Vì tình hình ở Xta-lin-grát rất nguy hiểm, - Tổng tư lệnh nói,- chúng tôi đã ra lệnh điều gấp tập đoàn quân cận vệ 1 do Mốt-ca-len-cô chỉ huy xuống vùng Lô-dơ-nôi để bắt đầu từ sáng ngày 2-9 nó sẽ cùng với các đơn vị khác của Phương diện quân Xta-lin-grát phản kích cánh quân địch đã thọc tới sông Von-ga, và liên lạc với tập đoàn quân 62. Đồng thời, sẽ điều thêm cho Phương diện quân Xta-lin-grát tập đoàn quân 66 của tướng Ma-li-nốp-xki và tập đoàn quân 24 của tướng Cô-dơ-lốp.
Tổng tư lệnh quay sang nói với tôi:
- Đồng chí cần có biện pháp để ngày 2-9, tập đoàn quân cận vệ 1 của tướng Mốt-ca-len-cô có thể phản kích được, đồng thời yểm hộ cho các tập đoàn quân 24 và 66 tiến ra khu vực xuất phát. Đưa ngay tức khắc hai tập đoàn quân ấy vào chiến đấu, nếu không chúng ta sẽ mất Xta-lin-grát.
Bấy giờ rõ ràng là trận chiến đấu bảo vệ Xta-lin-grát có ý nghĩa quân sự và chính trị cực kỳ to lớn. Nếu Xta-lin-grát thất thủ, quân địch có khả năng cắt miền nam khỏi miền trung. Chúng ta có thể mất Von-ga - động mạch đường thủy tối hệ trọng để đưa hàng dồn dập từ Cáp-ca-dơ về .
Bộ Tổng tư lệnh tối cao điều về Xta-lin-grát tất cả những gì có thể điều, trừ những lực lượng dự bị chiến lược đang hình thành dành cho việc tiếp tục chiến đấu về sau. Có nhiều chủ trương cấp bách nhằm tăng cường sản xuất máy bay, xe tăng, vũ khí, đạn dược và các phương tiện vật chất khác để kịp thời sử dụng mà tiêu diệt số quân địch đã đến khu vực Xta-lin-grát.
Ngày 29-8, chúng tôi lên đường từ sân bay Trung ương Mát-xcơ-va, và 4 giờ sau hạ cánh xuống sân bay dã ngoại ở khu vực Ca-mư-sin trên sông Von-ga. A.M. Va-xi-lép-xki ra đón tôi và thông báo ngay tình hình mới nhất. Chuyện trò vài câu, chúng tôi đi ngay về cơ quan bộ của Phương diện quân Xta-lin-grát ở Ma-lai-a I-va-nốp-ca.
Gần 12 giờ, chúng tôi đến bộ tham mưu phương diện quân. Trung tướng Goóc-đốp đang ở trận địa tiền duyên. Tham mưu trưởng Ni-ki-sép và trưởng phòng tác chiến Ru-khơ-le báo cáo tình hình. Nghe báo cáo, tôi có cảm giác họ không thật tin là chúng ta có thể chặn đứng quân địch ở khu vực Xta-lin-grát.
Tôi gọi điện cho Goóc-đốp đang ở bộ tham mưu tập đoàn quân cận vệ 1, báo đồng chí ấy chờ ở cơ quan của tư lệnh tập đoàn quân Mốt-ca-len-cô, tôi và A.M. Va-xi-lép-xki sẽ đến đấy.
Tại sở chỉ huy tập đoàn quân cận vệ 1, chúng tôi gặp tướng Goóc-đốp và Mốt-ca-len-cô. Báo cáo của hai đồng chí và bản thân các đồng chí gây phấn khởi cho chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy các đồng chí đó biết rõ lực lượng địch và khả năng bộ đội của mình. Sau khi thảo luận về tình huống không và tình hình bộ đội ta, chúng tôi kết luận rằng không thể chuẩn bị kịp cho các tập đoàn quân đang tập trung ở đây phản kích trước ngày 6-9. Tôi báo cáo ngay về Đại bản doanh. Nghe xong, Tổng tư lệnh nói, đồng chí không có ý kiến gì khác.
Va-xi-lép-xki đã nhận được lệnh về ngay Mát-xcơ-va, nên nếu tôi không nhầm, đồng chí rời Xta-lin-grát ngày 1-9.
Tập đoàn quân cận vệ 1 không thể thực hiện quy định của Bộ Tổng tư lệnh tiến công vào ngày 2-9 vì các đơn vị thiếu chất đốt và đường sá xa xôi không kịp đến khu vực xuất phát trước sáng ngày 2-9. Theo yêu cầu của tư lệnh tập đoàn quân Mốt-ca-len-cô, tôi hoãn việc bắt đầu công kích sang ngày hôm sau, và tôi báo cáo về Đại bản doanh. Trong báo cáo nói rằng:
“Ngày 2-9 tập đoàn quân cận vệ 1 chưa tiến công được vì các đơn vị của nó chưa ra kịp vị trí xuất phát, chưa chở kịp đạn dược, chất đốt đến và chưa kịp tổ chức chiến đấu xong. Để tránh tình trạng đưa bộ đội vào chiến đấu một cách vô tổ chức và vì vậy bị tổn thất không cần thiết, sau khi đích thân kiểm tra tại chỗ, tôi đã hoãn tiến công đến 5 giờ ngày 3-9.
Tôi quy định cho các tập đoàn quân 24 và 66 tiến công vào ngày 5 – 6 tháng 9. Hiện giờ, các cán bộ đang nghiên cứu tỉ mỉ nhiệm vụ và chúng tôi đang áp dụng các biện pháp bảo đảm vật chất cho chiến dịch....”.
Sáng ngày 3-9, sau khi pháo bắn chuẩn bị, tập đoàn quân cận vệ 1 bắt đầu tiến công, nhưng chỉ tiến được mấy km ở hướng Xta-lin-grát, địch bị thiệt hại không đáng kể. Tập đoàn quân không tiến thêm được nữa vì không ngớt có những trận công kích của không quân địch và những trận phản kích của xe tăng và bộ binh địch có pháo từ Xta-lin-grát yểm hộ.
Ngày 3-9, tôi nhận được bức điện do Xta-lin ký như sau: “Tình hình Xta-lin-grát xấu đi rồi. Địch đã ở cách Xta-lin-grát có 3 véc-ta[3]. Chúng có thể chiếm Xta-lin-grát nay mai nếu cụm quân phía bắc của ta không chi viện ngay. Anh hãy yêu cầu các tư lệnh bộ đội ở bắc và tây-bắc Xta-lin-grát đánh địch ngay và đến chi viện cho quân và dân Xta-lin-grát. Không được một chút chậm trễ. Lúc này chậm trễ là có tội. Dốc toàn bộ không quân ra ứng cứu Xta-lin-grát. Không quân ở Xta-lin-grát ít quá”.
Tôi liền gọi điện báo cáo ngay với Tổng tư lệnh rằng tôi có thể ra lệnh bắt đầu tiến công từ sáng mai, nhưng như thế thì cả ba tập đoàn quân đều phải chiến đấu trong tình trạng hầu như không có đạn, vì sớm nhất cũng tối ngày 4-9 mới có thể đưa đạn về tới các trận địa pháo. Ngoài ra, phải đến tối ngày 4 chúng tôi mới tổ chức xong hiệp đồng của các đơn vị với pháo, xe tăng và không quân mà thiếu hiệp đồng thì không thành công được.
- Anh nghĩ xem địch có chờ anh đủng đỉnh như thế không? Ê-rê-men-cô khẳng định rằng địch hễ dấn lên một tí là có thể chiếm Xta-lin-gtát nếu anh không lập tức đánh chúng từ phía bắc.
Tôi trả lời rằng, tôi không nhất trí với quan điểm ấy và xin phép bắt đầu tiến công vào ngày 5 như đã dự định. Còn không quân, thì tôi ra lệnh dốc toàn lực oanh tạc địch ngay.
- Thế thì được, - Tổng tư lệnh đồng ý, - Nếu địch bắt đầu tiến công đồng loạt vào thành phố thì đánh chúng ngay, không phải đợi bộ đội chuẩn bị đâu vào đấy rồi mới đánh. Nhiệm vụ chủ yếu của anh là kéo lực lượng quân Đức ra khỏi Xta-lin-grát và, nếu có thể được thì thủ tiêu hành lang của bọn Đức đang chia cắt Phương diện quân Xta-lin-grát với Phương diện quân Đông-nam.
Đúng như chúng tôi phán đoán, đến sáng ngày 5-9, chưa xảy ra sự kiện gì đặc biệt ở Xta-lin-grát. Ba giờ sáng, Tổng tư lệnh gọi Ma-len-cốp hỏi tình hình chuẩn bị tiến công của bộ đội Phương diện quân Xta-lin-grát. Biết rằng mệnh lệnh của đồng chí đang được thi hành, Tổng tư lệnh không gọi tôi nói điện thoại nữa.
Rạng sáng ngày 5-9, trên toàn bộ chính diện của các tập đoàn quân 24, tập đoàn quân cận vệ 1 và tập đoàn quân 66 đều bắt đầu hỏa lực chuẩn bị bằng pháo cối và không quân. Mật độ pháo hỏa ngay trên những hướng tiến công chủ yếu của các tập đoàn quân cũng không lớn, do đó không đạt được kết quả cần thiết.
Sau loạt “Ca-chiu-sa”, bộ đội bắt đầu công kích. Tôi đứng tại sở chỉ huy tư lệnh tập đoàn quân cận vệ 1 theo dõi hoạt động này. Qua hỏa lực mạnh mẽ của địch bắn vào quân ta đang tiến công, có thể thấy rằng pháo hỏa chuẩn bị không đạt kết quả mong muốn, và không thể trông mong các đơn vị tiến công của ta tiến xa được.
Độ vài giờ sau, qua báo cáo của các tư lệnh, chúng tôi biết rằng trên nhiều khu vực, địch dùng hỏa lực chặn đứng đà tiến của quân ta và cho bộ binh, xe tăng ra phản kích. Trinh sát đường không cho biết rằng, nhiều cụm lớn quân địch gồm xe tăng, pháo và bộ binh cơ giới đang từ vùng Gum-rắc - Oóc-lốp-ca - Bôn-sai-a Rốt-xốt-xca tiến về phía bắc. Không quân địch bắt đầu bắn phá vào đội hình chiến đấu của quân ta.
Buổi chiều, một số đơn vị mới của địch bước vào chiến đấu và trên một số khu vực, các đơn vị chúng ta bị dồn trở về tuyến xuất phát.
Trận đấu hỏa lực căng thẳng suốt một ngày, đến tối thì hầu như ngừng bặt. Chúng tôi xem lại kết quả. Trong một ngày chiến đấu, bộ đội ta chỉ tiến được vẻn vẹn 2 - 4 km; tập đoàn quân 24 hầu như vẫn dừng lại ở vị trí xuất phát.
Đến tối, bộ đội được bổ sung đạn pháo, mìn, v..v... Cân nhắc thêm tình hình địch nắm được sau một ngày chiến đấu, chúng tôi quyết định, đêm hôm đó chuẩn bị cuộc tiến công mới, sau khi đã bố trí lại đội hình trong phạm vi có thể.
Đến khuya, Tổng tư lệnh gọi tôi:
- Tình hình ở gần Xta-lin-grát ra sao?
Tôi báo cáo rằng suốt ngày nay chiến đấu rất ác liệt. Ở phía bắc Xta-lin-grát địch đã tung vào chiến đấu đơn vị mới điều từ Gum-rắc đến.
- Thế là được rồi. Thế là chi viện lớn cho Xta-lin-grát đấy!
Tôi tiếp tục:
- Bộ đội ta không tiến được bao nhiêu, một số trường hợp dừng lại ở tuyến xuất phát.
- Vì sao vậy?
- Vì thiếu thời gian, bộ đội ta không kịp chuẩn bị đầy đủ để tiến công, để tiến hành trinh sát pháo binh và phát hiện hệ thống hỏa lực của địch, vì vậy, tất nhiên không chế áp được nó. Khi quân ta tiến công, địch dùng hỏa lực và phản kích chặn lại. Ngoài ra, không quân địch suốt ngày khống chế bầu trời và suốt ngày ném bom vào bộ đội ta.
- Tiếp tục công kích! - Xta-lin ra lệnh. - Nhiệm vụ chủ yếu của đồng chí là kéo lực lượng địch ra khỏi Xta-lin-grát càng nhiều càng tốt.
Hôm sau, chiến sự diễn ra ác liệt hơn. Không quân ta ném bom chúng suất đêm đến rạng ngày 6-9. Ngoài không quân của Phương diện quân, không quân tầm xa dưới quyền chỉ huy của trung tướng không quân A.E. Gô-lô-va-nốp đã ném bom suốt đêm; tướng Gô-lô-va-nốp lúc này đang cùng với tôi ở sở chỉ huy của tư lệnh tập đoàn quân cận vệ 1.
Trong ngày 6-9, địch điều từ khu vực Xta-lin-grát đến nhiều đơn vị mới. Trên các điểm cao khống chế, địch chôn xe tăng và pháo xuống đất và tổ chức rất vững các điểm tựa; phải có hỏa lực thật mạnh mới có thể đập nát các điểm tựa này. Nhưng lúc bấy giờ pháo ta rất ít.
Ngày thứ ba và thứ tư, chiến sự diễn biến chủ yếu là thi nhau sử dụng phương tiện hỏa lực và chiến đấu trên không.
Ngày 10-9, sau khi đi kiểm tra một lần nữa khắp các đơn vị, tôi đi đến kết luận là: với lực lượng và cách bố trí hiện nay, không thể chọc thủng đội hình chiến đấu của địch và thủ tiêu hành lang của chúng. Ý kiến của các tướng Goóc-đốp, Mốt-ca-len-cô, Ma-li-nốp-xki, Cô-dơ-lốp cũng giống như thế.
Ngay hôm đó, tôi báo cáo với Xta-lin như sau:
- Với lực lượng của Phương diện quân Xta-lin-grát hiện có, chúng ta không thể chọc thủng được hành lang và liên lạc với Phương diện quân Đông-nam trong thành phố. Chính diện phòng ngự của quân Đức đã được tăng cường thêm nhiều, nhờ các đơn vị mới kéo từ Xta-lin-grát đến. Tiếp tục công kích bằng lực lượng và cách bố trí hiện nay sẽ là vô ích, và bộ đội không tránh khỏi bị tổn thất lớn. Cần có quân bổ sung và có thời gian bố trí lại để đánh tập trung hơn bằng cả phương diện quân. Những đòn công kích bằng các tập đoàn quân không đủ sức đánh bật được kẻ địch.
Tổng tư lệnh trả lời là nếu tôi đáp máy bay về Mát-xcơ-va trực tiếp báo cáo những vấn đề này thì hay hơn.
Trưa ngày 12-9, tôi bay đi Mát-xcơ-va và 4 giờ sau, có mặt ở điện Crem-lanh; Tổng tham mưu trưởng A.M. Va-xi-lép-xki cũng được gọi đến đấy.
Va-xi-lép-xki báo cáo về việc địch đưa những đơn vị mới từ Ca-chi-ôn-ni-cốp đến khu vực Xta-lin-grát, về diễn biến chiến đấu trong khu vực Nô-vô-rốt-xi-xcơ, về chiến sự ở hướng Grô-dơ-nen-xcơ.
Tổng tư lệnh chú ý nghe Va-xi-lép-xki báo cáo xong, kết luận:
- Thế là chúng lao vào dầu hỏa ở Grô-dơ-nên-xcơ bằng bất cứ giá nào. Và bây giờ chúng ta nghe Giu-cốp về tình hình Xta-lin-grát.
Tôi nhắc lại những điều dã báo cáo bằng điện thoại và nói thêm rằng, các tập đoàn quân 24, tập đoàn quân cận vệ 1 và tập đoàn quân 66 tham gia cuộc tiến công từ 5 đến 11 tháng 9 đã tỏ ra là những binh đoàn có bản lĩnh chiến đấu. Cái yếu cơ bản của các binh đoàn này là thiếu phương tiện tăng cường, ít lựu pháo và thiếu các đơn vị xe tăng cần thiết để yểm hộ trực tiếp cho bộ binh.
Địa hình ở khu vực thuộc phương diện quân Xta-lin-grát thì lại hết sức bất lợi cho bộ đội ta tiến công: trống trải, có nhiều khe sâu chia cắt, địch có thể nấp ở đấy tránh hỏa lực của ta. Địch chiếm được nhiều điểm cao khống chế, pháo của chúng có thể ngắm xa và có thể cơ động hỏa lực khắp các hướng. Ngoài ra, địch cũng có thể bắn pháo tầm xa cả từ khu vực Cu-dơ-mi-chi - A-ca-tốp-ca - nông trường “Cánh đồng thí nghiệm”. Trong những điều kiện như thế, các tập đoàn quân 24, 66 và cận vệ 1 không thể chọc thủng mặt trận phòng ngự của địch.
- Phương diện quân Xta-lin-grát cần những gì để thủ tiêu hành lang của địch và hên lạc với Phương diện quân Đông-nam? - Xta-lin hỏi.
- Ít nhất là thêm một tập đoàn quân bộ đội hợp thành thật sung sức, một quân đoàn và ba lữ đoàn xe tăng và 400 khẩu lựu pháo trở lên. Ngoài ra, trong thời gian chiến dịch, cần tập trung thêm ít nhất một tập đoàn quân không quân.
A.M. Va-xi-lép-xki hoàn toàn ủng hộ ý kiến của tôi.
Tổng tư lệnh lấy bản đồ riêng có ghi vị trí các đội dự bị của Bộ Tổng tư lệnh ra xem hồi lâu rất chăm chú. Tôi và Va-xi-lép-xki lui dần ra xa bàn và nói với nhau rất khẽ rằng, có lẽ phải tìm một quyết tâm nào khác chăng.
- Quyết tâm “khác” như thế nào nhỉ? - Đột nhiên Xta-lin ngẩng đầu, hỏi.
Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng Xta-lin thính tai đến thế. Chúng tôi đến gần bàn.
- Thôi được, - Xta-lin nói tiếp, - các anh về bên Bộ tổng tham mưu và suy nghĩ thật kỹ xem cần làm gì ở vùng Xta-lin-grát. Có thể lấy ở đâu và đơn vị nào để điều đến tăng cường cho quân ta ở Xta-lin-grát, nhân thể suy nghĩ cả về Phương diện quân Cáp-ca-dơ. Mai, 9 giờ tối chúng ta lại gặp nhau ở đây.
Suốt ngày hôm sau, tôi và Va-xi-lép-xki làm việc ở Bộ Tổng tham mưu.
Tôi và Va-xi-lép-xki tập trung chú ý vào những khả năng mở chiến dịch quy mô lớn để không hao tốn các đội dự bị đang chuẩn bị và đã sẵn sàng mở những chiến dịch bộ phận. Tháng 10, ta đã kết thúc việc hình thành và tập hợp những đội dự bị chiến lược. Cùng lúc ấy, nền công nghiệp của chúng ta đã tăng thêm nhiều sản lượng máy bay kiểu mới nhất và đạn dược cho pháo binh.
Sau khi cân nhắc tất cả các phương án có thể, chúng tôi quyết định đề nghị với Xta-lin kế hoạch hành động sau đây: thứ nhất, phòng ngự tích cực để tiếp tục tiêu hao địch; thứ hai, bắt tay chuẩn bị phản công để đánh địch ở khu vực Xta-lin-grát một đòn có thể làm thay đổi hẳn tình huống chiến lược ở phía nam có lợi cho ta. Còn kế hoạch phản công cụ thể thì ai nhiên trong một ngày chúng tôi không thể tính toán chi tiết được, nhưng chúng tôi thấy rõ rằng, cần đánh những đòn cơ bản vào hai bên sườn của cụm quân địch ở Xta-lin-grát do quân đội Ru-ma-ni phụ trách.
Theo tính toán sơ bộ, chúng tôi thấy trước ngày 15-11, không thể chuẩn bị xong lực lượng và phương tiện cần thiết để phản công. Khi đánh giá kẻ địch, chúng tôi xuất phát từ chỗ phát-xít Đức không đủ sức thực hiện kế hoạch chiến lược của nó năm 1942. Lực lượng và phương tiện Đức đã sử dụng đầu mùa thu 1942 không đủ để thực hiện các nhiệm vụ ở Bắc Cáp-ca-dơ cũng như ở vùng sông Đông và sông Von-ga. Tất cả những gì mà bộ chỉ huy Đức có thể sử dụng ở Cáp-ca-dơ và ở khu vực Xta-lin-grát đều đã bị tiêu hao và suy yếu nhiều rồi. Bọn Hít-le rõ ràng là không thể điều đến miền Nam một lực lượng đáng kể hơn nữa và tất nhiên, cũng giống như sau khi bị tiêu diệt ở Mát-xcơ-va, chúng sẽ buộc phải chuyển sang phòng ngự trên tất cả các hướng.
Chúng tôi biết rằng, những đơn vị có sức chiến đấu cao nhất trong quân đội Đức là tập đoàn quân 6 của Pao-luýt và tập đoàn quân xe tăng 4 của Gốt đã qua những cuộc chiến đấu đẫm máu và bị tổn thất lớn trong khu vực Xta-lin-grát, cho nên không đủ sức hoàn thành chiến dịch chiếm thành phố và đã bị sa lầy ở đấy.
Quân đội Liên Xô trong những trận chiến đấu sống mái với quân thù trên các đường dẫn về Xta-lin-grát và tiếp đó ngay trong thành phố, đã bị thiệt hại nặng. Vì vậy, với lực lượng hiện có, không đủ sức tiêu diệt quân địch. Nhưng chúng ta đã huấn luyện xong các đội dự bị chiến lược lớn được trang bị vũ khí và khí tài tối tân. Đến đầu tháng 11, Bộ Tổng tư lệnh ắt sẽ có những binh đoàn cơ giới và những binh đoàn xe tăng được trang bị loại xe tăng T-34 mà cả thế giới đều biết. Điều đó cho phép chúng ta đề ra cho bộ đội những nhiệm vụ lớn lao hơn.
Hơn nữa, cán bộ chỉ huy cao cấp của chúng ta, qua thời kỳ đầu của chiến tranh đã học thêm được nhiều, đã nghiền ngẫm được nhiều điều, và trải qua trường học chiến đấu gay go chống kẻ địch mạnh, đã thành những người có bản lĩnh cao về nghệ thuật tác chiến. Cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị các cấp khác và các chiến sĩ Hồng quân với kinh nghiệm qua nhiều trận chiến đấu ác liệt với quân thù, đã nắm vững đầy đủ các phương thức và phương pháp tác chiến trong bất kỳ tình huống nào.
Bộ Tổng tham mưu, trên cơ sở tài liệu của các mặt trận, đã nghiên cứu các mặt mạnh, yếu của quân Đức, Hung-ga-ri, Ý, Ru-ma-ni. So với quân Đức thì quân chư hầu kém hơn về trang bị, về kinh nghiệm, về sức chiến đấu, ngay cả trong phòng ngự. Và cái chủ yếu nhất là, lính của chúng, thậm chí cả nhiều sĩ quan, đều không muốn chết vì quyền lợi xa lạ với họ trên những cánh đồng xa xôi của nước Nga mà Hít-le, Mút-xô-h-ni, An-tô-ne-xcu, Hoóc-ti và các tên trùm phát-xít khác đã điều họ đến.
Tình hình quân địch gay go thêm còn là vì ở khu vực sông Đông và sông Von-ga, lực lượng dự bị chiến dịch của chúng còn rất ít, không quá 6 sư đoàn, mà những sư đoàn này cũng bị rải ra trên một chính diện rộng. Địch không thể nào tập trung những lực lượng đó thành một quả đấm trong một thời gian ngắn. Hình thế chiến dịch của toàn bộ mặt trận địch cũng thuận lợi cho ta: quân ta chiếm lĩnh vị trí bao quát và có thể cải thiện tương đối dễ các bàn đạp ở các khu vực Xê-ra-phi-mô-vích và Clét-xcai-a.
Sau khi phân tích tất cả những tình hình đó, chúng tôi sẵn sàng đến gặp Xta-lin.
Đến tối, Va-xi-lép-xki gọi điện thoại báo cáo với Tổng tư lệnh rằng chúng tôi sẵn sàng, như chỉ thị của Tổng tư lệnh, sẽ có mặt lúc 21 giờ. Xta-lin nói là đồng chí bận độ vài giờ và sẽ tiếp chúng tôi lúc 22 giờ.
Đến 22 giờ, chúng tôi đã có mặt ở phòng làm việc của Tổng tư lệnh.
Chào nhau xong, Tổng tư lệnh bực dọc nói:
- Hàng chục, hàng trăm nghìn nhân dân Liên Xô đang hy sinh trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát-xít, thế mà Sớc-sin chỉ lo kỳ kèo mặc cả về vài chục chiếc máy bay “Ha-ri-kên”. “Ha-ri-kên” của họ là những thứ tồi, phi công của ta không thích loại ấy...
Và tiếp liền đó, với giọng hoàn toàn ôn tồn, đồng chí nói tiếp:
- Nào các đồng chí đã nghĩ được gì. Ai sẽ báo cáo?
- Tùy đồng chí ra lệnh - Va-xi-lép-xki trả lời - Chúng tôi đã nhất trí ý kiến.
Tổng tư lệnh đến cạnh bản đồ của chúng tôi.
- Các anh có cái gì đây?
- Đây là dự thảo sơ bộ kế hoạch phản công ở khu vực Xta-lin-grát, - Va-xi-lép-xki nói.
- Những cụm quân nào đây trong khu vực Xê-ra-phi-mô-vích?
- Đấy là một phương diện quân mới. Cần thành lập thêm để đánh thật mạnh vào hậu phương chiến dịch của số quân địch đang tác chiến ở khu vực Xta-lin-grát.
- Hiện nay chúng ta có đủ lực lượng để mở chiến dịch lớn như thế không?
Tôi báo cáo rằng, theo chúng tôi ước tính, sau 45 ngày, có thể đủ lực lượng và phương tiện cần thiết bảo đảm chiến dịch và có thể chuẩn bị tốt được.
- Nếu chỉ đánh từ bắc xuống nam và từ nam đến bắc dọc sông Đông có tốt hơn không? - Xta-lin hỏi.
Tôi nói, như vậy thì bọn Đức có thể nhanh chóng điều các sư đoàn thiết giáp của chúng từ Xta-lin-grát đến và ngăn chặn các đòn công kích của ta. Cú đấm của chúng ta ở phía tây sông Đông sẽ không cho phép địch vận động nhanh vì có sông ngăn cản và không cho phép chúng đưa các đội dự bị ra chặn các cánh quân ta lại.
- Thế các cánh quân xung kích của ta như vậy có phải là vươn ra xa quá không?
Tôi và Va-xi-lép-xki giải thích là chiến dịch chia làm hai giai đoạn cơ bản: 1 - chọc thủng trận địa phòng ngự, bao vây cụm quân Đức ở Xta-lin-grát và tạo nên một vành đai vững chắc ở bên ngoài để cô lập cụm quân này với lực lượng bên ngoài; 2 - tiêu diệt bọn địch bị vây và phá âm mưu của địch hòng mở vây.
- Phải suy nghĩ thêm về kế hoạch và tính toán những nguồn lực lượng của chúng ta, - Tổng tư lệnh nói, - Còn bây giờ thì nhiệm vụ chủ yếu là giữ vững Xta-lin-grát và không cho địch tiến về phía Ca-mư-sin.
A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép bước vào báo có điện thoại của A.I. Ê-rê-men-cô.
Nói điện xong, Tổng tư lệnh nói:
- Ê-rê-men-cô báo cáo rằng địch điều thêm mấy đơn vị xe tăng về thành phố. Chắc ngày mai chúng lại đánh. Đồng chí hãy ra lệnh ngay, cho điều cấp tốc sư đoàn cận vệ 13 của Rô-đim-xép qua sông Von-ga và xem còn có thể điều thêm những gì tới đây nữa trong ngày mai - đồng chí nói với Va-xi-lép-xki như vậy.
Quay lại tôi, Tổng tư lệnh ra lệnh:
- Gọi điện thoại bảo Goóc-đốp và Gô-lô-va-nốp cho không quân hoạt động ngay tức khắc. Ngay từ sáng sớm, Goóc-đốp phải cho đánh ngay để làm tê liệt quân địch. Bản thân anh hãy bay trở về phương diện quân Xta-lin-grát và nghiên cứu tình hình ở khu vực Clét-xcai-a và Xê-ra-phi-mô-vích. Vài hôm nữa Va-xi-ìép-xki phải đến Phương diện quân Đông-nam để nghiên cứu tình hình ở cánh trái của nó. Kế hoạch này chúng ta sẽ tiếp tục bàn sau. Những điều chúng ta đã bàn ở đây, ngoài ba chúng ta ra, hiện nay chưa nên cho ai biết nữa.
Một giờ sau, tôi lên máy bay về bộ tư lệnh Phương diện quân Xta-lin-grát.
Các ngày 13, 14, 15 tháng 9 đối với quân và dân Xta-lin-grát là những ngày nguy kịch, rất nguy kịch. Kẻ địch bất chấp tất cả, từng bước chọc xuyên qua gạch ngói ngổn ngang của thành phố, ngày càng tiến sát đến sông Von-ga. Xem chừng như quân ta không thể đứng vững được nữa. Nhưng hễ quân thù tiến lên là các chiến sĩ vinh quang của chúng ta thuộc tập đoàn quân 62 và 64 lại kiên trì bắn vào chúng. Nhà cửa đổ nát của thành phố trở thành chiến lũy. Nhưng lực lượng của ta từng giờ từng phút vợi đi dần.
Trong những giờ phút nguy kịch, có lúc tưởng chừng như là giờ phút cuối cùng ấy, sư đoàn cận vệ 13 của A.I. Rô-đim-xép (rút từ lực lượng dự bị của Bộ tổng tư lệnh) đã tạo nên bước ngoặt. Sau khi vượt sông sang Xta-lin-grát, sư đoàn phản kích ngay. Đòn tiến công ấy làm kẻ địch hoàn toàn bị bất ngờ. Ngày 16-9, sư đoàn của A.I. Rô-đim-xép đánh lui quân địch trên đồi Ma-mai-ép.
Chi viện cho quân và dân Xta-lin-grát còn có những đòn tiến công của không quân do A.E. Gô-lô-va-nốp và X.I. Ru-đên-cô chỉ huy, và những trận tiến công, pháo kích từ phía bắc của Phương diện quân Xta-lin-gtát vào các đơn vị thuộc quân đoàn 8 của Đức.
Chúng ta phải thấy hết công lao của các chiến sĩ tập đoàn quân 24, tập đoàn quân cận vệ 1 và tập đoàn quân 66 thuộc Phương diện quân Xta-lin-grát, của các phi công tập đoàn không quân 16 và không quân tầm xa, đã không nề hy sinh, chi viện rất đắc lực cho các tập đoàn quân 62 và 64 của Phương diện quân Đông-nam trong việc giữ vững Xta-lin-grát.
Với tất cả ý thức trách nhiệm, tôi xin nói rằng, nếu không có những đòn phản kích bền bỉ của bộ đội Phương diện quân Xta-lin-giát, nếu không có những đòn tiến công có hệ thống của không quân thì tình hình Xta-lin-grát eo lẽ còn nguy hơn nữa.
Cũng đáng chú ý lời một tên sĩ quan Đức hồi đó ở trong tập đoàn quân của Pao-luýt viết về việc này: “Lúc ấy, các đơn vị của quân đoàn chúng tôi bị thiệt hại hết sức nặng nề trong khi đánh trả trong tháng 9 những đợt tiến công mãnh liệt của đối phương từ phía bắc chọc vào các trận địa chia cắt của chúng ta. Các sư đoàn nằm trong khu vực này bị suy yếu hẳn; mỗi đại đội thường chỉ còn 30-40 lính”[4].
Lúc tạm yên tiếng súng, được phép của Tổng tư lệnh, A.I. Ê-rê-men-cô và N.X. Khơ-rút-xốp đến sở chỉ huy của tập đoàn quân cận vệ 1. Ở đấy đã có mặt tư lệnh không quân tầm xa Gô-lô-va-nốp và tôi. Ê-rê-men-cô tỏ ý muốn tìm hiểu và bàn bạc về tình hình ở Xta-lin-grát. Goóc-đốp và Mốt-ca-len-cô giới thiệu cho Ê-rê-men-cô mọi chi tiết của tình huống và những nhận định của mình.
Tổng tư lệnh đã dặn tôi phải giữ tuyệt đối bí mật dự kiến kế hoạch phản công lớn, nên câu chuyện chủ yếu xoay quanh việc tăng cường bộ đội các Phương diện quân Đông-nam và Xta-lin-grát. Ê-rê-men-cô có hỏi về kế hoạch phản kích mạnh hơn, tôi không thể không trả lời, tôi nói rằng tương lai, Bộ Tổng tư lệnh sẽ tiến hành phản kích với lực lượng lớn hơn nhiều, nhưng hiện nay thì không có lực lượng mà cũng không có phương tiện cho một kế hoạch như vậy.
Cuối tháng 9, Xta-lin lại gọi tôi về Mát-xcơ-va để bàn kế hoạch phản công. Trước đấy, Va-xi-lép-xki cũng đã trở về Mát-xcơ-va sau khi nghiên cứu xong các điều kiện để phản công của các tập đoàn quân ở cánh trái Phương diện quân Đông-nam.
Trước khi đến Đại bản doanh, tôi và Va-xi-lép-xki đã gặp nhau để bàn kết quả nghiên cứu các điều kiện thực hành phản công.
Trong khi bàn tình hình ở khu vực của Phương diện quân Xta-lin-grát, Tổng tư lệnh hỏi tôi về tướng Goóc-đốp. Tôi báo cáo rằng V.N. Goóc-đốp về mặt tác chiến là tướng giỏi, nhưng có chừng nào không hòa mình được với cơ quan bộ tư lệnh và với anh em cán bộ chỉ huy.
Xta-lin nói, thế thì cần cử tư lệnh khác cho phương diện quân đó. Trung tướng Rô-cô-xốp-xki được đề nghị vào cương vị ấy. Va-xi-lép-xki ủng hộ tôi. Thế là quyết định ngay: Phương diện quân Xta-lin-grát đổi tên là Phương diện quân sông Đông, còn phương diện quân sông Đông-nam đổi thành Phương diện quân Xta-lin-grát. Cử K.K. Rô-cô-xốp-xki làm tư lệnh Phương diện quân sông Đông, tham mưu trưởng là M.X. Ma-li-nin. Trung tướng N.Ph.Va-tu-tin được dự kiến cử làm tư lệnh Phương diện quân Tây-nam đang xây dựng. Cơ quan tư lệnh của tập đoàn quân cận vệ 1 được quyết định làm nòng cốt cơ bản để phát triển thành bộ tư lệnh Phương diện quân Tây-nam. Mốt-ca-len-cô, tư lệnh tập đoàn quân ấy được chuyển sang tập đoàn quân 40.
Sau khi bàn bạc tỉ mỉ kế hoạch của chiến dịch phản công, Tổng tư lệnh nói với tôi:
- Đồng chí hãy bay trở lại mặt trận. áp dụng mọi biện pháp để tiêu hao và làm suy yếu đối phương nhiều hơn nữa. Xem lại một lần nữa các khu vực dự kiến trong kế hoạch để tập trung những đội dự bị và các khu vực xuất phát cho Phương diện quân Tây-nam và cánh phải của Phương diện quân Xta-lin-grát, đặc biệt ở khu vực Xê-ra-phi-mô-vích và Clét-xcai-a. Cũng với mục đích ấy, đồng chí Va-xi-lép-xki nên đi một lần nữa đến cánh trái của Phương diện quân Đông-nam và nghiên cứu tất cả các vấn đề đã định trong kế hoạch cho vùng ấy.
Nghiên cứu xong tỉ mỉ tại chỗ tất cả các điều kiện để chuẩn bị phản công, tôi và Va-xi-lép-xki trở về Bộ tổng tư lệnh, bàn lại một lần nữa những điều cơ bản của kế hoạch phản công; sau đó kế hoạch được duyệt y.
Ký tên dưới bản đồ kế hoạch phản công là G.K. Giu-cốp và A.M. Va-xi-lép-xki. Tổng tư lệnh phê “Duyệt y”.
Xta-lin nói với Va-xi-lép-xki:
- Cần hỏi ý kiến các tư lệnh phương diện quân về ý định hành động của họ sau này, nhưng đừng để lộ ý đồ kế hoạch của chúng ta.
Tôi được lệnh trực tiếp góp ý kiến với Hội đồng quân sự phương diện quân sông Đông về tính chất hoạt động của bộ đội nhằm ra sức chi viện cho Xta-lin-grát. Tôi còn nhớ rõ buổi nói chuyện ngày 29-9 trong hang, trong khe núi ở phía bắc Xta-lin-grát, nơi đóng sở chỉ huy của tư lệnh tập đoàn quân Mốt-ca-len-cô.
Khi tôi nêu ý kiến là cần tiếp tục hoạt động tích cực để địch không thể rút bớt lực lượng và phương tiện từ khu vực của Phương diện quân sông Đông về đánh Xta-lin-grát, thì Rô-cô-xốp-xki nói rằng, lực lượng và phương tiện của phương diện quân ít quá nên ở đây không thể làm được chuyện gì đáng kể. Tất nhiên Rô-cô-xốp-xki nói đúng. Tôi cũng nghĩ như thế, nhưng nếu không tích cực chi viện cho Phương diện quân Đông-nam (bây giờ là Phương diện quân Xta-lin-grát) thì không thể nào giữ được thành phố.
Ngày 1-10, tôi trở về Mát-xcơ-va tiếp tục xây dựng nốt kế hoạch phản công. Từ Xta-lin-grát đến Mát-xcơ-va tôi đi bằng máy bay của A.E. Gô-lô-va-nốp, do đồng chí ấy trực tiếp lái. Tôi vui vẻ ngồi vào ca-bin, cạnh người phi công xuất sắc này.
Sắp đến Mát-xcơ-va, tôi thấy hình như máy bay bất thình lình rẽ ngoặt và hạ dần. Tôi đoán chắc là chúng tôi bay chệch đường rồi. Nhưng vài phút sau, A.E. Gô-lô-va-nốp đã cho máy bay đỗ xuống một nơi tôi chưa hề biết. Chúng tôi đã hạ cánh an toàn. Tôi hỏi A.E. Gô-lô-va-nốp:
- Sao anh cho máy bay đỗ xuống đây?
- May quá, đây là cạnh sân bay, nếu xuống sân bay thì bị vỡ tan mất.
- Sao thế? - Tôi ngạc nhiên.
- Sân bay đóng băng.
Chúng tôi đang nói chuyện thì chiếc máy bay của tôi bay theo sau cũng hạ xuống và tôi đi về sân bay Trung tâm Mát-xcơ-va.
Dĩ nhiên các chuyến bay trong điều kiện phức tạp, cất cánh vội vã thì không thể lúc nào cũng thuận lợi. Tôi còn nhớ kỹ một câu chuyện “máy bay” suýt làm chúng tôi thiệt mạng. Nó cũng xảy ra trên đường Xta-lin-grát về Mát-xcơ-va. Thời tiết hôm ấy không bay được, trời mưa, Mát-xcơ-va thông báo rằng trên thành phố có mù, tầm nhìn xa bị hạn chế. Nhưng vẫn phải bay vì Tổng tư lệnh gọi.
Trên đường thì dễ bay nhưng tới gần Mát-xcơ-va, tầm nhìn xa không quá 100 m. Phòng điều độ của không quân điện cho phi công bảo xuống sân bay dự bị. Nhưng như thế thì chắc chắn chúng tôi sẽ đến điện Crem-lanh chậm, Tổng tư lệnh đang mong.
Nhận hết trách nhiệm về mình, tôi ra lệnh cho phi công cứ hạ cánh xuống sây bay Trung ương và ngồi lại trong ca-bin với đồng chí. Khi bay trên Mát-xcơ-va, thình lình chúng tôi thấy cách cánh trái máy bay chừng 10 - 15 m có một đầu ống khói nhà máy. Tôi liếc nhìn phi công; anh ta, mắt không chớp, nâng máy bay lên một chút, và 2-3 phút sau, cho nó hạ cánh.
Hạ cánh xong, tôi nói:
- Có lẽ chúng mình đã may mắn thoát khỏi tình thế mà người ta có thể nói là “nguy to”.
Đồng chí mỉm cười, trả lời:
- Trên trời có thể xảy ra đủ các thứ, nếu người lái coi thường thời tiết.
- Tại tôi cả! - Tôi trả lời và siết chặt tay đồng chí.
Rất tiếc là vì lâu quá tôi quên tên đồng chí phi công ấy. Nếu tôi không nhầm thì hình như là Bê-li-a-ép - một con người rất tốt và một phi công rất dày dạn kinh nghiệm. Tôi đã cùng bay với đồng chí hơn 130 giờ. Không may đồng chí đã hy sinh trong một tai nạn máy bay.
Tháng 10, Đại bản doanh đã quyết định cho hơn 6 sư đoàn bổ sung đầy đủ vượt sông Von-ga tiến vào Xta-lin-grát vì tập đoàn quân 66 thực chất không còn gì ngoài các cơ quan hậu cần và tham mưu. Phương diện quân sông Đông cũng được tăng cường một ít. Đại bản doanh và Bộ Tổng tham mưu đặc biệt quan tâm việc lấy quân và công tác tổ chức cho Phương diện quân Tây-nam mới thành lập.
Trong tháng 10, vẫn tiếp tục các trận chiến đấu ác liệt ngay trong thành phố và các vùng ven.
Hít-le đã đòi bộ chỉ huy cụm tập đoàn quân “B” và Pao-luýt, tư lệnh tập đoàn quân 6 phải đánh chiếm ngay Xta-lin-grát.
Như trên đã nói, để chuẩn bị một trận công kích quyết định, bộ chỉ huy Đức ngay từ tháng 9, đã rút quân Đức đang phòng ngự ở các cạnh sườn và lấy quân Ru-ma-ni thay vào đấy, vì thế sức phòng ngự của chúng ở khu vực Xê-ra-phi-mô-vích và nam Xta-lin-grát bị yếu hẳn đi.
Giữa tháng 10, địch mở đợt tiến công mới, với hy vọng chuyến này sẽ kết liễu hẳn xta-lin-gtát. Nhưng, cũng như trước kia, chúng lại vấp phải sự chống giữ kiên cường của quân đội Xô-viết. Chiến đấu đặc biệt ác liệt và mưu trí ở đây là sư đoàn cận vệ 13 của A.I. Rô-đim-xép, sư đoàn 95 của V.A. Gô-ri-sơ-nưi, sư đoàn 37 của V.G. Giô-lu-đép, sư đoàn 112 của V.A. Éc-môn-kin, cụm quân của X.Ph. Gô-rô-khốp, sư đoàn 138 của I.I. Li-út-ni-cốp, lữ đoàn xe tăng 84 của Đ.N. Bê-lưi.
Chiến sự tiếp diễn mấy ngày đêm liền trên các đường phố, trong từng căn nhà, từng nhà máy, trên bờ sông Von-ga - khắp mọi nơi. Các đơn vị của ta bị tổn thất nặng trụ lại trên những “cù lao” nhỏ ở Xta-lin-grát.
Để chi viện cho quân và dân Xta-lin-grát, ngày 19-10, Phương diện quân sông Đông bắt đầu tiến công. Cũng như những lần trước, bọn Đức lần này buộc phải rút bớt lực lượng công kích thành phố, đưa phần lớn không quân, pháo binh và xe tăng quay sang đánh Phương diện quân sông Đông.
Cùng lúc ấy, tập đoàn quân 64 tổ chức phản kích từ phía nam trong khu vực Cu-pô-rô-xnôi-ê - Giê-li-ô-nai-a Pô-li-a-na vào sườn các đơn vị địch đang tiến công. Phương diện quân sông Đông tiến công và tập đoàn quân 64 phản kích làm dịu bớt tình hình gay go của tập đoàn quân 62 và đã đánh bại những cố gắng của địch nhằm làm chủ thành phố. Nếu không có Phương diện quân sông Đông và tập đoàn quân 64 chi viện, thì tập đoàn quân 62 không thể đứng vững được, và Xta-lin-grát có thể bị địch chiếm.
Đầu tháng 11, địch mấy lần thử tiến hành trong thành phố những hoạt động nhằm thanh toán các ổ tác chiến phòng ngự, rồi ngày 11-11, khi quân ta kết thúc công việc to tát chuẩn bị phản công, một lần nữa địch lại cố tiến công, nhưng không kết quả.
Đến lúc ấy quân thù đã bị suy yếu đến cực độ. Qua việc hỏi cung tù binh, ta xác định được rằng quân số các bộ đội và binh đoàn địch rất thấp, tinh thần không chỉ của lính mà cả của sĩ quan cũng sa sút trông thấy, ít tên tin rằng mình có thể sống sót mà thoát khỏi cái địa ngục trần gian của những trận chiến đấu bao nhiêu tháng ròng.
Từ tháng 7 đến tháng 11, trong các trận chiến đấu của sông Đông, sông Von-ga và ở Xta-lin-grát, địch bị thiệt hại hơn 60 vạn người, hơn 1.000 xe tăng, hơn 2.000 pháo và cối, ngót 1.400 máy bay. Hình thế chiến dịch chung của quân Đức ở khu vực sông Von-ga cũng trở nên gay go. Các đội dự bị cỡ quân đoàn và sư đoàn không còn nữa, hai bên sườn của cụm tập đoàn quân “B” chỉ còn những đội quân người Ru-ma-m, Ý, Hung-ga-ri với sức chiến đấu kém và bắt đầu thấy mình đang bị nguy khốn, không có lối thoát.
Quân đội Xô-viết trên sông Đông đã chiếm lĩnh những trận địa có lợi đảm bảo vị trí xuất phát phản công cho các Phương diện quân Tây-nam và sông Đông. Ở phía nam Xta-lin-grát, tập đoàn quân 51 phản kích bộ phận, đuổi địch ra khỏi các dải hồ ao và giữ vững tuyến có lợi Xác-pa - Xa-xa - Bác-man-sắc. Chính khu vực này đã được Va-xi-lép-xki đề nghị chọn làm khu vực xuất phát cho cuộc phản công vào tháng 11 của cánh trái Phương diện quân Xta-lin-grát.
Những cuộc chiến đấu quyết liệt bảo vệ Xta-lin-grát đã kéo dài hơn 3 tháng.
Nhân dân toàn thể thế giới nín thở theo dõi trận chiến đấu vô cùng vĩ đại ở khu vực sông Đông, sông Von-ga và Xta-lin-grát. Những thắng lợi của Quân đội Xô-viết, sự đấu tranh dũng cảm chống kẻ thù của họ đã cổ vũ cả loài người tiến bộ, và tạo nên sự tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng đánh bại chủ nghĩa phát-xít.
Trận Xta-lin-grát là một trường học thắng lợi hết sức lớn đối với quân đội ta. Bộ chỉ huy và các cơ quan tham mưu đã có nhiều thực tiễn về tổ chức hiệp đồng bộ binh, xe tăng, pháo binh, không quân. Bộ đội đã biết cách phòng ngự kiên cường trong thành phố, kết hợp phòng ngự kiên cường với cơ động ở các sườn. Tinh thần quân ta lên rất cao, và tất cả các điều ấy tổng hợp lại đã chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho Quân đội Xô-viết chuyển sang phản công.
Giữa tháng 11-1942, những trận chiến đấu phòng ngự khu vực Xta-lin-grát và bắc Cáp-ca-dơ đã kết thúc thời kỳ đầu cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại, một thời kỳ giữ vị trí đặc biệt trong cuộc sống nhân dân Liên Xô. Đấy là thời kỳ vô cùng gian khổ đối với quân và dân Liên Xô, đặc biệt khi quân đội Hít-le vừa giết hại, tàn phá, vừa tiến đến Lê-nin-grát, Mát-xcơ-va và chiếm U-crai-na. Đến đầu tháng 11-1942, quân địch đã chiếm một vùng đất đai bao la của nước ta gồm 1,8 triệu km vuông; trước chiến tranh, gần 80 triệu người sống trên diện tích đó. Hàng triệu người Liên Xô vì chiến tranh phải rời bỏ quê hương, nhà cửa, đi về phía đông để khỏi sống dưới ách chiếm đóng của quân thù. Quân đội Liên Xô do tình hình chiến sự lúc bấy giờ buộc phải rút sâu vào lòng đất nước, bị tổn thất khá nhiều về người và của cải vật chất.
Thế nhưng, ngay trong thời kỳ gay go ấy, quân và dân Liên Xô vẫn tin tường vào khả năng tiêu diệt quân thù. Trước nguy cơ sống còn, nhân dân ta càng đoàn kết chặt chẽ chung quanh Đảng cộng sản; và mặc dầu có nhiều khó khăn, cuối cùng đã chặn đứng được kẻ thù ở tất cả các hướng.
Trải qua 16 tháng chiến đấu, quân địch trên mặt trận Xô-Đức đã vấp phải cuộc kháng chiến kiên cường của Quân đội Xô-viết và của nhân dân trong các vùng bị chiếm đóng và chúng đã bị tổn thất hết sức nặng nề. Đến đầu tháng 11-1942, chúng đã có 2 triệu người bị giết, bị thương và mất tích. Đấy là những cốt cán ưu tú của quân Đức mà cuối thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh, bọn chỉ huy phát-xít không còn gì để thay thế được nữa.
Thế thì chiến tranh đã bắt đầu như thế nào?
Bất thình lình quân địch cho một số lớn không quân và bộ đội thiết giáp đánh những đòn bất ngờ vào quân ta trên tất cả các hướng chiến lược. Ngay những ngày đầu, bộ chỉ huy Đức cho ra quân một lúc 190 sư đoàn được trang bị tốt, 3.712 xe tăng, 47.260 khẩu pháo và cối; 4.950 máy bay. Quân số địch huy động sang đánh Liên Xô lúc bấy giờ là 5,5 triệu người. Chúng ta dễ hiểu rằng cần có những lực lượng, phương tiện như thế nào và sức chiến đấu của bộ đội phải ra sao mới có thể đánh lùi được những đòn tiến công như thế của quân thù.
Những đơn vị đóng ở các quân khu phía tây của chúng ta và những đơn vị, theo quyết định của Chính phủ, được điều từ các quân khu nội địa về các quân khu phía tây mùa xuân năm 1941, về số lượng và chất lượng chiến đấu, đều kém quân địch ở những hướng chúng đánh những đòn chủ yếu. Ở đây, ưu thế về số lượng của địch rất lớn: 5-6 lần trở lên, nhất là về xe tăng, pháo binh và không quân.
Nếu bộ đội các quân khu biên giới dược lệnh sẵn sàng chiến đấu hoàn toàn từ trước thì có thể gây cho địch tổn thất lớn hơn nữa ngay trong những ngày đầu chiến tranh, có thể kìm hãm chúng lâu hơn trên các tuyến phòng ngự phía tây. Nếu làm được như thế thì việc ra quân của các đơn vị từ các quân khu nội đìa đến sẽ có tổ chức hơn.
Tuy nhiên, ngay cái kết quả tất hơn ấy cũng không thể giúp chúng ta hoàn toàn đánh bại các đòn tiến công và sự đột nhập của địch vào biên giới nước ta trong thời kỳ đầu chiến tranh. Tháng 9, 10 năm 1941, và mùa hè năm 1942, các Phương diện quân miền Tây, Dự bị, Bri-an-xcơ và các phương diện quân của hướng tây-nam đã phòng ngự có tổ chức từ trước nhưng chúng ta vẫn không thể đánh lui hoàn toàn các đòn tiến công mạnh mẽ của địch.
Tình hình đã khác hẳn đi khi Quân đội Xô-viết, nhờ sự nỗ lực vô cùng lớn lao của Đảng và nhân dân, được trang bị một số lượng dồi dào xe tăng, máy bay, khí tài chiến đấu và hỗ trợ hiện đại. Năm 1942, nước ta sản xuất được hơn 21.000 máy bay, hơn 24.000 xe tăng và từ cuối năm, theo quyết định của Hội đồng quốc phòng, đã triển khai sản xuất hàng loạt pháo tự hành. Tinh thần hăng hái của bộ đội được củng cố thêm với vũ khí đáng tin cậy và họ đã chiến đấu có hiệu quả hơn, kết quả lớn hơn.
Viện trợ kinh tế - quân sự của các đồng minh chúng ta đã có tác dụng như thế nào trong những năm 1941-1942? Vấn đề này, sách báo phương Tây phóng đại rất nhiều.
Viện trợ được đồng minh ra sức quảng cáo đã đến với chúng ta theo kiểu cho thuê mượn với quy mô khác xa lời hứa của họ. Không cần phải nói, viện trợ thuốc đạn, xăng chất lượng cao, một số loại thép, phương tiện vận tải đường bộ và lương thực, tất nhiên là có vai trò tích cực của nó. Nhưng tỉ trọng của nó không đáng kể so với tổng số yêu cầu của nước ta về khối lượng giao hàng được thỏa thuận. Còn xe tăng và máy bay mà chính phủ Anh và Mỹ giao cho chúng ta thì phải nói thẳng rằng, chiến sĩ xe tăng và lái máy bay của ta không thích sử dụng, nhất là xe tăng chạy bằng xăng, thường bốc cháy như bó đuốc.
Thời kỳ đầu chiến tranh là một trường học nghiêm túc về đấu tranh vũ trang chống một kẻ thù mạnh và có kinh nghiệm. Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô, Bộ Tổng tham mưu, bộ chỉ huy và cơ quan tham mưu các đơn vị đã thu được nhiều kinh nghiệm tốt về tổ chức và tiến hành những trận chiến đấu phòng ngự tích cực và những chiến dịch phản công.
Trong những trận chiến đấu ác liệt của thời kỳ đầu chiến tranh, đã biểu hiện đặc biệt mạnh mẽ chủ nghĩa anh hùng rất phổ biến của các chiến sĩ Xô-viết và sự dũng cảm của các cán bộ chỉ huy được Đảng Lê-nin giáo dục. Tinh thần gương mẫu của đảng viên, đoàn viên, những người khi cần thiết, sẵn sàng hy sinh thân mình để chiến thắng quân thù, đã có tác dụng đặc biệt tích cực. Cuộc chiến đấu anh hùng của các chiến sĩ bảo vệ pháo đài Bre-xtơ, Lê-nin-grát, Mát-xcơ-va, Ô-đét-xa, Xê-va-xtô-pôn, Xta-lin-grát, Li-ê-pai, Ki-ép và Cáp-ca-dơ, đã ghi vào lịch sử những trang ngời sáng.
Trong thời kỳ đầu chiến tranh, đã ra đời những đội quân cận vệ Liên Xô. Vì toàn đơn vị biểu thị chủ nghĩa anh hùng tập thể, và đã lập nhiều thành tích trong chiến đấu, nhiều đơn vị đã được nhận danh hiệu đó: 4 quân đoàn kỵ binh, 36 sư đoàn bộ binh, 27 lữ đoàn xe tăng, 32 trung đoàn không quân và nhiều đơn vị khác. Trong Hải quân, danh hiệu cận vệ được trao tặng cho hai tàu tuần dương, bốn tàu ngầm, một tàu khu trục và một tàu rải thủy lôi. Trong số những đơn vị được tặng danh hiệu cận vệ đầu tiên có sư đoàn bộ binh cơ giới Mát-xcơ-va 1 của đại tá A.I. Li-diu-cốp, quân đoàn kỵ binh 2 của tướng P.A. Bê-lốp, quân đoàn kỵ binh 3 của tướng L.M. Đô-va-to, lữ đoàn xe tăng 4 của tướng M.E. Ca-tu-cốp, trung đoàn không quân tiêm kích 26 của thiếu tá A.P. Yu-đa-nốp, trung đoàn không quân oanh tạc đâm bổ 31 của trung tá P.I. Đô-nứt, trung đoàn không quân cường kích 215 của trung tá L.Đ. Rây-nô, trung đoàn pháo binh 440 của thiếu tá A.I. Briu-kha-nốp, v..v...
Cuộc chiến đấu vũ trang gay go đến cực độ chống quân phát-xít Đức đã tiêu tốn rất nhiều vũ khí, khí tài và của cải vật chất. Mặc dầu bị mất một phần đáng kể những khu vực kinh tế rất quan trọng và nhiều xí nghiệp, nhà máy, nhân dân ta đã lao động quên mình, ra sức cung cấp cho quân đội các phương tiện cần thiết để tiến hành chiến tranh. Đến cuối thời kỳ đầu chiến tranh, cả nước đã biến thành một mặt trận quân sự. Nhân dân Liên Xô thấy mình có nghĩa vụ phải làm tất cả những gì có thể làm để chiến thắng quân thù.
Nhân viên các cơ quan hậu cần của Hồng quân đã lao động rất anh hùng. Trong một năm rưỡi chiến tranh, tổng khối lượng hàng quân sự chở bằng đường sắt gồm 635 vạn toa xe. Đã mang đến cho bộ đội hơn 11,3 vạn toa đạn dược, gần 6 vạn toa vũ khí và khí tài, hơn 21 vạn toa xăng dầu. Các đơn vị vận tải ô-tô chỉ trong năm 1942, đã chở 2,7 triệu người, 12,3 triệu tấn hàng, 1.923 xe tăng và 3.674 khẩu pháo. Ngành vận tải hàng không quân sự đã chuyên chở 532.000 người, trong đó có 158.000 thương binh.
Việc cải tổ các cơ quan hậu cần của Hồng quân vào hồi đầu chiến tranh đã được chứng tỏ là hoàn toàn đúng. Việc lựa chọn đích đáng những cán bộ lãnh đạo, cán bộ chính trị và cán bộ chủ trì các cơ quan Đảng của hậu cần đã bảo đảm sự liên hệ công tác rất chặt chẽ với nền kinh tế quốc dân trong nước và sử dụng đúng đắn tất cả các khoản của cải cực kỳ to lớn cung cấp cho bộ đội.
Còn kẻ thù mà quân đội Xô-viết phải đánh trong thời kỳ đầu thì thế nào?
Cần giải đáp vấn đề này vì một lẽ để cho thế hệ trẻ của chúng ta biết rõ nhân dân Liên Xô đã phải trải qua cuộc chiến đấu gay go như thế nào để bảo vệ Tổ quốc. Đọc vài bản hồi ký, vài tác phẩm nghệ thuật, không phải lúc nào cũng có thể hiểu đúng kẻ thù mà các chiến sĩ Xô-viết phải đối phó là kẻ thù có mưu tính sâu xa, có kinh nghiệm và mạnh đến mức nào.
Trước hết hãy nói đến đám đông chủ yếu của quân Đức – binh lính, hạ sĩ quan và sĩ quan.
Quân Đức thọc vào biên giới Tổ quốc ta là những kẻ đang say sưa với những thắng lợi dễ dàng đè bẹp quân đội các nước Tây Âu, chúng đã bị bộ máy tuyên truyền của bọn Gơ-ben đầu độc, tin chắc có thể dễ dàng đánh thắng Hồng quân, và tin chắc mình hơn hẳn tất cả các dân tộc khác. Đặc biệt hiếu chiến là bọn binh lính và sĩ quan trẻ, đám quân các đơn vị thiết giáp và không quân. Trong những tháng đầu chiến tranh, tôi có nhiều dịp lấy khẩu cung tù binh Đức và phải nói rằng rõ ràng là chúng nó tin tất cả những lời hứa phiêu lưu của Hít-le.
Về sức chiến đấu của binh lính và sĩ quan Đức, về mặt huấn luyện chuyên môn và rèn luyện chiến đấu, thì chắc chắn là tất cả các binh chủng, đặc biệt trong bộ đội thiết giáp và không quân, chúng đều có trình độ cao.
Trong chiến đấu và trong mọi công việc ở chiến trường, lính Đức thành thạo nghiệp vụ, kiên trì, tự tin và có kỷ luật.
Cho nên các chiến sĩ Xô-viết đã phải đánh nhau với một kẻ thù dày dạn kinh nghiệm và mạnh, thắng được nó không phải là đơn giản. Các cơ quan tham mưu các cấp từ bộ đội, binh đoàn đến tập đoàn quân của Đức đều được huấn luyện về các phương thức tổ chức trận chiến đấu, đợt chiến đấu và chiến dịch hiện đại. Việc chỉ huy bộ đội trong quá trình tác chiến được thực hiện chủ yếu bằng phương tiện vô tuyến điện, mà cán bộ chỉ huy và cơ quan các cấp của quân đội Đức đều được trang bị đầy đủ. Trong tiến trình chiến đấu, chúng kiên quyết đốc thúc bộ đội phải hoàn thành nhiệm vụ. Chúng còn biết tổ chức tốt hiệp đồng với máy bay chiến đấu, bọn này thường ném bom dọn đường cho lục quân.
Đối với các cơ quan tư lệnh cấp cao của quân Đức thì trong thời kỳ đầu chiến tranh tôi đã có nhận định đánh giá khả năng khá cao.
Chúng ta đã thấy chúng làm kế hoạch và tổ chức rất kỹ lưỡng những đòn tiến công đầu tiên trên tất cả các hướng chiến lược, chọn được những người chỉ huy binh đoàn và những tư lệnh tập đoàn quân dày kinh nghiệm, trong nhiều trường hợp, đã xác định đúng phương hướng, lực lượng và thành phần bộ đội cho các đòn tiến công, nhằm vào đúng những đoạn yếu trong trận đỉa phòng ngự của ta. Mặc dù vậy, chiến lược chính trị - quân sự của chủ nghĩa phát-xít Đức tỏ ra rất sai lầm và thiển cận. Trong những chủ trương chính trị và chiến lược, chúng đã có những sơ suất và sai lầm rất nghiêm trọng. Lực lượng mà bọn Đức nắm trong tay (thậm chí kể cả những đội dự bị của bọn chư hầu) không đủ để đồng thời mở những chiến dịch có ý nghĩa chiến lược trên ba hướng chủ yếu nhất.
Quân địch trong những điều kiện ấy buộc phải chấm dứt tiến công vào Mát-xcơ-va và chúng chuyển sang lâm thời phòng ngự, rút phần lớn lực lượng của cụm tập đoàn quân “Trung tâm” ra chi viện cho cụm tập đoàn quân “Nam” để đối phó với các Phương diện quân Trung ương và Tây-nam của chúng ta.
Không đạt được mục tiêu cuối cùng ở Lê-nin-grát, bộ tổng chỉ huy Đức buộc phải rút không quân và bộ đội thiết giáp ra khỏi Lê-nin-grát và điều động chúng về hướng Mát-xcơ-va để tăng cường cho cụm tập đoàn quân “Trung tâm”. Tháng 10, 11, quân Đức chỉ có thể tiến công trên một hướng: hướng Mát-xcơ-va, nhưng ngay ở đây do sự đánh trả của Quân đội Liên xô trên các cửa ngõ Mát-xcơ-va ngày càng mạnh, chúng cũng không đủ lực lượng để hoàn thành nốt chiến dịch “Bão táp”.
Chúng lại mắc lại cái sai lầm chiến lược nghiêm trọng như thế khi làm kế hoạch chiến cục hè 1942.
Cơ sở của tất cả những sai lầm ấy là sự đánh giá quá thấp sức mạnh và sự hùng cường của đất nước xã hội chủ nghía chúng ta và của nhân dân Liên Xô, đánh giá quá cao lực lượng và khả năng của chúng.
Chủ trương xâm chiếm Liên Xô, Hít-le và bè lũ tính rằng sẽ dốc toàn bộ lực lượng và phương tiện của chúng đánh Liên Xô. Đấy chỉ là ý muốn của một tay cờ bạc đang cay cú. Mặc dầu chính phủ Pê-tanh phản bội, nhân dân lao động Pháp không chịu cúi đầu trước bọn chiếm đóng phát-xít. Và nhân dân các dân tộc yêu chuộng tự do Nam Tư, Ba Lan, Tiệp Khắc, v..v... cũng không chịu cúi đầu. Bọn Hít-le phải đối phó với một phong trào kháng chiến của đông đảo nhân dân. Nước Anh cũng không chấm dứt cuộc chiến đấu mặc dầu họ không dốc toàn lực vào cuộc chiến.
Bọn Hít-le không tính được rằng nhân dân Liên Xô đoàn kết chung quanh Đảng, lại có sức kiên cường đến như thế, và trong một thời gian ngắn lại cải tổ được nền kinh tế, nhanh chóng tổ chức sản xuất hàng loạt xe tăng, máy bay, đại bác, đạn dược và tất cả mọi thứ cần cho Hồng quân để tạo nên ưu thế so với quân phát-xít Đức và tiêu diệt chúng.
Trong những điều kiện gay go, bộ đội ta đã được tôi luyện, trở nên kiên cường, tích lũy kinh nghiệm chiến đấu, và khi đã có trong tay những phương tiện cần thiết, thì từ chỗ là bên rút lui, phòng ngự, chuyển thành bên tiến công.
Công tác tổ chức và động viên vô cùng lớn lao của Đảng Lê-nin chúng ta đã đạt những kết quả rực rỡ cả trong lĩnh vực xây dựng quân đội cũng như động viên nhân dân Liên Xô xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm cho cuộc đấu tranh vũ trang của Hồng quân với quân phát-xít Đức.
Thế là, giai đoạn đầu chiến tranh giữ nước vĩ đại kết thúc bằng sự thất bại của tất cả các kế hoạch chiến lược của bộ chỉ huy Hít-le và bằng việc làm tiêu hao rất nhiều lực lượng và phương tiện của nước Đức. Kết quả chủ yếu ấy của cuộc chiến đấu chống quân phát-xít Đức đã góp phần rất lớn quyết định trước bước phát triển về sau của cả Thế chiến thứ hai.
---
[1] tập đoàn quân 6 và 60 – TG.
[2] K. Ti-pên-xkiếc: Lịch sử Thế chiến thứ hai.
[3] Véc-ta là một đơn vị đo lường của Nga bằng 1,06 km -ND.
[4] L. Vi-de: Tai họa trên sông Von-ga.