Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Hồi Ký, Tuỳ Bút >> NHỚ LẠI VÀ SUY NGHĨ

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 39385 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

NHỚ LẠI VÀ SUY NGHĨ
Zhukov

Chương 10

ĐÊM 21 rạng 22 tháng 6 năm 1941, tất cả các cán bộ Bộ Tổng tham mưu và Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng được lệnh ở lại nơi làm việc. Cần cấp tốc truyền tới các quân khu chỉ thị chuyển bộ đội đóng gần biên giới sang tư thế sẵn sàng chiến đấu. Lúc này tôi và Ủy viên nhân dân quốc phòng liên tiếp nói chuyện với tư lệnh và tham mưu trưởng các quân khu, các đồng chí đó cho chúng tôi biết, có nhiều tiếng động mỗi lúc một tăng ở phía bên kia biên giới. Các tin này do các chiến sĩ biên phòng và các đơn vị bảo vệ tiền tiêu báo cáo về.
Khoảng 12 giờ đêm ngày 21-6, tư lệnh Quân khu Ki-ép M.P. Kiếc-pô-nô-xơ tại sở chỉ huy ở Téc-nô-pôn báo cáo, ngoài người lính Đức chạy sang mà tướng M.A. Puốc-ca-ép đã báo cáo, có thêm một lính Đức nữa thuộc trung đoàn bộ binh 222, sư đoàn bộ binh 74, chạy sang ta. Người này bơi qua một con sông nhỏ, tìm tới các chiến sĩ biên phòng và nói rằng, quân đội Đức sẽ tiến công vào 4 giờ sáng. M.P. Kiếc-pô-nô-xơ được lệnh khẩn cấp đưa quân đội vào tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Mọi việc đều chứng tỏ rằng quân Đức đang tiến gần hơn đến biên giới. Chúng tôi báo cáo tình hình đó với I.V. Xta-lin vào lúc 0 giờ 30 phút đêm. I.V. Xta-lin hỏi, chỉ thị cho các quân khu đã truyền đi chưa. Tôi trả lời là đã.
Sau khi I.V. Xta-lin tạ thế, đã xuất hiện những giả thuyết rằng, trong đêm 21 rạng 22 tháng 6, một số tư lệnh cùng với bộ tham mưu của họ nằm ngủ ngon lành hoặc bình thản vui chơi coi như không có điều gì đáng lo ngại cả. Điều đó không đúng với sự thật Đêm hòa bình cuối cùng hoàn toàn khác hẳn. Như tôi đã nói, Ủy viên nhân dân quốc phòng và tôi, khi từ Crem-lanh trở về, đã nói chuyện nhiều lần với các tư lệnh quân khu - Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp, Đ.G. Páp-lốp. M.P. Kiếc-pô-nô-xơ và các tham mưu trưởng các quân khu đó, các đồng chí này đều có mặt ở các sở chỉ huy của mình.
Lúc gần sáng 22-6, Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô, N.Ph. Va-tu-tin và tôi đều có mặt tại phòng làm việc của Ủy viên nhân dân quốc phòng.
Hồi 3 giờ 17 phút, tư lệnh Hạm đội Biển Đen, đô đốc Ph.X. Óc-chi-a-brơ-xki gọi dây nói cho tôi, báo: “Hệ thống cảnh giới của hạm đội báo cáo, ở phía bên kia biển có một số lớn máy bay không rõ của nước nào đang tiến tới gần, hạm đội hiện ở trong tư thế hoàn toàn sẵn sàng chiến đấu. Tôi chờ lệnh”.
Tôi hỏi đô đốc:
- Quyết tâm của đồng chí thế nào?
- Chỉ có một quyết tâm: đón các máy bay đó bằng hỏa lực phòng không của hạm đội.
Sau khi bàn với X.K. Ti-mô-sen-cô, tôi trả lời Ph.X. Óc-chi-a-brơ-xki:
- Đồng chí cứ xử trí đi và báo cáo với đồng chí Ủy viên nhân dân hải quân.
Lúc 3 giờ 30 phút, tham mưu trưởng Quân khu miền Tây, tướng V.E. Cli-mốp-xkích báo cáo, không quân Đức tấn công các thành phố thuộc Bê-lô-ru-xi. Ba phút sau, tham mưu trưởng Quân khu Ki-ép, tướng M.A. Puốc-ca-ép báo cáo, máy bay Đức tấn công các thành phố biên giới U-crai-na. Lúc 3 giờ 40 phút, tư lệnh Quân khu Pri-ban-tích, tướng Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp gọi dây nói báo cáo, không quân địch tấn công Cau-na-xơ và các thành phố khác.
Ủy viên nhân dân quốc phòng chỉ thị cho tôi gọi dây nói tới I.V. Xta-lin. Tôi gọi. Không có ai trả lời. Tôi gọi liên tiếp. Cuối cùng tôi nghe thấy giọng ngái ngủ của tướng trực ban Cục bảo vệ. Tôi yêu cầu mời I.V. Xta-lin tới máy nói.
Ba phút sau I.V. Xta-lin tới máy.
Tôi báo cáo tình hình và đề nghị cho phép bắt đầu đánh trả. I.V. Xta-lin im lặng. Tôi chỉ nghe thấy hơi thở của I.V. Xta-lin.
- Đồng chí hiểu tôi chứ ạ?
Lại im lặng.
Cuối cùng, I.V. Xta-lin hỏi:
- Ủy viên nhân dân quốc phòng đâu?
- Đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng đang nói chuyện với Quân khu Ki-ép.
- Mời đồng chí cùng với Ti-mô-sen-cô tới Crem-lanh. Đồng chí báo Pô-xcơ-rê-bư-sép triệu tập tất cả các đồng chí ủy viên Bộ chính trị về họp.
Lúc 4 giờ, tôi lại nói chuyện với Ph.X. Óc-chi-a-brơ-xki. Ph.X. Óc-chi-a-brơ-xki với giọng bình tĩnh, báo cáo:
- Cuộc tấn công của máy bay địch bị đánh lui. Âm mưu của địch đánh vào các tàu chiến ta bị đập tan. Nhưng trong thành phố có bị tàn phá.
Tôi muốn nêu lên rằng, Hạm đội Biển Đen do đô đốc Ph.X. Óc-chi-a-brơ-xki chỉ huy, là một trong số những đơn vị đầu tiên của ta đã đối phó một cách có tổ chức chống lại cuộc tấn công của địch.
Lúc 4 giờ 10 phút, các Quân khu miền Tây và Pri-ban-tích báo cáo, quân Đức bắt đầu đánh vào các khu vực đất liền thuộc quân khu.
Lúc 4 giờ 30 phút sáng, tất cả các ủy viên Bộ chính trị được triệu tập đã tới đủ. Ủy viên nhân dân quốc phòng và tôi được mời vào phòng làm việc.
I.V. Xta-lin sắc mặt tai tái ngồi bên bàn, tay cầm tẩu thuốc lá nhét đầy thuốc. I.V. Xta-lin nói:
- Cần phải gọi ngay điện thoại tới đại sứ quán Đức.
Ở đại sứ quán trả lời rằng đại sứ Đức, bá tước Su-len-bua đề nghị được gặp để thông báo khẩn cấp.
V M. Mô-lô-tốp được giao trách nhiệm gặp đại sứ Đức.
Lúc này Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất, tướng N.Ph Va-tu-tin báo tin rằng, bộ binh Đức tại nhiều địa điểm trên các hướng tây-bắc và tây đã chuyển sang tấn công, sau khi cho pháo binh bắn mãnh liệt.
Một lúc sau V.M. Mô-lô-tốp bước nhanh vào phòng.
- Chính phủ Đức tuyên chiến với chúng ta.
I.V. Xta-lin ngồi xuống ghế và đăm chiêu suy nghĩ.
Im lặng kéo dài, nặng nề.
Tôi đánh bạo phá sự im lặng và đề nghị ngay tức khắc dùng tất cả các lực lượng hiện có ở các quân khu miền biên giới đánh lại các đơn vị quân địch đã xâm nhập và chặn bước tiến của chúng.
- Không phải là để chặn, mà là để tiêu diệt, - X.K. Ti-mô-sen-cô bổ sung.
- Các đồng khí thảo chỉ thị đi, - I.V. Xta-lin nói.
Lúc 7 giờ 15 phút ngày 22-6, chỉ thị số 2 của Ủy viên nhân dân quốc phòng được truyền tới các quân khu. Nhưng theo tương quan lực lượng và tình hình đã diễn ra khi đó, rõ ràng là chỉ thị không sát với thực tế, và vì vậy đã không thực hiện dược.
Một lúc sau chúng tôi được biết rằng, tảng sáng ngày 22-6, tại tất cả các quân khu gần biên giới phía tây, đường liên lạc dây với các đơn vị bị đứt nên các bộ tham mưu các quân khu và các tập đoàn quân đã không thể nhanh chóng truyền đi các mệnh lệnh của mình. Bọn gián điệp và các đội biệt kích phá hoại do Đức tung vào lãnh thổ ta, đã phá đường dây, giết các chiến sĩ liên lạc và định giết các cán bộ chỉ huy đi lại trong khi báo động. Như tôi đã nói, phần lớn các đơn vị quân đội các quân khu gần biên giới không có phương tiện liên lạc vô tuyến.
Các bộ tham mưu quân khu bắt đầu nhận được từ nhiều nguồn đủ các loại tin tức mâu thuẫn nhau, phần nhiều có tính chất khiêu khích.
Về phần mình, Bộ Tổng tham mưu không thể nhận được những tin tức chính xác của các bộ tham mưu quân khu và các đơn vị, và đương nhiên điều đó không thể không làm cho Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu trong lúc nào đó gặp những khó khăn.
Đến 8 giờ ngày 22-6, Bộ Tổng tham mưu đã xác định được rằng:
- Máy bay ném bom địch đã đánh mạnh nhiều sân bay các Quân khu Bê-lô-ru-xi, Ki-ép và Pri-ban-tích, làm tổn hại nghiêm trọng, trước nhất là bộ phận không quân chưa kịp cất cánh, phân tán về các sân bay dã chiến;
- Nhiều thành phố và các đoạn đường sắt ở Pri-ban-tích, Bê-lô-ru-xi, U-craì-na, các căn cứ hải quân ở Xê-va-xtô-pôn và Pri-ban-tích bị ném bom;
- Có nhiều trận đánh ác liệt với bộ binh Đức ở suốt dọc biên giới của ta ở phía tây. Tại nhiều nơi quân Đức đã đánh nhau với các đơn vị tiền tiêu của Hồng quân;
- Các đơn vị khinh binh thuộc tuyến một sau khi báo động, đã tham chiến trong hành tiến, không kịp chiếm các vị trí đã chuẩn bị;
- Các vùng thuộc Quân khu Lê-nin-grát hiện vẫn yên tĩnh, quân địch chưa hành động gì.
X.K. Ti-mô-sen-cô gọi dây nói tới I.V. Xta-lin đề nghị được phép tới Crem-lanh trình bày bản dự thảo sắc lệnh của Đoàn chủ tịch Xô-viết tối cao về việc động viên trong nước, đề án thành lập Bộ Tổng tư lệnh và nhiều vấn đề khác.
Đến 9 giờ, Ủy viên nhân dân quốc phòng và tôi tới Crem-lanh. Nửa giờ sau, I.V. Xta-hn tiếp chúng tôi.
Sau khi nghe báo cáo tình hình, I V. Xta-lin nói:
- 12 giờ, V.M .Mô-lô-tốp sẽ phát biểu trên đài phát thanh.
Khi thông qua dự thảo sắc lệnh động viên, I.V. Xta-ìin đã rút ngắn một số điều khoản do Bộ Tổng tham mưu đề nghị. Sau đó dự thảo được giao cho A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép đưa lên Đoàn chủ tịch Xô-viết tối cao phê chuẩn. Sắc lệnh công bố lệnh, từ ngày 23-6 động viên nhập ngũ những người sinh các năm 1905 đến 1918 trên phạm vi 14 quân khu, tức là gần hết các quân khu chỉ trừ các quân khu Trung Á, Da-bai-can và Viễn Đông, đồng thời tuyên bố tình trạng chiến tranh ở phần châu Âu của đất nước. Tại đây tất cả các chức năng cơ quan chính quyền nhà nước về phòng thủ, bảo vệ trật tự xã hội và bảo đảm an ninh quốc gia đều được chuyển sang các cơ quan quân sự. Các cơ quan quân sự có quyền huy động nhân dân lao động, tất cả các phương tiện giao thông để phục vụ công việc phòng thủ và bảo vệ các mục tiêu quân sự và kinh tế quốc dân quan trọng nhất.
I.V. Xta-lin giữ lại bản dự án quyết định thành lập Bộ Tổng tư lệnh, nói rằng, để đưa ra Bộ chính trị thảo luận.
Ngày 23-6 được công bố thành phần Bộ Tổng tư lệnh, có sửa đổi ít nhiều so với đề nghị của chúng tôi. Ủy viên nhân dân quốc phòng không được thỏa thuận trước về những sửa đổi này, mà lẽ ra thì nên chấp nhận bản dự thảo của chúng tôi trong đó có đề nghị cử I.V. Xta-hn giữ chức Tổng tư lệnh.
Bởi vì theo thể thức hiện hành thì dù thế nào, nếu không có ý kiến của I.V. Xta-ìin, Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô cũng không thể tự mình thông qua những quyết định quan trọng. Thành ra có hai vị Tổng tư lệnh: Ủy viên nhân dân X.K. Ti-mô-sen-cô về pháp lý theo sắc lệnh, và I.V. Xta-lin - về thực tế. Điều đó khó cho công việc điều khiển quân đội và đương nhiên làm mất thêm thời gian trong khi ra các quyết định và mệnh lệnh. Chúng tôi cũng đề nghị trong thành phần Bộ Tổng tư lệnh có cả Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất N. Ph. Va-tu-tin. I.V. Xta-lin không đồng ý.
Theo quyết định của Ban chấp hành trung ương Đảng và Hội đồng Ủy viên nhân dân Liên Xô, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh được thành lập gồm có Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô (Chủ tịch), Tổng tham mưu trưởng, tướng G.K. Giu-cốp, I.V. Xta-lin, V M. Mô-lô-tốp, các nguyên soái K.E. Vô-rô-si-lốp và X.M. Bu-đi-on-nưi, Ủy viên nhân dân hải quân, đô đốc N.G. Cu-dơ-nép-xốp.
Ngày 22-6, các Quân khu đặc biệt Pri-ban-tích, miền Tây và Ki-ép được tổ chức lại thành các Phương diện quân Tây-bắc, Tây và Tây-nam.
Khoảng 13 giờ ngày 22-6, I.V. Xta-lin gọi dây nói cho tôi và nói:
- Các tư lệnh phương diện quân của chúng ta chưa có đủ kinh nghiệm lãnh đạo quân đội chiến đấu, do đó chắc là có phần lúng túng. Bộ Chính trị quyết định cử đồng chí tới Phương diện quân Tây-nam với tư cách là đại diện Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh. Chúng tôi sẽ cử nguyên soái Sa-pô-sni-cốp và nguyên soái Cu-lích tới Phương diện quân miền Tây. Tôi đã mời Sa-pô-sni-cốp và Cu-lích tới gặp và đã ra chỉ thị. Đồng chí cần đi máy bay ngay tới Ki-ép rồi từ đó cùng với Khơ-rút-xốp đến Bộ tư lệnh Phương diện quân ở Téc-nô-pôn.
Tôi hỏi:
- Vậy trong tình hình phức tạp hiện nay ai sẽ lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu?
I.V. Xta-lin trả lời:
- Giao cho đồng chí Va-tu-tin thay.
Sau đó I.V. Xta-lin có phần hơi bực dọc, nói thêm:
- Đừng để mất thời gian, chúng tôi ở đây sẽ liệu thu xếp.
Tôi gọi dây nói về nhà bảo đừng chờ tôi, và khoảng 40 phút sau tôi đã ở trên không. Bấy giờ tôi mới nhớ ra là chưa ăn gì từ hôm qua. Các phi công đã lo giúp tôi, mời tôi nước chè đặc và bánh mì có nhân.
Cuối ngày tôi mới tới Ki-ép, đến Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản U-crai-na, ở đây N.X. Khơ-rút-xốp đã chờ tôi. N.X. Khơ-rút-xốp nói rằng, đi máy bay thêm nữa sẽ nguy hiểm. Bọn phi công Đức săn các máy bay vận tải. Cần phải đi bằng ô-tô. Sau khi nhận được tin tức cuối cùng về tình hình do N.Ph. Va-tu-tin thông báo, chúng tôi đi Téc-nô-pôn, tới sở chỉ huy của tư lệnh Phương diện quân Tây-nam, lúc đó là thượng tướng M.P. Kiếc-pô-nô-xơ.
Chúng tôi tới sở chỉ huy lúc đêm khuya, ngay lúc đó tôi nói chuyện với N.Ph. Va-tu-tin theo đường liên lạc riêng.
Ni-cô-lai Phê-đô-rô-vích Va-tu-tin cho tôi biết những việc như sau:
- Đến cuối ngày 22-6, mặc dù có những biện pháp tích cực Bộ Tổng tham mưu vẫn không thể nhận được từ các bộ tham mưu phương diện quân, tập đoàn quân và bộ đội phòng không tin tức chính xác về quân ta và quân địch, Những tin nói về chiều sâu xâm nhập của quân địch vào lãnh thổ nước ta khá trái ngược nhau. Không có những số liệu chính xác về những tổn thất trong không quân và quân trên bộ. Chỉ mới biết rằng không quân Quân khu miền Tây bị thiệt hại rất lớn. Bộ Tổng tham mưu và ủy viên nhân dân quốc phòng không thể liên lạc được với các tư lệnh phương diện quân, thượng tướng Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp và đại tướng Đ.G. Páp-lốp, các đồng chí này xuống các đơn vị ở chỗ nào đó mà không báo cáo với Ủy viên nhân dân quốc phòng. Các bộ tham mưu phương diện quân không biết lúc này tư lệnh của họ ở đâu.
Theo tài liệu của cơ quan trinh sát không quân, các trận đánh đang diễn ra ở các khu phòng thủ vững chắc của ta và có nơi ở sâu 15 - 20 km trong lãnh thổ nước ta. Các bộ tham mưu phương diện quân cố bắt liên lạc trực tiếp với các đơn vị song không có kết quả bởi vì đa số các tập đoàn quân và các quân đoàn độc lập không có liên lạc đường dây cũng như không có hên lạc vô tuyến với phương diện quân.
Tiếp đó, N.Ph. Va-tu-tin nói rằng, I.V Xta-lin đã thông qua dự thảo chỉ thị số 3 của Ủy viên nhân dân quốc phòng và bảo ghi chữ ký của tôi vào.
- Chỉ thị về việc gì vậy? - Tôi hỏi.
- Chỉ thị cho quân ta chuyển sang phản công với nhiệm vụ đánh tan quân địch tại các hướng chủ yếu nhất, thêm nữa, vượt sang lãnh thổ quân địch.
- Nhưng chúng ta còn chưa biết chính xác quân địch đánh ở đâu và dùng lực lượng như thế nào - tôi nói. - Tốt hơn là chờ đến sáng để xem xét rõ tình hình ở mặt trận ra sao rồi khi ấy sẽ có quyết định cần thiết.
- Tôi tán thành ý kiến của đồng chí, nhưng vấn đề đã được quyết định rồi.
- Được, - tôi nói, - đồng chí ghi chữ ký của tôi vào.
Gần 12 giờ đêm chỉ thị này được truyền tới tư lệnh Phương diện quân Tây-nam. Như tôi đã dự đoán, tham mưu trưởng phương diện quân M.A. Puốc-ca-ép tỏ vẻ rất không đồng ý với chỉ thị. M.A. Puốc-ca-ép cho rằng phương diện quân không có lực lượng và phương tiện để thi hành chỉ thị này.
Tình hình được đem ra thảo luận tỉ mỉ tại Hội đồng quân sự phương diện quân. Tôi đề nghị với M.P. Kiếc-pô-nô-xơ, ngay tức khắc ra mệnh lệnh sơ bộ tập trung các quân đoàn cơ giới để phản kích vào bộ phận chủ lực của cụm tập đoàn quân “Nam” đã lọt vào vùng Xô-can, điều toàn bộ không quân của phương diện quân và một phần không quân ném bom tầm xa thuộc Bộ Tổng tư lệnh vào tham gia phản kích. Bộ tư lệnh và bộ tham mưu phương diện quân, sau khi nhanh chóng thảo các chỉ lệnh chiến đấu sơ bộ, đã truyền những văn kiện này tới các tập đoàn quân và các quân đoàn.
Cần phải nêu lên tinh thần kỷ luật cao và tài tổ chức xuất sắc của tham mưu trưởng phương diện quân M.A Puốc-ca-ép và trưởng phòng tác chiến bộ tham mưu phương diện quân I.Kh. Ba-gra-mi-an đã thể hiện trong tình hình rất phức tạp này của ngày đầu chiến tranh.
Lúc 9 giờ sáng ngày 23-6, chúng tôi tới sở chỉ huy của tư lệnh quân đoàn cơ giới 8, trung tướng Đ.I. Ri-a-bư-sép. Tôi biết rõ trung tướng từ hồi làm việc ở Quân khu đặc biệt Ki-ép. Trông vẻ ngoài của tư lệnh quân đoàn và các cán bộ chỉ huy bộ tham mưu là đã đoán ra được ngay, họ đã qua một cuộc hành binh không dễ dàng gì. Họ đã đi rất nhanh từ khu Đrô-gơ-bứt đến khu Brô-đa và tinh thần anh em vẫn phấn chấn. Nhìn Đ.I.Ri-a-bư-sép và các cán bộ chỉ huy bộ tham mưu, tôi nhớ lại lữ đoàn xe tăng 11, người chỉ huy của nó - lữ đoàn trưởng dũng cảm M.P. Ya-cốp-lép - và trận họ đã đánh tan quân địch năm 1939 gần núi Ba-in Xa-gan ở Khan-khin Gôn.
“Những người này sẽ chiến đấu không kém hơn, - tôi nghĩ. - Miễn là cuộc phản kích không bị chậm...”.
Đ.I. Ri-a-bư-sép chỉ vào bản đồ bố trí quân của quân đoàn, vắn tắt báo cáo về tình hình các đơn vị.
- Quân đoàn cần một ngày đêm để tập trung đủ quân, ổn định phần vật chất và bổ sung lượng dự trữ, - Đ.I. Ri-a-bư-sép nói, - trong một ngày đêm này sẽ tiến hành trinh sát chiến đấu và tổ chức chỉ huy. Như vậy là quân đoàn có thể sẵn sàng chiến đấu với toàn bộ lực lượng của mình vào sáng ngày 24-6.
- Được, - tôi trả lời. - Tất nhiên tốt hơn là cùng phản kích với các quân đoàn cơ giới 9, 19 và 22, nhưng tiếc là các quân đoàn đó từ địa điểm xuất phát lên đường chậm. Tình hình không cho phép chúng ta chờ đến lúc tập trung đầy đủ các quân đoàn. Quân địch có thể dùng lực lượng mạnh xe tăng và pháo chống tăng để đánh lại cuộc phản kích của quân đoàn cơ giới 8. Do đó, cần phải điều tra tỉ mỉ địa hình và quân địch.
Đ.I. Ri-a-bư-sép vừa định nói gì đó với tôi thì có hiệu lệnh: “Máy bay địch!”.
- Thế đấy, - Đơ-mi-tơ-ri I-va-nô-vích Ri-a-bư-sép thản nhiên nói, - chúng tôi chưa kịp đào hầm trú ẩn. Báo cáo đồng chí đại tướng, đồng chí với tôi đành phải tưởng tượng là chúng ta đang nấp trong hầm.
- Đơ-mi-tơ-n I-va-nô-vích, vừa rồi đồng chí định nói gì?
- Tôi định đề nghị, hay là, chúng ta ăn uống một tí.
- Ý kiến hay. Trên xe tôi có thức ăn đấy.
Tham mưu trưởng quân đoàn và các cán bộ chỉ huy khác của bộ tham mưu bước vào trong lều. Họ chưa kịp tự giới thiệu thì đã nghe thấy tiếng rú của máy bay ném bom Đức đang lao xuống và những tiếng bom nổ. Tôi nhìn Đ.I. Ri-a-bư-sép và các cán bộ chỉ huy. Trên nét mặt họ chỉ thấy có sự tập trung vào công việc. Thái độ của họ cũng tựa như trong các cuộc tập trận trước kia.
“Giỏi, - tôi nghĩ. - Có những con người như thế này, chúng ta không thể thua trong chiến tranh được...”.
Đến tối, sau khi bàn bạc với tư lệnh quân đoàn về các vấn đề quan trọng, chúng tôi trở về sở chỉ huy của phương diện quân ở Téc-nô-pôn.
Tham mưu trưởng phương diện quân, trung tướng M.A. Puốc-ca-ép và tư lệnh phương diện quân, thượng tướng M.P. Kiếc-pô-nô-xơ báo cáo:
- Trên tất cả các khu vực của phương diện quân đều có giáp chiến. Trận đánh chủ yếu ác liệt nhất diễn ra ở khu Brô-đa - Đúp-nô - Vla-đi-mia Vô-lưn-xcơ. Các quân đoàn cơ giới 9 và 19 ngày 25-6 đang tiến vào các khu rừng ở Rốp-nô. Chúng tôi đã quyết định, - tư lệnh phương diện quân nói, - ngày 24-6, không cần chờ tập trung đủ các quân đoàn, sẽ bắt đầu phản kích vào Clê-van và Đúp-nô. Tư lệnh tập đoàn quân 5, để lại quân đoàn cơ giới 22 phải chỉ huy thống nhất các đơn vị còn lại là quân đoàn 9 và 19, giúp đỡ các quân đoàn đó mọi sự cần thiết.
Quyết định đó hợp lý, tôi đồng ý với tư lệnh phương diện quân, song tôi đề nghị, kiểm tra lại việc bảo đảm hợp đồng giữa các quân đoàn với không quân của phương diện quân.
Ngày 24-6, quân đoàn cơ giới 8 của Đ.I. Ri-a-bư-sép chuyển sang phản kích ở hướng vào Bê-rê-xtếch-cô. Chúng tôi đặt nhiều hy vọng vào quân đoàn này. Nó được kiện toàn tốt hơn các quân đoàn khác về kỹ thuật xe tăng mới và được huấn luyện khá.
Quân đoàn cơ giới 15 dưới sự chỉ huy của tướng I.I. Các-pê-dô tấn công ở phía đông Ra-đê-khốp. Ngay sau đó bọn Đức đã được nếm đòn của các quân đoàn này, thấm đòn nhất đối với chúng là các cú đánh có hiệu quả của quân đoàn cơ giới 8. Điều đó xảy ra đặc biệt sau khi ta đã đánh tan sư đoàn bộ binh 57 bảo vệ sườn bên phải quân đoàn mô-tô 48 thuộc tập đoàn quân của Clây-xtơ.
Ngày hôm đó quân đoàn mô-tô 48 của Đức bị lâm vào tình thế khá gay go, và bọn Hít-le đã buộc phải tung toàn bộ lực lượng không quân của chúng ra chống lại cuộc phản công của ta mới cứu chúng khỏi nguy cơ bị đánh tan Quân địch buộc phải đưa thêm quân đoàn 44 và các đơn vị khác vào đối phó với các đơn vị Quân đội Xô-viết.
Dưới đây là những điều mà Tổng tham mưu trưởng lục quân Đức, thượng tướng Gan-đe đã ghi ở nhật ký công tác trong ngày đó:
“Đối phương mỗi lúc càng đưa thêm nhiều lực lượng mới từ phía sau đến để chống lại mũi dao nhọn bằng xe tăng của ta ... Như đã dự đoán, họ dùng số lớn xe tăng chuyển sang tấn công vào sườn phía nam đạo quân xe tăng thứ nhất. Ở một số khu vực thấy có sự di chuyển”.
Như vậy là quân đội Phương diện quân Tây-nam đã thực hiện có kết quả một trong những trận phản kích đầu tiên vào quân địch. Sức mạnh của nó còn có thể lớn hơn nữa nếu như bộ tư lệnh phương diện quân có không quân mạnh để phối hợp với các quân đoàn cơ giới và có thêm lực lượng, dù chỉ 1 - 2 quân đoàn khinh binh.
Ở sở chỉ huy Phương diện quân Tây-nam, chúng tôi tập trung sự chú ý chính vào hướng Đúp-nô, nơi diễn ra những trận đánh chủ yếu ở U-crai-na.
Qua các cuộc nói chuyện bằng điện thoại với tư lệnh tập đoàn quân 6, tướng I.N. Mu-dư-chen-cô và tư lệnh tập đoàn quân 26, tướng Ph.Ya. Cốt-xten-cô, tôi được biết rằng tập đoàn quân 17 của địch đang tấn công, hướng chủ yếu đánh vào Lvốp. Tù binh Đức khai rằng, bộ chỉ huy của chúng định sẽ cho quân đoàn mô-tô 14 tham chiến để chiếm lấy Ra-va - Rút-xcai-a.
Khu chiến lũy Ra-va - Rút-xcai-a ngay từ những phút chiến tranh đầu tiên do các tiểu đoàn súng máy độc lập 35 và 140 và đội biên phòng của thiếu tá Ya.Đ. Ma-lưi bảo vệ. Ít lâu sau, sư đoàn khinh binh 41 của thiếu tướng G.N. Mi-cu-sép đã tiến về đây.
Bộ chỉ huy tập đoàn quân 17 Đức tung vào trận địa này 5 sư đoàn bộ binh. Mặc dù có hỏa lực pháo binh mạnh, có không quân bắn phá và chúng mở những cuộc tấn công ác liệt bằng bộ binh, quân địch vẫn không chiếm được khu phòng thủ Ra-va - Rút-xcai-a và không bẻ gẫy được sức chống cự của sư đoàn khinh binh 41. Chiều ngày 22-6, sư đoàn 41 vốn có hai trung đoàn pháo lại được bổ sung trung đoàn pháo 152 mm của quân đoàn 209. Hôm đó quân địch bị thiệt hại nặng mà không đạt được kết quả gì.
Khu chiến lũy Pê-rê-mư-slơ do các tiểu đoàn súng máy độc lập 52 và 150 và đội biên phòng 92 bảo vệ. Các đơn vị của khu phòng thủ chiếm lĩnh các công sự của mình vào lúc 6 giờ sáng 22-6. Cùng với các chiến sĩ biên phòng và các đội vũ trang của công nhân, viên chức, họ là những người đầu tiên chống lại hỏa lực và sự tấn công của địch.
Trong mấy tiếng đồng hồ, những người dũng cảm bảo vệ thành phố đã chặn được cuộc tiến công của quân địch có ưu thế về lực lượng. Sau đó theo lệnh của đội trưởng đội biên phòng 92, họ rút ra ngoài thành phố và ở đây họ tiếp tục chặn quân địch. Làm như thế, họ đã tạo điều kiện đưa được sư đoàn khinh binh 99 của đại tá N.I. Đê-men-chi-ép tới Pê-rê-mư-slơ. Ngày 23-6, cùng với các tiểu đoàn biên phòng, sư đoàn này đã phản kích và đánh bật bọn phát-xít ra khỏi thành phố.
Ngày 23-6, quân Đức lại tấn công, đặc biệt chúng tấn công mạnh ở hướng Ra-va - Rút-xcai-a. Một số đơn vị địch thọc được vào tuyến phòng thủ của sư đoàn 41, nhưng nhờ có sự lãnh đạo vững vàng của tướng G.N. Mi-cu-sép, quân ta đã phản kích lại và đánh bật chúng về nơi xuất phát tấn công.
Song đến cuối ngày, quân Đức đã tìm ra chỗ yếu của ta: chúng đánh mạnh vào nơi tiếp giáp giữa Ra-va - Rút-xcai-a và Pê-rê-mư-slơ do các sư đoàn khinh binh 97 và 159 bảo vệ. Sư đoàn 159 đang ở trong giai đoạn triển khai, phần đông quân số lấy từ lực lượng hậu bị chưa được huấn luyện. Không chịu được sự tấn công của địch, sư đoàn bắt đầu rút, do đó gây nên tình hình khó khăn cho các đơn vị bên cạnh. Những biện pháp đối phó của tư lệnh tập đoàn quân 6, tướng I.N. Mu-dư-chen-cô, không làm thay đổi được tình thế, và đến cuối ngày 24-6, tuyến phòng thủ ở đây bị cắt một quãng dài tới 40 km.
Các khu chiến lũy Ra-va - Rút-xcai-a và Pê-rê-mư-slơ vẫn tiếp tục đánh trả có kết quả các trận tấn công của địch. Sư đoàn 99 gây cho địch những thiệt hại lớn và không để mất một thước trận địa nào. Sư đoàn 99 đã được tặng huân chương Cờ đỏ về trận đánh dũng cảm đó.
Sư đoàn khinh binh 41 cũng hoạt động có kết quả. Sau chỉ vì một số lớn quân địch đột phá được vào trận địa sư đoàn 159 và có nguy cơ các khu phòng thủ vững chắc bị đánh vu hồi nên đêm ngày 27-6, bộ tư lệnh phương diện quân đã đưa sư đoàn 41 về tuyến hậu phương.
Còn sư đoàn khinh binh 99 vẫn giữ được Pê-rê-mư-slơ trong các ngày 23 đến ngày 28-6 và mãi sáng ngày 29-6, theo lệnh của bộ tư lệnh mới rời khỏi thành phố.
Ngày 25 – 26 tháng 6, chiến sự tiếp diễn càng mạnh. Quân địch tung vào đây nhiều đơn vị không quân chiến đấu. Trên không và trên mặt đất diễn ra những trận ác liệt. Cả hai bên đều bị thiệt hại lớn. Nhiều lần, không quân Đức không chịu được những đòn dũng mãnh của các phi công ta, phải bỏ chạy về các sân bay của chúng.
Các đơn vị đi trước của địch đã tiến vào Đúp-nô, vì vậy tướng Đ.I. Ri-a-bư-sép được lệnh đưa quân đoàn 8 về phía đó. Quân đoàn cơ giới 15 thì được lệnh đưa chủ lực theo hướng chung về phía Bê-rê-xtếch-cô và xa hơn nữa, về phía Đúp-nô. Quân đoàn khinh binh 36 và quân đoàn cơ giới 19 đã tới gần đó cũng được điều về vùng Đúp-nô. Trận đánh ác liệt ở vùng Đúp-nô đã nổ ra vào ngày 27-6.
Bọn Đức đưa ngay quân đoàn 55 của chúng đến tăng cường, nhờ vậy đã cứu được đạo quân của chúng ở Đúp-nô khỏi bị đánh tan hoàn toàn. Bị thiệt hại nặng, địch buộc phải lấy quân ở các hướng khác ném vào Đúp-nô.
Quân ta không đánh tan hoàn toàn được quân địch và không chặn được trận tấn công của chúng, nhưng đã hoàn thành điều chủ yếu: chặn được ở khu Brô-đa - Đúp-nô đạo quân xung kích địch tấn công về phía thủ đô U-crai-na và làm cho chúng bị kiệt sức.
Lúc 17 giờ ngày 24-6, tôi nói chuyện qua máy “Bô-đô” với tư lệnh tập đoàn quân 5, tướng M.I. Pô-ta-pốp.
Trước khi kể lại nội dung cuộc nói chuyện, tôi muốn nói rằng M.I. Pô-ta-pốp là một tướng giàu kinh nghiệm đã trải qua thực tế chiến đấu trong các trận trên sông Khan-khin Gôn. Đó là một tư lệnh tập đoàn quân dũng cảm và mưu lược, và không phải ngẫu nhiên bộ chỉ huy Đức biết rất rõ tập đoàn quân 5, mà chính là vì chúng đã bị tập đoàn quân này nhiều lần giáng cho những đòn thấm thía.
Tôi nêu lại vắn tắt cuộc nói chuyện của chúng tôi khá điển hình đối với những ngày đầu chiến tranh.
M.I. Pô-ta-pốp ở bên máy.
“Giu-cốp. Đồng chí báo cáo tình hình đi.
Pô-ta-pốp. Tại mặt trận Vla-đô-va - U-xti-lúc, địch có tới 5 sư đoàn bộ binh và hai nghìn xe tăng[1]. Chủ lực xe tăng địch nằm trên tuyến đu-ben-ca - Gô-rốt-lô. Từ U-xti-lúc đến Xô-can có tới 6 sư đoàn bộ binh và sư đoàn xe tăng thiết giáp 14. Hướng chủ yếu của sư đoàn xe tăng thiết giáp này là Vla-đi-mia Vô-lưn-xcơ - Lút-xcơ. Ở nơi tiếp giáp giữa các tập đoàn quân 5 và 6 có các đơn vị cơ giới, lực lượng chưa rõ. Quân địch đột kích chủ yếu vào hướng Vla-đi-mia Vô-lưn-xcơ - Lút-xcơ, đòn phối hợp - từ Bre-xtơ - Li-tốp-xcơ vào Cô-ven.
Tôi báo cáo về tình hình các đơn vị quân ta đến 14 giờ 20 phút ngày 24-6-1941: Đồng chí Phê-đi-u-nin-xki giữ mặt trận Pư-lê-mét - Cu-xni-si - Vi-snép - Ni-ki-ti-chi. Sư đoàn khinh binh 87 của đồng chí đó có hai trung đoàn giữ các khu phòng thủ ở vùng U-xti-lúc và đang chiến đấu ở vùng lân cận; sư đoàn bị thiếu đạn.
Từ chiều qua tôi không có tin về sư đoàn 124.
Sư đoàn xe tăng 41 ở vùng Ma-sê-i-úp - ga Cô-sa-rư sau trận đánh, đang chỉnh đốn về trang bị vật chất.
Từ 14 giờ, sư đoàn 135, có sư đoàn xe tăng 19 và một trung đoàn của sư đoàn khinh binh 87 phối hợp và có lữ đoàn chống tăng 1 và toàn bộ pháo binh của quân đoàn yểm hộ, đang tấn công ở hướng Vla-đi-mia – Vô-lưn-xcơ
Lút-xcơ có tuyến phòng thủ bao quanh, nhưng rất mỏng. Điều chính mà tôi lo là đòn đánh ở hướng Lút-xcơ của các đơn vị xe tăng địch từ phía nam đánh lên, nó sẽ tạo ra cho ta nguy cơ phải đánh trên hai mặt.
Tôi hoàn toàn không có lực lượng gì để đánh lại quân địch ở hướng nam ...
Đề nghị tăng cường viện trợ bằng hoạt động của máy bay ném bom và giữ không cho các đơn vị xe tăng địch tới Đu-ben-ca - Gô-rốt-lô, chặn bước tiến của các đơn vị xe tăng địch từ phía Bre-xtơ - Li-tốp-xcơ và dùng không quân cường kích và tiêm kích yểm hộ trận tiêu diệt đạo quân địch ở Vla-đi-mia Vô-lưn-xcơ.
Tôi không có lực lượng dự bị. Quân đoàn cơ giới 9, với khoảng 200 xe tăng cũ, có thể tập trung ở khu Ô-lư-ca nhanh nhất là sau 2 ngày đêm nữa.
Đường liên lạc dây nói bị phá hủy ở khắp nơi, vừa nối lại xong thì quân địch lại dùng không quân phá.
Tôi có liên lạc chắc chắn bằng ra-đi-ô với các quân đoàn cơ giới...
Đề nghị cho mệnh lệnh về hành động sắp tới.
Giu-cốp. 1. Đơn vị bạn đang chiến đầu ở vùng Pru-gia-nư - Gô-rô-đét.
Các đơn vị địch từ Bre-xtơ tiến được về Cô-ven là hậu quả của hành động không có tổ chức của đồng chí Cô-rốp-cốp.
Đồng chí phải giữ kín sườn ở phía Bre-xtơ - Li-tốp-xcơ và chặn đường vào Cô-ven.
2. Mu-dư-chen-cô đang chiến đấu có kết quả ở quá phía bắc Ca-mi-ô-ni, Xtơ-ru-mi-lốp, Ra-va - Rút-xcai-a và tiếp đó tại biên giới. Quân địch tung vào một lực lượng xe tăng mạnh, đã cắt đứt nơi tiếp giáp giữa các tập đoàn quân 5 và 6 đang mưu chiếm Brô-đư.
3. Các-pê-dô và Ri-a-bư-sép đang phản kích ở các hướng: Các-pê-dô xuyên qua Brô-đư lên phía tây-bắc, hiện nay các trận chính chắc là đang diễn ra ở phía tây-nam Brô-đư khoảng 15 km; Ri-a-bư-sép bên trái - trên hướng bắc. Những trận này sẽ hỗ trợ cho đồng chí.
Mục đích của đòn phản kích là đánh tan quân địch ở vùng Brô-đư - Crư-xtư-nô-pôn và tiếp đó tiến lên phía bắc, tạo khả năng cho đồng chí ổn định các đơn vị và tổ chức thế trận vững chắc ... các quân đoàn 19 và 9 cùng hai quân đoàn khinh binh sẽ được điều tới phía bắc và phía nam Lút-xcơ để tăng cường cho đơn vị của đồng chí.
Đối với không quân sẽ có các biện pháp.
Qua máy vô tuyến của đồng chí, không nhận được và không dịch mã được gì hết.
Cần phải cho cán bộ chuyên môn đi máy bay đến để báo cáo những trắc trở về kỹ thuật trong việc sử dụng máy vô tuyến và mật mã.
Tôi nhắc lại: phải bịt kín các đường từ phía bắc vào Cô-ven, không được phản kích bằng các sư đoàn khinh binh nếu không có xe tăng phối hợp, bởi vì như vậy sẽ không có kết quả gì. Cần phải tiếp viện trái phá và đạn dược cho sư đoàn khinh binh 87. Hãy tính xem, liệu có thể đưa sư đoàn đó ra khỏi vòng vây vào ban đêm không?
Các xe tăng KV và các xe tăng khác của đồng chí hoạt động ra sao? Có bắn thủng vỏ thép của xe tăng Đức không và địch đã mất khoảng bao nhiêu xe tăng trên mặt trận của đồng chí?
Pô-ta-pốp. Phối thuộc tôi có sư đoàn không quân 14, sư đoàn này tính đến sáng nay có 41 máy bay. Trong mệnh lệnh của phương diện quân có nói rằng các sư đoàn ném bom 62 và 18 yểm hộ chúng tôi. Các sư đoàn đó ở đâu, tôi không biết, tôi không có liên lạc với họ.
Các xe tăng lớn KV có 30 chiếc. Tất cả những xe này đều không có đạn cho pháo 152 mm.
Tôi có các xe tăng T-26 và BT, chủ yếu là các xe kiểu cũ, trong đó có cả những xe loại hai tháp.
Khoảng 100 xe tăng địch bị diệt.
Mệnh lệnh của đồng chí, tôi đã rõ. Tôi có điều lo ngại: liệu tôi có kịp khép chặt sườn bên phải của Phê-đi-u-nin-xki và bịt kín các đường từ phía bắc không. Bởi vì các xe tăng địch hiện nay đang ở vùng Rát-nô. Dù thế nào tôi cũng sẽ áp dụng ngay mọi biện pháp để thi hành mệnh lệnh.
Giu-cốp. Các pháo 152 mm của xe tăng KV bắn trái phá 09-30 g, vì vậy đồng chí ra lệnh phát ngay các đạn phá bê -tông 09-30 g và cho sử dụng những đạn đó. Phải đánh thật mạnh vào xe tăng địch.
Về các mặt khác chúng tôi đang tổ chức giúp đỡ.
Tôi hết sức hy vọng vào đồng chí và đồng chí Ni-ki-sép.
Đêm nay hoặc mai tôi sẽ tới chỗ đồng chí.
Tạm biệt”.
Để tiếp tục cuộc tấn công ở hướng Ki-ép, bộ chỉ huy Đức đã phải lấy trong lực lượng dự trữ chiến lược của chúng một số lớn quân và hàng trăm xe tăng cùng với các đội lái để bổ sung cho các đơn vị của Clây-xtơ.
Nếu như, trong các đơn vị lớn của Phương diện quân Tây-nam, công tác trinh sát bộ binh và trên không được tổ chức tốt hơn, sự hợp đồng và chỉ huy chiến đấu được hoàn bị hơn, thì kết quả phản công còn có thể lớn hơn nữa.
Trong những trận đánh này, quân đoàn cơ giới 22 dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng X.M. Côn-đru-xép, quân đoàn khinh binh 27 thuộc tập đoàn quân 5, quân đoàn cơ giới 8 của Đ.I. Ri-a-bư-sép đã chiến đấu xuất sắc.
Lẽ ra hoạt động của quân đoàn cơ giới 8 còn có thể có hiệu quả lớn hơn nữa, nếu như tư lệnh quân đoàn không chia quân đoàn thành hai cánh quân và thêm vào đó đã không giao quyền chỉ huy một trong hai cánh quân đó cho tướng N.K. Pô-pen, là người chưa được huấn luyện về chiến dịch - chiến thuật để lãnh đạo những trận đánh lớn hơn.
Quân đoàn cơ giới 15 của tướng I.I. Các-pê-dô đã hoàn thành được nhiệm vụ, song tiếc là, chưa hết mức so với khả năng lớn của mình hồi đó.
Sách báo, tài liệu lịch sử của chúng ta có phần nói lướt qua về trận chiến đấu vĩ đại này ở sát biên giới trong giai đoạn đầu chiến tranh với phát-xít Đức. Lẽ ra cần phải phân tích đầy đủ tác dụng về mặt chiến dịch của việc sử dụng ở đây, các quân đoàn cơ giới để tổ chức một trận phản kích vào đạo quân chủ lực giặc đã đột phá và cần phải nghiên cứu tỉ mỉ cả việc tổ chức cuộc phản kích đó. Bởi vì, chính nhờ có những hoạt động này của quân ta mà ngay từ đầu ở U-crai-na, kế hoạch tốc chiến của địch đánh vào Ki-ép đã bị phá vỡ. Quân địch đã chịu thiệt hại nặng và chúng đã thấy rõ tinh thần kiên cường của các chiến sĩ xô-viết sẵn sàng chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.
Ý kiến đánh giá trận chiến đấu này trong hồi ký của tướng Gớt, nguyên tư lệnh đạo quân xe tăng thứ 3 của Đức, không phải là không đáng chú ý:
“Cụm tập đoàn quân “Nam” bị thiệt hại nặng hơn tất cả. Đối phương phòng ngự chống lại các đơn vị lớn của cánh phía bắc đã bị đánh bật khỏi biên giới, nhưng sau cú đánh bất ngờ của ta, họ đã nhanh chóng hồi phục và đã dùng các cuộc phản kích của lực lượng dự bị và các đơn vị xe tăng nằm ở phía sau để chặn bước tiến của quân đội Đức. Đạo quân xe tăng thứ nhất, có thêm tập đoàn quân 6, đến ngày 28-6 vẫn không thể vượt lên được. Những cuộc phản kích mạnh của đối phương là trở ngại lớn trên đường tiến quân của các đơn vị quân Đức”.
Qua cuộc nói chuyện trong những ngày này, theo đường liên lạc riêng với tướng N.Ph. Va-tu-tin, tôi được biết rằng tại các Phương diện quân Tây và Tây-bắc, các tư lệnh và các bộ tham mưu vẫn chưa có liên lạc chặt chẽ với các tư lệnh tập đoàn quân. Các sư đoàn và quân đoàn đánh nhau với địch một cách đơn độc, không có sự phối hợp với các đơn vị bạn và không quân, không có sự lãnh đạo cần thiết của cấp trên. Qua thông báo của Ni-cô-lai Phê-đô-rô-vích Va-tu-tin, tôi thấy rõ là tại các Phương diện quân Tây và Tây-bắc tình hình hết sức khó khăn.
Ni-cô-lai Phê-đô-rô-vích nói rằng I.V. Xta-lin bực bội và có ý buộc tất cả trách nhiệm vào bộ tư lệnh và bộ tham mưu Phương diện quân Tây, chê trách sự bất lực của nguyên soái G.I. Cu-lích. Qua thông báo của nguyên soái B.M. Sa-pô-sni-cốp lúc đó ở bộ tham mưu Phương diện quân Tây thì sáng ngày 23-6, G.I. Cu-lích ở bộ tham mưu tập đoàn quân 3, nhưng liên lạc với tập đoàn quân này bị đứt.
Song, sau một thời gian ngắn, nhờ có nhiều nguồn tin khác nhau, Bộ Tổng tham mưu đã xác định được rằng, các đạo quân lớn xe tăng và cơ giới của địch đã chọc thủng nhiều trận địa của hai phương diện quân này và đang tiến nhanh vào đất Bê-lô-ru-xi và Pri-ban-tích.
Những thứ thách gian khổ của nhân dân Liên Xô đã bắt đầu.
Trong những năm gần đây có người thường phê phán Bộ Tổng tư lệnh đã không ra lệnh đưa các lực lượng chủ lực của ta từ phía trong đất nước ra để chống lại và đánh lui trận đột kích của quân địch.
Tôi không dám khẳng định nếu như điều đó được thực hiện thì tình hình sẽ như thế nào: tốt hơn hay là xấu hơn. Hoàn toàn rất có thể là trong khi chưa có đủ các phương tiện phòng ngự chống tăng và chống máy bay, sức cơ động còn kém quân địch, quân ta sẽ không thể chống lại được những đòn mạnh mẽ đánh chia cắt của các lực lượng xe tăng, thiết giáp địch, do đó quân ta có thể lâm vào tình thế nặng nề như một số tập đoàn quân các quân khu miền biên giới đã gặp. Và còn chưa biết, nếu như vậy, thì về sau tình hình ở gần Mát-xcơ-va, Lê-nin-grát và ở miền nam đất nước sẽ diễn ra sao?
Sáng sớm ngày 26-6, tướng N.Ph. Va-tu-tin báo cho tôi khi tôi ở sở chỉ huy tại Téc-nô-pôn như sau:
- Tình hình ở Pri-ban-tích và Bê-lô-ru-xi hết sức bất lợi. Tập đoàn quân 8 Phương diện quân Tây-bắc đang rút về Ri-ga, tập đoàn quân 11 đang rút ở hướng Pô-lốt-xcơ; quân đoàn cơ giới 21 của Quân khu Mát-xcơ-va được điều đi tăng cường cho phương diện quân này.
- I.V. Xta-lin ra lệnh thành lập Phương diện quân Dự bị và bố trí nó trên tuyến Xu-se-vô - Nô-ven - Vi-tép-xcơ - Mô-ghi-lép – Giơ-lô-bin - Gô-men - Chép-ni-gốp - sông Đe-xna - sông Đơ-nép. Phương diện quân Dự bị gồm các tập đoàn quân 19, 20, 21 và 22.
Về căn bản đó là tuyến mà Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô, tôi và một số cán bộ Bộ Tổng tham mưu đã tính đến vào tháng 5-1941.
Các bộ tư lệnh phương diện quân, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu trong những ngày này vẫn chưa có đầy đủ tài liệu về các đơn vị quân đội địch được tung vào đánh giá phương diện quân của ta. Về xe tăng, không quân và các đơn vị cơ giới của địch, Bộ Tổng tham mưu nhận được của các phương diện quân những số liệu quá khuếch đại. Bây giờ, khi trong tay chúng ta có hầu hết các tài liệu về quân đội của đôi bên, để thấy đầy đủ khung cảnh trong những ngày đầu chiến tranh, cần phải xem sự bố trí của quân đội Liên Xô tại các quân khu biên giới, và tiếp đó của cả quân đội Đức xâm nhập vào nước ta hồi đó .
Người ta đã viết nhiều bài báo và sách về vấn đề này, nhưng trong nhiều trường hợp nó có tính xu thời và người viết tỏ ra không hiểu biết gì cả.
Chúng ta biết rằng, 170 sư đoàn của ta sát trước chiến tranh được rải ra trên một vùng dài tới 4.500 km, từ Ba-ren-xép đến Biển Đen, và sâu trên 400 km. Song ở đây cần chú ý rằng, khoảng cách từ Ba-ren-xép đến Biển Đen là 4.500 km đó, bao gồm không những các khu vực đất liền của năm phương diện quân miền biên giới mà cả phần bờ biển chỉ được bảo vệ bằng lực lượng phòng thủ bờ biển và hải quân. Trên bờ biển từ Ta-lin đến Lê-nin-grát, nói chung, không có bộ đội. Vì vậy, 170 sư đoàn của chúng ta thực tế đóng trên 3.375 km. Dọc biên giới đất liền, các đơn vị quân đội Liên Xô tập trung thành từng cụm rất không đều nhau.
Ví dụ, ở Phương diện quân Bắc (Quân khu Lê-nin-grát) dài 1.275 km, có 21 sư đoàn và 1 lữ đoàn khinh binh, tính trung bình gần 61 km có 1 sư đoàn.
Trên khoảng đất liền thuộc các Quân khu Pri-ban-tích, miền Tây, Ki-ép và Ô-đét-xa dài 2.100 km, có 149 sư đoàn và 1 lữ đoàn. Trung bình 1 sư đoàn tại khu vực hết sức quan trọng này rải trên hơn 14 km.
Số lực lượng nói trên, sát trước chiến tranh, được phân bố như Quân khu Pri-ban-tích (tư lệnh - thượng tướng Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp, ủy viên Hội đồng quân sự - chính ủy quân đoàn P.A. Đi-brô-va, tham mưu trưởng - thiếu tướng P.X. Clê-nốp) có 25 sư đoàn và 1 lữ đoàn khinh binh, trong số đó có 4 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn mô-tô cơ giới.
Quân khu đặc biệt miền Tây (tư lệnh - đại tướng Đ.G. Páp-lốp, ủy viên Hội đồng quân sự - chính ủy quân đoàn A.Ph.I. Phô-mi-nức, tham mưu trưởng - thiếu tướng V.E. Cli-mốp-xkích) có 24 sư đoàn khinh binh, 12 sư đoàn xe tăng, 6 sư đoàn mô-tô hóa, 2 sư đoàn kỵ binh.
Quân khu đặc biệt Ki-ép (tư lệnh - thượng tướng M.P. Kiếc-pô-nô-xơ, ủy viên Hội dông quân sự - chính ủy lữ đoàn E.P. Rư-cốp; tham mưu trưởng - trung tướng M.A. Puốc-ca-ép) có 32 sư đoàn khinh binh, 16 sư đoàn xe tăng, 8 sư đoàn mô-tô cơ giới, 2 sư đoàn kỵ binh.
Quân khu Ô-đét-xa (tư lệnh - trung tướng Ya.T. Chê-rê-vi-chen-cô, ủy viên Hội đồng quân sự - chính ủy quân đoàn A.Ph. Cô-lô-bi-a-cốp; tham mưu trưởng - thiếu tướng M.V. Da-kha-rốp) có 13 sư đoàn khinh binh, 2 sư đoàn mô-tô cơ giới và 3 sư đoàn kỵ binh.
Như chúng ta thấy, bộ phận lực lượng mạnh nhất của quân ta đóng ở hướng tây-nam (Quân khu Ki-ép và Quân khu Ô-đét-xa). Nó gồm có 45 sư đoàn khinh binh, 20 sư đoàn xe tăng, 10 sư đoàn mô-tô hóa, 5 sư đoàn kỵ binh.
Trong số 149 sư đoàn và 1 lữ đoàn của 4 quân khu sát biên giới, có 48 sư đoàn thê đội 1 của các tập đoàn quân bảo vệ biên giới được bố trí cách biên giới quốc gia 10 - 50 km (các sư đoàn khinh binh ở gần hơn, các sư đoàn xe tăng ở xa hơn). Chủ lực các quân khu miền biên giới đóng cách biên giới quốc gia 80 - 300 km.
Sườn các quân khu sát biển do hải quân và lực lượng phòng thủ bờ biển (chủ yếu gồm pháo binh) bảo vệ .
Các đơn vị biên phòng thuộc Bộ Ủy viên nhân dân nội vụ đóng ngay trên biên giới.
Trên kia, tôi đã nói tới một số nhân tố là nguyên nhân của những thất bại trong thời gian đầu chiến tranh. Những sự việc khác thuộc loại đó sẽ được đề cập tới sau, nhưng bây giờ tôi muốn nói rằng, những sai lầm của cơ quan lãnh đạo không thể làm nhẹ trách nhiệm của người chỉ huy quân sự các cấp đối với những sơ suất và tính toán sai của mình.
Mỗi một cán bộ chỉ huy quân đội, khi có những hành động không đúng thì về mặt tinh thần, không có quyền trốn trách nhiệm mà đổ cho cấp trên. Theo điều lệnh, các đơn vị và các cán bộ chỉ huy đơn vị, trong bất kỳ tình huống nào, cũng phải luôn luôn sẵn sàng làm nhiệm vụ chiến đấu. Song, sát trước chiến tranh, thậm chí vào đêm 21 rạng 22 tháng 6, trong một số trường hợp, các cán bộ chỉ huy các binh đoàn và binh đoàn lớn thuộc tuyến bảo vệ biên giới, đến giờ phút cuối cùng vẫn chờ đợi lệnh của trên mà không chuyển đơn vị vào tư thế sẵn sàng chiến đấu ở mức cần thiết, mặc dù ở phía bên kia biên giới, đã nghe thấy tiếng ầm ì của các động cơ và tiếng rít của các bánh xích sắt.
Bộ tổng chỉ huy quân Đức, ngay tức khắc đã huy động 153 sư đoàn, trong số đó 29 sư đoàn đánh vào Quân khu Pri-ban-tích, 50 sư đoàn (có 15 sư đoàn xe tăng) đánh vào Quân khu đặc biệt miền Tây, 34 sư đoàn (có 9 sư đoàn xe tăng và mô-tô cơ giới) đánh vào Quân khu đặc biệt Ki-ép, 12 sư đoàn đánh vào Quân khu Ô-đét-xa và có tới 3 sư đoàn đóng ở Phần Lan. Chúng đã lập đội dự bị gồm 24 sư đoàn và đã điều nó đến các hướng chiến lược cơ bản.
Những số liệu này, chúng ta biết được trong quá trình giai đoạn đầu chiến tranh, chủ yếu là qua việc hỏi cung các tù binh và qua các tài liệu bắt được. Sát chiến tranh, I.V. Xta-lin, Ủy viên nhân dân quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu, căn cứ vào những tin tức của cơ quan tình báo, đã cho rằng bộ chỉ huy Hít-le phải giữ lại ở phương Tây, Cận đông và ở các nước khác mà chúng chiếm đóng, không dưới 50% quân số và lực lượng không quân của chung. Trên thực tế, tới lúc bắt đầu chiến tranh với Liên Xô, bộ chỉ huy Hít-le đã để lại ở các nơi ấy dưới 1/3 quân số, thêm nữa, chỉ là những sư đoàn thứ yếu, và chẳng bao lâu lại rút bớt số đó đi.
Quân địch đã dùng 3.712 xe tăng và các pháo tiến công để trang bị cho các cụm tập đoàn quân “Bắc”, “Trung tâm” và “Nam”. Quân bộ có 4.950 máy bay yểm hộ. Các đơn vị địch xâm nhập vào lãnh thổ ta đã có ưu thế về pháo binh hơn ta gần 2 lần, sức kéo của pháo binh của chúng về cơ bản được cơ giới hóa.
Nhiều lần nghĩ lại những ngày đầu chiến tranh, tôi có suy xét và phân tích những sai lầm về chiến lược và chiến dịch của các đồng chí lãnh đạo quân sự (Ủy viên nhân dân quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu và các Bộ tư lệnh các quân khu) trong thời kỳ sát trước và thời kỳ đầu chiến tranh. Tôi đi tới những kết luận sau đây:
Chúng tôi không dự kiến trước được việc địch chuyển bất ngờ sang tấn công trên những quy mô như thế, hơn nữa, không thấy trước chúng có thể sử dụng ngay tức khắc tất cả các lực lượng sẵn có và được bố trí trước tại các hướng chiến lược quan trọng nhất, nghĩa là chưa thấy hết tinh chất của ngay đòn đột kích với toàn bộ tầm lượng của nó. Cả Ủy viên nhân dân quốc phòng, tôi, cả các đồng chí giữ chức vụ của tôi trước kia - B.M. Sa-pô-sni-cốp, K.A. Mê-rét-xcốp - và cơ quan lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu đã không tinh rằng quân địch sẽ tập trung một số lớn đến thế các đạo quân xe tăng thiết giáp và mô-tô cơ giới và sẽ dùng lực lượng đó ngay trong ngày đầu tiên, hình thành những quả đấm rắn chắc và mạnh mẽ trên tất cả các hướng chiến lược để đánh những đòn chia cắt mãnh liệt.
Sát trước chiến tranh, tập đoàn quân 10 và nhiều đơn vị khác của Quân khu miền Tây đã đóng ở Bê-lô-xtốc là vùng đất đột xuất nhô ra về phía địch. Đây là một trận địa bố trí bất lợi nhất. Hình thái bố trí tác chiến như thế gây ra nguy cơ bị đánh vòng đằng sau và bị bao vây bằng các mũi đánh vào sườn từ phía Grốt-nô và Bre-xtơ. Thêm nữa, sự bố trí quân của phương diện quân ở các hướng Grốt-nô, Xu-van-cốp và Bre-xtơ không đủ sâu và đủ mạnh để chặn, không cho quân địch đột phá và hợp vây được cánh quân ta ở vùng đất nhô đó.
Sự bố trí quân sai lầm đó có từ năm 1940, cho đến trước chiến tranh đã không được khắc phục. Khi quân chủ lực địch áp đảo các sườn của bộ đội bảo vệ biên giới của ta và đột phá vào vùng Grốt-nô và Bre-xtơ, lẽ ra ta phải cấp tốc đưa tập đoàn quân 10 và các cánh quân của các tập đoàn quân 3 và 4 tiếp giáp với nó thoát khỏi nguy cơ bị bao vây, chuyển nó về tuyến hậu phương - tới những nơi đang bị uy hiếp. Các đơn vị đó có thể tăng cường một cách đáng kể cho sức đề kháng của các đơn vị đang bị uy hiếp. Nhưng việc này đã không được thực hiện.
Các tập đoàn quân thuộc Phương diện quân Tây-nam cũng mắc sai lầm tương tự, cũng chậm rút ra, khi có nguy cơ bị bao vây.
Tất cả những điều đó xảy ra là do khi ấy chúng ta chưa có đủ kinh nghiệm lãnh đạo quân đội trong tình hình phức tạp của những trận đánh lớn, ác liệt diễn ra trên một vùng rộng.
Cần phải nói tới một sai lầm nữa của Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu mà tôi đã nói qua ở trên. Đó là chủ trương phản công theo chỉ thị số 3 ngày 22-6-1941. Khi đề ra nhiệm vụ phản công, Bộ Tổng tư lệnh không biết tình hình thực tế diễn ra đến cuối ngày 22-6. Các bộ tư lệnh phương diện quân cũng không biết được tình hình. Trong quyết định của mình, Bộ Tổng tư lệnh không xuất phát từ sự phân tích tình hình thực tế và những tính toán có căn cứ, mà xuất phát từ cảm tính và ý muốn tích cực hành động, không tính đến khả năng của quân đội, đó là điều không được làm ở bất kỳ trường hợp nào trong những giờ phút quan trọng của cuộc đấu tranh vũ trang.
Trong tình hình đã diễn ra cho đến cuối ngày 22-6, việc duy nhất đúng chỉ có thể là tổ chức các cuộc phản kích của các quân đoàn cơ giới, đánh vào các mũi tiến công của các đạo quân xe tăng cơ giới địch. Các cuộc phản kích đã được tiến hành thì trong nhiều trường hợp không được tổ chức chu đáo, và vì thế không đạt được mục đích.
Còn một vấn đề khác cũng có ảnh hưởng không thuận lợi tới quá trình các trận đánh trong những ngày đầu. Một số tư lệnh các tập đoàn quân lẽ ra phải từ các sở chỉ huy của mình mà tổ chức việc chỉ huy cho vững và giữ chặt liên lạc với các tập đoàn quân bạn và bộ tham mưu phương diện quân, thì lại bổ xuống các đơn vị và ra những chỉ thị trong khi không biết tình hình ở các trận địa khác thuộc tập đoàn quân. Do đó, các cán bộ chỉ huy các đơn vị và các binh đoàn bị lâm vào tình huống khó khăn. Không có liên lạc vững với cấp trên, họ buộc phải hành động theo suy xét của mình, theo sự cần thiết của mình và thường rất dễ có hại cho các đơn vị bạn.
Ví dụ: việc rút lui vô tổ chức của tập đoàn quân 3 ra khỏi vùng Grốt-nô và của tập đoàn quân 4 ra khỏi vùng Bre-xtơ đã làm cho tình thế của tập đoàn quân 10 do thiếu tướng K.Đ. Gô-lu-bép chỉ huy trở nên hết sức gay go. Lúc đó tập đoàn quân 10, không bị địch uy hiếp mạnh, vẫn đang dựa vào khu phòng thủ Ô-xô-vét mà chiến đấu.
Phó tư lệnh Phương diện quân miền Tây, trung tướng I.V. Bôn-đin đã tới Ô-xô-vét. Trung tướng trực tiếp nắm một đoàn quân kỵ binh cơ giới gồm các quân đoàn cơ giới 6 và 11 và các đơn vị thuộc quân đoàn kỵ binh 6. Ngày 23-6, từ mỏm đất nhô ra ở Xu-van-cốp, I.V. Bôn-đin tổ chức cuộc phản kích vào sườn bọn địch đã lọt vào trận địa ta. Cuộc phản kích không thành công. Nguyên nhân là vì không tập trung được tất cả các binh đoàn để tiến hành cuộc phản kích, đã sử dụng lực lượng phân tán và quyền chủ động bị quân địch khống chế.
Trong trận này chỉ có quân đoàn cơ giới 11 dưới sự chỉ huy của thiếu tướng Đ.K. Mô-xtô-ven-cô là hoạt động được thực sự tích cực. Quân đoàn cơ giới 6, dưới sự chỉ huy của thiếu tướng M.G. Khát-xki-lê-vích thì đang phòng ngự trong đội hình tập đoàn quân 10 trên sông Na-rép, cho nên không được tập trung kịp thời để phân kích. Khi rút được quân đoàn này ra khỏi trận chiến đấu và tập hợp nó được thì đã mất thời gian rồi. Các đơn vị của quân đoàn kỵ binh 6, dưới sự chỉ huy của thiếu tướng I.X. Ni-ki-tin, thì bị không quân địch liên tục tập kích do đó hành quân chậm.
Trong suốt ngày 24-6, một trận chiến đấu ác liệt đã diễn ra ở vùng Grốt-nô.
Mặc dù có ưu thế trên không, quân địch tại vùng Grốt-nô vẫn gặp khó khăn. Bộ tư lệnh cụm tập đoàn quân “Trung tâm” buộc phải đưa tới đây thêm hai quân đoàn nữa và phải điều trở lại một số đơn vị thuộc đạo quân xe tăng 3.
Ngày 25, những trận đánh đẫm máu vẫn tiếp diễn nhưng vì thiếu sự cung cấp cần thiết về phương tiện vật chất, kỹ thuật nên các đơn vị quân ta phản kích không thắng lợi. Trong quá trình chiến đấu, quân ta bị thiệt hại nặng và bắt đầu rút lui. Các chiến sĩ xe tăng không rút được toàn bộ xe ra ngoài vì lúc đó đã hết nhiên liệu.
Tư lệnh quân đoàn M.G. Khát-xki-lê-vích cũng không trở về sau trận đó. M.G. Khát-xki-lê-vích là một cán bộ chỉ huy tốt, một con người dung cảm. Tôi và đồng chí đó thân với nhau từ nhiều năm, ngay từ hồi công tác trong cơ quan thanh tra kỵ binh đầu những năm 30. Tướng I.X. Ni-ki-tin cũng không trở về. I.X. Ni-ki-tin xứng đáng là một cán bộ chỉ huy sáng suốt, có nghị lực và dũng cảm của quân đoàn kỵ binh.
Hướng đột kích của đạo quân mạnh nhất của các lực lượng bộ binh và không quân Đức trên hướng chiến lược phía tây đất nước ta là nhằm vào Mát-xcơ-va. Để đánh vào Phương diện quân miền Tây, quân địch sử dụng cụm tập đoàn quân “Trung tâm”, trong đó có hai tập đoàn quân bộ đội hợp thành (các tập đoàn quân 4 và 9) và hai đạo quân xe tăng (2 và 3). Phối hợp với cụm tập đoàn quân “Trung tâm” có tập đoàn không quân 2, trong thành phần của nó có cả một quân đoàn máy bay ném bom bổ nhào. Quân của cụm tập đoàn quân “Trung tâm” được trang bị đầy đủ bằng pháo binh của bộ tổng chỉ huy địch, bằng các đơn vị công binh mô-tô cơ giới và binh khí kỹ thuật hỗ trợ mạnh.
Ở đây trên tất cả các hướng đột kích chủ yếu của chúng, quân Đức đã tạo nên một ưu thế gấp 5-6 lần. Mọi hoạt động của quân chủ lực địch đều được các trận tập kích bằng không quân yểm hộ.
Tình hình ở vùng Bre-xtơ cũng khá gay go. Tuy vậy quân địch không bẻ gãy được sức đề kháng của các chiến sĩ bảo vệ pháo đài Bre-xtơ. Các chiến sĩ anh hùng bị bao vây đã đánh trả lại địch một cách đích đáng. Bản anh hùng ca Bre-xtơ là điều hoàn toàn bất ngờ đối với bọn Đức. Các đơn vị xe tăng thiết giáp thuộc đạo quân của Gu-đê-ri-an và tập đoàn quân dã chiến 4 Đức đã bắt buộc phải đi vòng qua thành phố.
Tập đoàn quân 4 của ta (tư lệnh - thiếu tướng A.A. Cô-rốp-cốp) cũng bị đánh mạnh không kém tập đoàn quân 3 (tư lệnh - trung tướng V.I. Cu-dơ-nét-xốp) ở vùng Grốt-nô. Nhưng, có thành Bre-xtơ anh hùng và các đơn vị thuộc sư đoàn xe tăng 32, các sư đoàn khinh binh 6, 42, 49 và 75 đóng cách không xa, bộ tư lệnh tập đoàn quân 4 có thể tổ chức những trận phòng ngự tốt hơn nữa. Đáng tiếc là bộ tư lệnh tập đoàn quân 4 đã không làm được điều đó, ngay cả khi đã nhận quân đoàn cơ giới 14 chuyển thuộc mình.
Tình hình trong những ngày này ở phía xa các ngả đường vào Min-xcơ như thế nào?
Vì không biết chính xác tình hình chiến sự ở các tập đoàn quân 3, 10 và 4, không hình dung được đầy đủ về các đạo quân xe tăng thiết giáp của địch đã vượt biên giới vào như thế nào, đại tướng Đ.G. Páp-lốp, tư lệnh phương diện quân, thường có những quyết định không phù hợp với tình hình.
Bị thiệt hại lớn trong trận đánh vùng biên giới, các đơn vị của tập đoàn quân 3, 10 và 4 vừa dũng cảm đánh lùi quân địch dồn tới, vừa rút về phía đông. Bốn sư đoàn thuộc tập đoàn quân 13 cũng chiến đấu anh dũng để kìm cuộc tiến công của địch: ngày 26 và 27 tháng 6, các sư đoàn này chiến đấu ở khu phòng thủ Min-xcơ.
Theo chỉ thị của Bộ Tổng tư lệnh, tướng Đ.G. Páp-lốp ra lệnh cho các tập đoàn quân 3 và 10 rút về phía đông và chiếm lĩnh trận địa phòng ngự tại tuyến Li-đa - Xlô-nim - Pin-xcơ. Nhưng điều đó không sao thực hiện được, bởi vì các tập đoàn quân này đã gần như bị bao vây kiệt sức và rút ra ngoài một cách khó khăn dưới những đòn đánh liên tiếp của không quân và các đơn vị xe tăng thiết giáp Đức.
Ngày 26-6, quân đoàn mô-tô cơ giới 39 của địch đến gần vùng phòng thủ Min-xcơ, ở đây chúng đụng độ với các đơn vị đang đi tới thuộc quân đoàn khinh binh, do tướng V.Đ. Yút-kê-vích chỉ huy.
Để tăng cường phòng thủ Min-xcơ trên hướng từ Mô-lô-đếch-nô vào cửa ngõ tây-bắc thành phố, quân đoàn khinh binh 2 dưới sự chỉ huy của thiếu tướng A.N. éc-ma-cốp đã được cấp tốc điều tới. Quân đoàn gồm các sư đoàn khinh binh 100 và 161.
Thiếu tướng I.N. Ru-xi-a-nốp chỉ huy sư đoàn 100, một sư đoàn đã được tặng Huân chương Lê-nin. Trước kia khi tôi là sư đoàn trưởng sư đoàn kỵ binh 4 ở thành phố Xlút-xcơ, đồng chí đã là một trung đoàn trưởng xuất sắc của trung đoàn khinh binh thuộc sư đoàn khinh binh 4 mang tên Giai cấp vô sản Đức. Trong tất cả các lần huấn luyện và tập trận, trung đoàn của I.N. Ru-xi-a-nốp đã là mẫu mực về chiến thuật, kỷ luật và trật tự. Bây giờ các binh đoàn đó đang anh dũng chiến đấu trên các ngả đường đi vào Min-xcơ, đánh lại các đơn vị của đạo quân xe tăng 3 của địch, gây cho chúng những thiệt hại nặng.
Song, khi quân đoàn cơ giới 47 thuộc đạo quân xe tăng của Gu-đê-ri-an tiến đến các ngả đường tây-nam vào Min-xcơ, thì tình hình các đơn vị đang phòng ngự trở nên rất gay go.
Quân địch ném bom ác liệt Min-xcơ. Thành phố bị ngọn lửa bao phủ. Hàng nghìn thường dân bị chết. Những người không có tội lỗi gì hết, trước khi chết đều nguyền rủa bọn giặc lái máy bay phát-xít dã man...
Tại các ngả đường vào Min-xcơ đã diễn ra một cuộc chiến đấu khốc liệt. Các đơn vị thuộc các sư đoàn khinh binh 64, 100 và 161 đã chiến đấu đặc biệt xuất sắc. Họ tiêu diệt hơn trăm xe tăng địch và hàng nghìn tên phát-xít.
Ngày 26-6, I.V. Xta-lin gọi dây nói cho tôi tại sở chỉ huy Phương diện quân Tây-nam ở Téc-nô-pôn và nói:
- Tình hình tại Phương diện quân miền Tây trở nên khó khăn. Quân địch tới gần Min-xcơ. Không hiểu Páp-lốp thế nào. Không rõ nguyên soái Cu-lích ở đâu. Nguyên soái Sa-pô-sni-cốp bị ốm. Đồng chí có thể đáp máy bay ngay về Mát-xcơ-va không?
- Tôi sẽ nói chuyện ngay bây giờ với các đồng chí Kiếc-pô-nô-xơ và Puốc-ca-ép về những công việc sẽ tiếp tục, - tôi nói, - và sẽ ra sân bay.
Tối khuya ngày 26-6, tôi đi máy bay về tới Mát-xcơ-va và từ sân bay đi thẳng đến chỗ I.V. Xta-lin. Trong phòng làm việc của I.V. Xta-lin, Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô và người phó thứ nhất của tôi, trung tướng N.Ph. Va-tu-tin đang đứng nghiêm, thẳng người. Cả hai xanh gầy hẳn đi, mắt đỏ lên vì không ngủ. I.V. Xta-lin trông cũng không khá gì hơn.
Gật đầu chào tôi, I.V. Xta-lin nói:
- Các đồng chí cùng nhau suy nghĩ và nói cho biết có thể làm gì trong tình hình hiện nay? - Sau đó I.V. Xta-lin buông tấm bản đồ Phương diện quân miền Tây xuống bàn.
- Chúng tôi cần chừng 40 phút để bàn bạc - Tôi nói.
- Được 40 phút nữa, các đồng chí báo cáo.
Chúng tôi sang phòng bên để thảo luận về tình hình chiến sự và những khả năng của ta tại Phương diện quân miền Tây.
Tình hình ở đó quả thực vô cùng nặng nề. Ở phía tây Min-xcơ, số quân còn lại của các tập đoàn quân 3 và 10 đã kìm được một số lực lượng đáng kể của địch, nhưng bị bao vây và chiến đấu với lực lượng quá chênh lệch. Một số đơn vị của tập đoàn quân 4 rút vào rừng Pri-pi-át-ki. Sau khi bị thiệt hại nghiêm trọng trong các trận đánh, các binh đoàn đã bị xé lẻ ra để rút từ tuyến Đốc-si-na - Xmô-lê-vích - Xlút-xcơ - Pin-xcơ về sông Bê-rê-di-na. Các đạo quân mạnh của địch đang rượt theo họ.
Sau khi thảo luận tình hình, chúng tôi không có thể có đề nghị gì khác hơn là, đề nghị cấp tốc trụ lại phòng ngự ở tuyến Bắc Đơ-vi-na - Pô-lốt-xcơ - Vi-tép-xcơ - Oóc-sa - Mô-ghi-lép - Mô-dư-rơ và giao cho các tập đoàn quân 13, 19, 20, 21, 22 làm việc đó. Ngoài ra cần phải nhanh chóng chuẩn bị phòng ngự ở tuyến hậu phương theo đường hồ Xê-ìi-gia-rô-vơ - Xmô-len-xcơ - Rốt-xláp - Gô-men bằng các lực lượng của các tập đoàn quân 24 và 28 thuộc quân dự bị của Bộ Tổng tư lệnh. Ngoài ra chúng tôi đề nghị cấp tốc tổ chức thêm 2-3 tập đoàn quân nữa lấy trong số các sư đoàn dân quân Mát-xcơ-va.
Tất cả những đề nghị này được I.V. Xta-lin chuẩn y và ngay tức khắc được biến thành các mệnh lệnh.
Trong những đề nghị của mình, chúng tôi xuất phát từ nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng phòng ngự có chiều sâu gồm nhiều tuyến trên các đường vào Mát-xcơ-va, đánh cho quân địch kiệt sức đi và, sau khi chặn được chúng tại một trong số những phòng tuyến phòng thủ, sẽ tập trung các lực lượng cần thiết bằng số quân lấy của Viễn Đông và các đơn vị mới để tổ chức phản công. Nơi nào quân địch sẽ bị chặn lại, lấy chỗ nào làm điểm xuất phát có lợi để phản công, những lực lượng như thế nào sẽ được tập trung để làm nhiệm vụ đó - khi này chúng tôi còn chưa biết. Hiện tại những điều đó mới chỉ là ý đồ.
Ngày 27-6, vào 10 giờ 05 phút, qua máy “Bô-đô” tôi truyền đạt mệnh lệnh của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh cho tham mưu trưởng phương diện quân, tướng V.E. Cli-mốp-xkích, nội dung như sau:
“Giu-cốp. Mệnh lệnh của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh. Nhiệm vụ của các đồng chí:
1. Cấp tốc tìm ra tất cả các đơn vị, liên lạc với các cấp chỉ huy và nói rõ cho họ biết tình hình - tình hình địch và tình hình các đơn vị của mình - nói thật cặn kẽ về những nơi mà các đơn vị cơ giới đi đầu của địch đã kéo tới. Báo cho các đơn vị của ta biết nơi có các kho nhiên liệu, đạn dược và lương thực để các đơn vị nhận lấy mọi thứ cần thiết cho chiến đấu.
Đề ra cho các đơn vị nhiệm vụ, hoặc chiến đấu hoặc tập trung lại tại các khu rừng. Khi giao nhiệm vụ tập trung phải chỉ rõ đi theo con đường nào và sát nhập vào đơn vị nào.
2. Tính xem các đơn vị nào cần phải dùng máy bay để đưa nhiên liệu và đạn dược tới, không để mất những kỹ thuật quý, đặc biệt là các xe tăng hạng nặng và pháo binh hạng nặng.
3. Đưa số quân còn lại ra theo ba hướng:
- qua Đốc-si-na và Pô-lốt-xcơ rồi tập hợp lại sau các khu phòng thủ Lê-pen-xcơ và Pô-lốt-xcơ;
- hướng Min-xcơ, tập hợp các đơn vị sau khu phòng thủ Min-xcơ;
- hướng thứ ba: rừng Glu-xki và Bô-brui-xcơ.
4. Chú ý rằng, các đơn vị cơ giới thê đội 1 của địch hiện nay đã vượt rất xa bộ binh, đó là chỗ yếu, cả đối với đạo quân địch đã vượt lên cũng như đối với đơn vị bộ binh của chúng đang tiến không có xe tăng đi cùng. Nếu các cán bộ chỉ huy dưới quyền các đồng chí nắm được đơn vị, đặc biệt là các đơn vị xe tăng, thì có thể đánh đòn tiêu diệt để đập tan cả thê đội 1 địch lẫn các đơn vị bộ binh chúng đang tiến không có xe tăng đi cùng. Nếu làm được, thì thoạt đầu hãy tổ chức đánh mạnh vào hậu phương thê đội 1 địch đang tiến về Min-xcơ và Bô-brui-xcơ, sau đó có thể quay lại đánh thẳng vào bộ binh chúng.
Hành động được dũng cảm như vậy sẽ làm vẻ vang cho Phương diện quân miền Tây. Sẽ đạt được kết quả đặc biệt to lớn, nếu các đồng chí tổ chức được trận tấn công ban đêm vào các đơn vị cơ giới địch.
5. Đưa kỵ binh vào rừng Min-xcơ và dựa vào Min-xcơ, Lu-ni-nốt, mở những trận tấn công thật mãnh liệt và lớn vào hậu phương và chính diện các đơn vị địch. Rải các nhóm nhỏ kỵ binh dưới sự chỉ huy của các cán bộ tận tụy và can đảm ra hoạt động trên tất cả các ngả đường.”
Lúc 2 giờ đêm ngày 28-6, tôi lại nói chuyện thêm theo đường liên lạc thẳng với V.E. Cli-mốp-xkích. Tôi trích nội dung cuộc nói chuyện đó:
“Giu-cốp. Đồng chí báo cáo cho biết về tình hình các tập đoàn quân 3, 10 và 4. Min-xcơ ở trong tay ai, quân địch ở đâu?
Cli-mốp-xkích. Min-xcơ vẫn thuộc ta. Chúng tôi nhận được tin quân địch đổ bộ xuống vùng Min-xcơ và Xmô-lê-vi-chi. Bọn địch đổ bộ ở vùng Min-xcơ đã bị quân đoàn khinh binh 44 tiêu diệt.
Gần suốt ngày, máy bay địch ném bom đường Bô-ri-xốp - Oóc-sa. Các ga và các quãng đường sắt có bị hư hại. Không có liên lạc ra-đi-ô với tập đoàn quân 3.
Theo những báo cáo cuối cùng, quân địch đang ở trước khu phòng thủ .
Ba-ra-nô-vi-chi, Bô-brui-xcơ, Pu-khô-vi-chi cho đến ngày hôm qua, thuộc quân ta.
Giu-cốp. Về các đồng chí Cu-lích, Bôn-đin, Cô-rốp-cốp ở đâu? Quân đoàn cơ giới, quân đoàn kỵ binh ở đâu?
Cli-mốp-xkích. Về các đồng chí Cu-lích và Bôn-đin không có tin tức gì. Chúng tôi đã liên lạc với đồng chí Cô-rốp-cốp, đồng chí đó ở sở chỉ huy tại phía đông Bô-brui-xcơ. Binh đoàn của Khát-xki-lê-vích tiến về Ba-ra-nô-vi-chi, binh đoàn của A-khơ-lút-tin tiến về Xtôn-bxư.
Giu-cốp. Các binh đoàn của Khát-xki-lê-vích và A-khơ-lút-tin tiến về các nơi đó khi nào?
Cli-mốp-xkích. Các binh đoàn đó bắt đầu tập trung ở đó cuối ngày 26. Hôm qua lúc gần 19 giờ, trợ lý của tư lệnh quân đoàn, đồng chí Xvét-li-sin, đã tới các binh đoàn đó. Ngày mai chúng tôi sẽ phái các chiến sĩ nhảy dù đi truyền đạt mệnh lệnh cho các đồng chí Cu-dơ-nét-xốp và Gô-lu-bép.
Giu-cốp. Quân đoàn khinh binh 21 vượt ra vùng Mô-tô-đếch-nô - Vi-lây-ca có thuận lợi hay không? Đồng chí có biết không?
Cli-mốp-xkích. Về quân đoàn khinh binh 21, chúng tôi được tin nó định rút về hướng Mô-lô-đếch-nô, nhưng tin này chưa được xác định.
Giu-cốp. Pháo binh nặng ở đâu?
Cli-mốp-xkích. Phần lớn pháo binh nặng ở trong tay chúng tôi Chúng tôi không nắm được các trung đoàn lựu pháo 375 và 120.
Giu-cốp. Ky binh, các quân đoàn cơ giới 13, 14 và 17 ở đâu?
Cli-mốp-xkích. Quân đoàn cơ giới 13 ở Xtôn-bxư. Quân đoàn cơ giới 14 còn lại một số xe tăng, số này đã nhập vào quân đoàn 17 đang ở Ba-ra-nô-vi-chi. Không có tin về nơi ở của kỵ binh.
Đồng chí Cô-rốp-cốp đã đưa số quân còn lại của các sư đoàn 42, 6, 75 ra. Có cơ sở để cho rằng sư đoàn khinh binh 49 ở trong rừng Be-lô-ve-giơ. Chúng tôi đã phái cán bộ đặc biệt nhảy dù đi thẩm tra việc này và đưa sư đoàn ra trước khi trời sáng. Chúng tôi cho rằng đồng chí Cu-dơ-nét-xốp rút ra theo dọc hai bên bờ Nê-man.
Giu-cốp. Hôm nay trận đánh với quân đoàn cơ giới địch trước khu phòng thủ Min-xcơ ra sao và bọn địch hôm qua ở Xlút-xcơ và trước khu phòng thủ Min-xcơ hiện nay ở đâu?
Cli-mốp-xkích. Sư đoàn khinh binh 64 đánh nhau với quân đoàn cơ giới địch ở khu phòng thủ Min-xcơ. Quân địch từ Xlút-xcơ đang tiến đến Bô-brui-xcơ nhưng đến chiều Bô-brui-xcơ chưa bị chiếm.
Giu-cốp. Thế nào là “chưa bị chiếm”?
Cli-mốp-xkích. Chúng tôi dự đoán là quân địch định thọc vào Bô-brui-xcơ. Việc đó không xảy ra.
Giu-cốp. Cẩn thận, quân địch có thể từ phía bắc đi vòng qua khu phòng thủ Min-xcơ của các đồng chí. Phải bịt kín hướng Lô-gôi-xcơ - Dem-bin - Plê-sê-nít-sa, nếu không, quân địch vòng qua khu phòng thủ sẽ tới Bô-ri-xốp trước các đồng chí. Tôi nói xong. Tạm biệt”.
Mặc dù các chiến sĩ và các cán bộ chỉ huy đã chiến đấu với tinh thần của chủ nghĩa anh hùng tập thể, mặc dù các tướng lĩnh anh dũng xử trí, tình hình ở tất cả các trận địa của Phương diện quân miền Tây vẫn tiếp tục xấu đi. Tối ngày 28-6, quân ta rút khỏi Min-xcơ.
Thọc được vào Min-xcơ, quân địch bắt đầu tiêu diệt một cách dã man nhân dân thành phố, đất và phá các quý vật văn hóa và di tích lịch sử.
Đại bản doanh và Bộ Tổng tham mưu đau đớn nhận tin quân ta phải bỏ thủ đô Bê-lô-ru-xi. Tất cả chúng tôi đều hiểu rằng những người dân trong thành phố không kịp đi về phía đông, bị lâm vào tình thế nặng nề như thế nào.
Ngày 29-6, I.V. Xta-lin hai lần tới Bộ ủy viên nhân dân quốc phòng, tới Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh và cả hai lần I.V. Xta-lin đều vô cùng bực bội trước tình hình diễn ra ở hướng chiến lược phía tây
Lúc 6 giờ 45 phút ngày 30-6, theo lệnh của Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô, tôi nói chuyện theo máy “Bô-đô” với tư lệnh phương diện quân, đại tướng Đ.G. Páp-lốp. Qua cuộc nói chuyện thì thấy ngay tư lệnh phương diện quân cũng không biết rõ tình hình.
Dưới đây trích dẫn cuộc nói chuyện:
“Giu-cốp. Chúng tôi không thể có quyết định gì được trong khi không biết tình hình ở các vùng Min-xcơ, Bô-brui-xcơ, Xlút-xcơ đã diễn ra như thế nào. Yêu cầu đồng chí cho biết thực chất của tình hình ra sao.
Páp-lốp. Ở vùng Min-xcơ quân đoàn khinh binh 44 đang rút về phía nam đường Mô-ghi-lép; tuyến phòng ngự cần phải trụ lại được quy định là Xta-khốp - Chéc-ven.
Ở vùng Xlút-xcơ ngày hôm qua, theo sự quan sát của không quân, sư đoàn bộ binh cơ giới 210 chiến đấu ở vùng Si-sết-sư.
Ở vùng Bô-brui-xcơ hôm nay vào lúc 4 giờ, quân địch đã bắc cầu và bắt đầu cho 12 xe tăng vượt qua.
Giu-cốp. Quân Đức truyền qua ra-đi-ô rằng hai tập đoàn quân bị chúng bao vây ở phía đông Bê-lô-xtốc. Chắc có phần nào đúng sự thật. Tại sao bộ tham mưu của đồng chí không cử phái viên đi tìm các đơn vị? Các đồng chí Cu-lích, Bôn-đin, Cu-dơ-nét-xốp ở đâu? Quân đoàn kỵ binh ở đâu? Không lẽ, không quân lại không phát hiện ra kỵ binh?
Páp-lốp. Đúng, phần lớn là đúng sự thật. Chúng tôi được biết rằng ngày 25 và ngày 26 tháng 6 có các đơn vị ta chiến đấu ở trên sông Sa-ra để giành giật đường qua sông với bọn địch chiếm giữ bờ phía đông. Tập đoàn quân 3 định rút theo hai bờ sông Sa-ra.
Quân đoàn khinh binh 21 ở vùng Li-đa. Trước đây có liên lạc vô tuyến với quân đoàn này, nhưng từ hôm qua đã mất liên lạc, quân đoàn đang rút ra khỏi vòng vây về hướng đã quy định. Không quân không thể tìm thấy kỵ binh và các đơn vị cơ giới, vì tất cả đều ẩn kín để tránh không quân địch. Một nhóm cán bộ có mang theo đài vô tuyến đã được phái đi tìm đồng chí Cu-lích và các đơn vị của ta. Hiện nay chưa có trả lời của nhóm này. Các đồng chí Bôn-đin và Cu-dơ-nét-xốp cũng như đồng chí Gô-lu-bép cho đến ngày 26 tháng 6 đều ở dưới các đơn vị.
Giu-cốp. Nhiệm vụ chủ yếu của đồng chí là nhanh chóng tìm ra các đơn vị và đưa các đơn vị về bên này sông Bê-rê-di-na. Đồng chí hãy trực tiếp nắm lấy việc này và chọn những cán bộ bộ binh và không quân có khả năng để làm nhiệm vụ.
Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh yêu cầu đồng chí trong thời hạn ngắn nhất phải tập họp toàn bộ số quân của phương diện quân và khôi phục lại trạng thái cần thiết.
Trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được để cho các đơn vị địch thọc vào vùng Bô-brui-xcơ và vùng Bô-ri-xốp. Dù thế nào đồng chí cũng không được để xảy ra sự gián đoạn của việc tập trung các quân đoàn ở vùng Oóc-sa - Mô-ghi-lép - Giơ-lô-bin - Rô-ga-chép.
Để lãnh đạo các trận đánh và để đồng chí biết được tình hình diễn ra ở gần Bô-brui-xcơ, cần cử tới đó một nhóm cán bộ mang theo đài vô tuyến và do đồng chí phó của đồng chí chỉ huy. Cần cấp tốc di chuyển các kho tàng để tất cả những kho đó không rơi vào tay địch.
Khi tình hình rõ ràng, đồng chí báo cáo ngay về mọi việc.
Páp-lốp. Để giữ Bô-brui-xcơ và Bô-ri-xốp chúng tôi sẽ điều tất cả các đơn vị thậm chí cả trường huấn luyện”.
Song, tình hình phát triển không tốt hơn bao nhiêu. Ngày 30-6, I.V Xta-lin gọi dây nói tới Bộ Tổng tham mưu và ra lệnh triệu hồi tư lệnh Phương diện quân miền Tây, đại tướng Đ.G. Páp-lốp.
Ngày hôm sau, tướng Đ.G. Páp-lốp về đến nơi. Tôi gần như không nhận ra đồng chí, trong 8 ngày chiến tranh, Đ.G. Páp-lốp đã thay đổi hẳn. Ngay trong ngày hôm đó Đ.G. Páp-lốp bị cách chức tư lệnh phương diện quân và ít lâu sau bị đưa ra tòa án: cùng với Đ.G. Páp-lốp, theo đề nghị của Hội đồng quân sự Phương diện quân miền Tây, tòa án xét xử tham mưu trưởng phương diện quân, tướng Cli-mốp-xkích; chủ nhiệm thông tin, tướng Gri-gô-ri-ép; tư lệnh pháo binh, tướng Cu-lích, và các tướng khác trong bộ tham mưu phương diện quân.
Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô được cử làm tư lệnh Phương diện quân miền Tây, trung tướng A.I. Ê-rê-men-cô làm phó. Các tập đoàn quân của Phương diện quân Dự bị được chuyển sang tăng cường cho Phương diện quân miền Tây.
Tại Phương diện quân Tây-bắc, tình hình tiếp tục xấu đi.
Các tập đoàn quân 8 và 11 đã thoát ra khỏi vòng vây, nhưng do bộ tư lệnh phương diện quân, tổ chức kém nên đã rút tản mát theo nhiều hướng khác nhau và bị thiệt hại lớn.
Để bịt hướng Pơ-xcốp - Lê-nin-grát, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho tư lệnh quân đoàn cơ giới 21, tướng Đ.Đ. Lê-liu-sen-cô từ vùng Ô-pốt-ca - I-dri-sa tiến đến vùng Đau-ga-pin-xơ để đánh chặn, không cho địch vượt qua sông Tây Đờ-vi-na.
Song, nhiệm vụ này hoàn toàn không thể thực hiện được và ngày 26-6, quân địch dùng lực lượng lớn đã vượt qua sông Tây Đờ-vi-na và chiếm Đau-ga-pin-xơ. Tuy vậy quân đoàn cơ giới 21, dũng cảm chuyển sang tấn công quân đoàn mô-tô cơ giới 56 của địch, đã chặn bước tiến của chúng.
Nhớ lại trận này, chuẩn thống chế, bá tước Man-xten, khi đó là tư lệnh quân đoàn mô-tô cơ giới 56 đã viết trong cuốn sách “Những thắng lợi bị mất” của y:
“... chẳng bao lâu chúng tôi đã phải chuyển sang phòng ngự ở bờ bắc sông Đờ-vi-na chống lại các cuộc tấn công của một sư đoàn xe tăng đối phương. Tại một số trận địa tình hình trở thành nghiêm trọng”.
Song, dưới áp lực của các lực lượng địch nhiều hơn và của không quân địch, quân đoàn cơ giới 21 buộc phải rút về phòng ngự. Trên trận địa phòng ngự này, quân đoàn đã đánh lui các cuộc tấn công của địch, giữ vững vỉ trí đến tận ngày 2-7. Về sau quân đoàn cơ giới 21 được sát nhập vào tập đoàn quân 27 do thiếu tướng N.E. Béc-da-rin chỉ huy.
Tôi ân cần nhắc lại chiến công xuất sắc và tinh thần chiến đấu dũng cảm của một đơn vị thuộc quân đoàn cơ giới 21, sư đoàn xe tăng 46 do đại tá V.A. Cốp-xốp, anh hùng của Khan-khin Gôn chỉ huy, cũng như của tư lệnh tập đoàn quân 27, tướng N.E. Béc-da-rin. N.E. Béc-da-rin trong thời gian cuối chiến tranh, đã chỉ huy tập đoàn xung kích anh hùng 5 thuộc Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 1 dũng cảm đột phá Béc-lanh và trở thành tư lệnh quân quản đầu tiên của thành phố.
Cuối tháng, I.V. Xta-lin lại ra quyết định thay đổi cán bộ trong cơ quan lãnh đạo quân đội. Ngày 30-6, trung tướng N.Ph. Va-tu-tin được cử làm tham mưu trưởng Phương diện quân Tây-bắc.
Ngày 2-7, tập đoàn quân 27 bị lực lượng địch uy hiếp, bắt đầu rút lui. Suốt trong thời gian này, tập đoàn quân đã chiến đấu trên một trận tuyến rộng và không còn lực lượng cũng như phương tiện để tổ chức các tuyến phòng ngự ở phía sau.
Vì lực lượng dự bị ta chưa kịp đến sông Vê-li-cai-a, nên quân địch trong hành tiến đã chiếm thành phố Pơ-xcốp. Tập đoàn quân 8 của Phương diện quân Tây-bắc, sau khi bị mất liên lạc với các đơn vị khác đã rút lên phía bắc.
Như vậy là trong 18 ngày đầu chiến tranh, Phương diện quân Tây-bắc đã bị mất Lít-va, Lát-vi-a và một phần lãnh thổ Cộng hòa liên bang Nga, do đó có nguy cơ quân địch sẽ vượt qua Lu-ga tiến về phía Lê-nin-grát mà công sự và thiết bị trên các ngả đường đi vào thành phố này chưa được củng cố và lực lượng bảo vệ lại mỏng.
Trong suốt thời gian này, Bộ Tổng tham mưu không nhận được của bộ tham mưu Phương diện quân Tây-bắc những báo cáo rõ ràng và đầy đủ về tình hình quân ta, về các đạo quân của địch và vị trí của các đoàn quân xe tăng và mô-tô cơ giới của chúng. Đôi khi, đành phải xác định sự phát triển tình hình theo cảm tính, nhưng phương pháp đó, như chúng ta đểu biết, không đảm bảo tránh khỏi sai lầm.
Tại Phương diện quân miền Tây - các hướng Vi-tép-xcơ, Oóc-sa, Mô-ghi-lép, và Bô-brui-xcơ - các trận đánh đầu tháng 7 đã diễn ra trong điều kiện quân địch có ưu thế tuyệt đối về lực lượng cơ giới thiết giáp và không quân. Quân ta mệt mỏi sau những trận chiến đấu liên tiếp, đã rút về phía đông, nhưng trong khi rút, lúc nào củng cố gắng gây cho địch những thiệt hại lớn nhất và, theo sức mình, kìm lâu chúng tại các tuyến phòng ngự.
Trên triền sông Bê-rê-di-na, quân ta chiến đấu đặc biệt ngoan cường ở vùng thành phố Bô-ri-xốp, ở đó có trường huấn luyện xe tăng Bô-ri-xốp, do chính ủy sư đoàn I.Đ. Xu-xai-cốp lãnh đạo. Vừa lúc đó sư đoàn bộ binh cơ giới Mát-xcơ-va 1 do thiếu tướng Ya.G. Crây-de chỉ huy được điều động tới. Sư đoàn được kiện toàn theo quy chế thời chiến, được huấn luyện tốt và có các xe tăng T-34. Tướng Ya.G. Crây-de đã chỉ huy sư đoàn và trường huấn luyện xe tăng Bô-ri-xốp đánh chặn được sư đoàn xe tăng tăng cường 18 của địch trong hơn 2 ngày đêm. Trong lúc này điều đó có ý nghĩa quan trọng. Tướng Ya.G. Crây-de chỉ huy các trận đánh rất xuất sắc.
Tại Phương diện quân Nam, quân Đức - Ru-ma-ni từ lãnh thổ Ru-ma-ni tấn công sang, đột kích chủ yếu vào hướng Mô-ghi-lép - Pô-đôn-xcơ - Giơ-mê-rin-ca, đe dọa tiến đánh sườn và hậu phương các tập đoàn quân 12, 26, 6 của Phương diện quân Tây-nam.
Trong 6 ngày đêm đầu tiên của các trận đánh ác liệt, quân địch chọc thủng được tuyến phòng ngự của Phương diện quân Nam và tiến được khoảng 60 km. Tình hình Phương diện quân Tây-nam cũng xấu đi nhiều, bởi vì lúc này quân Đức, sau mấy lần cố gắng, cuối cùng đã bẻ gãy được phòng ngự của ta ở vùng Rốp-nô - Đúp-nô - Crê-mê-nét và ùn ùn kéo vào cửa đột phá.
Ngày 4-7, quân Đức tiến gần đến khu phòng thủ Nô-vô-grát - Vô-lưn-xcơ nhưng đến đây các cuộc tấn công của chúng bị đánh lui và chúng bị thiệt hại lớn.
Các đơn vị cơ giới thiết giáp, xe tăng địch phải trụ lại ở đó gần 3 ngày đêm. Không đạt được kết quả, chúng tập trung lực lượng lại ở phía nam Nô-vô-grát - Vô-lưn-xcơ và sau đó, ngày 7-7, đánh chiếm Béc-đi-chép và ngày 9-7 chiếm Gi-tô-mia.
Việc quân Đức - Ru-ma-ni chiếm Béc-đi-chép, Gi-tô-mia và tiếp tục tấn công ở hướng Mô-ghi-lép - Pô-đôn-xcơ làm cho các tập đoàn quân 12, 26 và 6 của Phương diện quân Tây-nam có nguy cơ bị hợp vây. Các tập đoàn quân này vừa chiến đấu chống lại quân địch đang ào tới, vừa từ từ lùi về phía đông.
Ngày 9-7, bộ tư lệnh Phương diện quân Tây-nam đã tổ chức phản kích vào Béc-đi-chép để thủ tiêu nguy cơ thực tế bị hợp vây. Các quân đoàn cơ giới 15, 4 và 16 được điều tới tham gia phản kích. Tập đoàn quân 5 vẫn tiếp tục phản kích từ phía bắc vùng Gi-tô-mia.
Ngay lúc này Phương diện quân Tây-nam đã tiến hành cuộc tập kích mạnh từ khu phòng thủ Cô-rô-xten vào sườn đạo quân xe tăng 1 của địch.
Các trận đánh ở vùng Béc-đi-chép - Gi-tô-mia bắt đầu vào ngày 9-7 tiếp diễn đến ngày 16-7. Bị thiệt hại lớn và sợ ngọn đòn từ phía bắc đánh vào sườn tập đoàn quân chủ yếu của chúng, bộ tư lệnh cụm tập đoàn quân “Nam” của Đức phải tạm ngừng tấn công ở vùng Gi-tô-mia.
Tình hình đó cho phép bộ tư lệnh Phương diện quân Tây-nam cuối cùng đã đưa được chủ lực của các tập đoàn quân 6 và 12 ra khỏi nguy cơ bị hợp vây và củng cố thêm được sự phòng thủ Ki-ép.
Như vậy là, quân địch một lần nữa lại không bao vây được quân của Phương diện quân Tây-nam. Chúng buộc phải luôn luôn tiến hành những trận đánh vỗ mặt đẫm máu. Và như vậy là các quân đoàn xe tăng thiết giáp, mô-tô cơ giới thuộc tập đoàn quân của Clây-xtơ không thể đột phá và tới được dải phòng ngự chiến dịch của ta.
Tại Phương diện quân Bắc, địch bắt đầu tấn công ngày 29-6 nhưng các trận đánh của chúng có tính chất địa phương và không có ảnh hưởng gì đặc biệt tới tình hình chiến lược chung.
Lực lượng hải quân ta trong hồi đầu chiến tranh không có những trận xung đột đặc biệt với lực lượng hải quân Đức mà chủ yếu là đánh lại các đợt tấn công của không quân địch. Tuy vậy Hạm đội Ban-tích cũng lâm vào tình thế khó khăn. Tình hình đặc biệt phức tạp đối với căn cứ hải quân chính, nơi tập trung tất cả các tàu chiến chủ lực và lực lượng dự trữ vật chất của Hạm đội Ban-tích. Và các trận chiến đấu của tập đoàn quân 8 thuộc Phương diện quân Tây-bắc không đạt kết quả nên lực lượng bảo vệ trên đất liền của căn cứ hải quân Ta-lin và thành phố Ta-lin trở nên rất yếu.
Toàn bộ lực lượng của Hạm đội Huân chương Cờ Đỏ Ban-tích, các đội vũ trang của công nhân thành phố được tung ra để bảo vệ thủ đô E-xtô-ni-a. Các tuyến phòng ngự được cấp tốc dựng lên tại các ngả đường đi vào Ta-lin, các vật chướng ngại được xây dựng, các mục tiêu trong thành phố được chuẩn bị để phòng thủ.
Nhiều lần địch cố gắng đánh chiếm thành phố và căn cứ hải quân trong hành tiến, nhưng các cố gắng đó đã bị quân đoàn khinh binh 10 thuộc tập đoàn quân 8, các đơn vị lính thủy đánh bộ, pháo binh trên các tàu của hạm đội và các đội vũ trang của dân quân Ta-lin anh dũng đánh lui.
Cuối tháng 7 và gần suốt tháng 8, cuộc chiến đấu để bảo vệ Ta-lin và căn cứ hải quân chủ yếu của Hạm đội vẫn tiếp diễn. Cuối tháng 8, vì quân ta bị kiệt sức và quân địch được tăng cường, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh quyết định đưa các tàu của hạm đội từ căn cứ ngoài biển về Crôn-xtát và bến Lê-nin-grát, bỏ Ta-lin lại.
Máy bay chiến đấu của hạm đội đã tham gia tích cực và trực tiếp vào việc bảo vệ bàn đạp Ta-lin, nhiều lần tập kích vào các binh đoàn tấn công của địch. Cũng cần phải đánh giá cho đúng chiến công của các chiến sĩ hải quân Ban-tích: ở trên bộ cũng như trên hạm tàu, họ đã chiến đấu như những người anh hùng chân chính.
Trong thời kỳ này, Hạm đội Bắc phối hợp với Phương diện quân Bắe đã mở các chiến dịch dùng tàu ngầm đánh vào các tàu vận tải địch chở quặng kền từ Pét-xa-mô về. Hạm đội Biển Đen chủ yếu đảm bảo việc chở người và vũ khí đạn dược cho các tập đoàn quân ở ven biển và hoạt động trên các đường giao thông của địch để ngăn cản việc chuyên chở của chúng vào các hải cảng Ru-ma-ni và Bun-ga-ri.
Một đội tàu chiến của Hạm đội Biển Đen cùng với không quân đã đánh vào căn cứ của hạm đội Ru-ma-ni ở Côn-xtan-xơ. Máy bay của Hạm đội Biển Đen đã ném bom có hệ thống xuống các vùng khai thác dầu lửa và các đầu mối đường sắt của Ru-ma-ni.
Tôi chủ tâm không nói cặn kẽ về các hoạt động chiến đấu của hải quân vì nghĩ rằng các đô đốc và các sĩ quan hải quân sẽ làm việc đó đầy đủ và đặc sắc hơn tôi. Song cần phải nói rằng, kết quả phối hợp hành động của các Phương diện quân trên bộ và hải quân có thể có hiệu quả lớn hơn nữa, nếu như trong những năm trước chiến tranh các vấn đề về phòng thủ bờ biển và phòng thủ các căn cứ hải quân được giải quyết một cách chín chắn hơn. Tiếc rằng, bộ tư lệnh hải quân, Ủy viên nhân dân quốc phòng và Bộ tổng tham mưu nắm lấy những vấn đề này quá chậm.
Đã gần 3 tuần lễ kể từ khi phát-xít Đức xé bỏ hiệp ước không tấn công, dùng lực lượng vũ trang xâm nhập vào lãnh thổ nước ta. Chỉ trong thời gian này thôi, quân đội Hít-le đã bị mất gần 10 vạn người, hơn 1.000 máy bay, 1.500 xe tăng (50% tổng số xe tăng mà chúng có trong thời kỳ đầu chiến tranh).
Lực lượng vũ trang Liên Xô, và đặc biệt là Phương diện quân miền Tây cũng bị những thiệt hại lớn, điều đó còn để lại dấu vết rõ rệt trong các sự kiện tiếp diễn về sau. Tương quan lực lượng trên chiến trường Xô - Đức càng biến đổi mạnh về phía có lợi cho quân thù. Địch giành được những thắng lợi quan trọng, đã tiến sâu vào trong nước ta 500 - 600 km, chiếm được những vùng kinh tế quan trọng và những mục tiêu chiến lược.
Tất cả những điều đó quả là rất bất ngờ đối với nhân dân và quân đội ta. Song, trong những ngày tháng nặng nề này, sự nhất trí về tư tưởng - chính trị của những người xô-viết đã xuất hiện với một sức mạnh đặc biệt.
Đảng và nhân dân ta không hề nao núng.
Ngay từ lúc đầu và mỗi ngày một tăng, công tác tổ chức và chính trị to lớn của Đảng được mở rộng toàn diện và đầy đủ nhằm một mục đích: động viên toàn bộ lực lượng nhân dân đứng lên chống quân thù.
Ngay trong ngày 23-6, ta đã thực hiện những kế hoạch động viên đề ra từ trước, trong đó có các kế hoạch sản xuất vũ khí đạn dược. Các Bộ Ủy viên nhân dân nhận được chỉ thị tăng mức sản xuất xe tăng, pháo, máy bay và các loại kỹ thuật chiến tranh khác. Một tuần lễ sau, chính phủ bãi bỏ kế hoạch đang thực hiện của quý ba năm 1941 và phê chuẩn kế hoạch động viên kinh tế quốc dân trong quý đó nhằm tăng mức sản xuất kỹ nghệ chiến tranh lên hơn 1/4.
Song, các việc xảy ra chứng tỏ rằng, như vậy còn là ít. Vì vậy, một ủy ban do N.A. Vô-dơ-nê-xen-xki làm chủ tịch đã nghiên cứu đề ra cho quý ba năm 1941 kế hoạch kinh tế chiến tranh mới, khẩn trương hơn. Dựa vào các nguồn dự trữ kinh tế đã có cơ sở từ trước chiến tranh, chính phủ thông qua kế hoạch khẩn trương phát triển các vùng Pô-vôn-gie, U-ran, Tây Xi-bê-ri, Ca-dắc-xtan và Trung Á trong năm 1942. Các vùng này đã đóng vai trò lớn lao trong việc chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang kinh tế chiến tranh. Các tỉnh đảng ủy đã làm được nhiều việc lớn để cải tổ và khôi phục kinh tế ở miền đông đất nước.Ví dụ như tỉnh ủy Chê-li-a-bin-xcơ hồi đó do N.X. Pa-tô-li-chép lãnh đạo, đã góp phần đáng kể vào công cuộc quốc phòng.
Chúng ta bắt đầu xây dựng lại công nghiệp và vận tải, phân bố lại các nguồn nhân lực và vật lực, động viên nông nghiệp phục vụ chiến tranh. Hàng nghìn nhà máy mới hôm qua còn sản xuất sản phẩm thời bình, nay đã chuyển sang sản xuất vũ khí đạn dược và kỹ thuật chiến tranh.
Các nhà máy cơ khí, các nhà máy sản xuất máy công cụ được cấp tốc chuyển sang sản xuất xe tăng và máy bay, các nhà máy luyện kim thực hiện các biện pháp để tổ chức việc sản xuất hàng loạt các tấm thiết giáp, vỏ và đầu trái phá, thép cao cấp. Các xí nghiệp công nghiệp ra-đi-ô và điện bây giờ sân xuất các động cơ và máy phát điện cho xe tăng, máy dò mìn, máy bắt tiếng động, thiết bị ra-đa. Ét-xăng cho máy bay và nhiên liệu cho xe tăng và tàu chiến trở thành sản phẩm chủ yếu của các nhà máy chế biến dầu lửa. Kíp nổ cho các đạn trái phá được đặt lên dây chuyền sản xuất thay vào chỗ các máy móc đồng hồ. Các xe lửa bọc thép bị hỏng được đưa tới các nhà máy sửa chữa của đường sắt.
Quân địch chiếm những vùng kinh tế hết sức quan trọng, làm tê liệt công cuộc động viên ở nhiều quân khu cũ, hàng triệu người Xô-viết, nhiều kho tàng vật chất lớn bị nằm trong hậu phương địch. Trên vùng đất đai bị địch chiếm được trong 3 tuần lễ đầu, có 40% dân số, đó cũng là nơi sản xuất hơn 1/3 tổng sản lượng của cả nước. Mức sản xuất các vật liệu chiến lược, gang, thép, thép dát, điện lực, giảm rất nhiều. Nguy cơ đang uy hiếp các trung tâm công nghiệp mới.
Cần phải có những phương sách khác thường để bốc các nhà máy còn nguyên vẹn lên, đưa nó về phía đông, kết hợp nó với các xí nghiệp đang hoạt động ở đó, và dựa vào phần đất nước này để đánh địch, chặn nó lại, đánh gục nó.
Những công việc lớn lao chưa từng thấy trong lịch sử về quy mô và tính chất của nó được. tiến hành khẩn trương. Ngày 24-6, Ban chấp hành trung ương Đảng và Hội đồng ủy viên nhân dân Liên Xô ra quyết định thành lập ủy ban di chuyển do N.M. Svéc-ních làm Chủ tịch, A.N. Cô-xư-ghin, M.G. Péc-vu-khin làm Phó chủ tịch. Tại các bộ Ủy viên nhân dân có các phòng và các ban phụ trách công tác di chuyển. Hơn 1.500 xí nghiệp lớn, chủ yếu là các xí nghiệp lớn, các xí nghiệp quốc phòng đã được di chuyển trong thời hạn rất ngắn - từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1941 - và nhanh chóng trở lại hoạt động. Trong khi đó, như dòng thác không ngừng cả ngày lẫn đêm, các đoàn tàu xe vẫn chở quân và vũ khí tiến về phía Tây và Tây-nam.
Toàn bộ sự giao lưu vĩ đại đó diễn ra với sự khẩn trương cao độ về sức lực gây ra nhiều sự rối loạn, xung đột, làm thần kinh căng thẳng, nhưng vẫn được tiến hành không phút đình trệ, ngày càng tăng, càng phục tùng chặt chẽ vai trò lãnh đạo và tổ chức của Đảng.
Tôi nghĩ rằng thời kỳ anh hùng đó trong đời sống của nhân dân Liên Xô, của Đảng ta không thể lãng quên được, và cho đến nay, tất cả những việc nói.chung mà Đảng và nhân dân ta đã làm về phương diện kinh tế. trong những năm chiến tranh vẫn chưa được khai thác, miêu tả đầy đủ. Mà chính trong những thời kỳ gay gắt đó, dưới ánh sáng của những sự kiện hùng vĩ đó, đã hiện lên một cách rõ nhất những tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, của nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở sở hữu xã hội.
Bản anh hùng ca lao động của nhân dân trong việc di chuyển và khôi phục các nguồn lực sản xuất trong những năm chiến tranh và công tác tổ chức cực kỳ lớn lao của Đảng trong việc này, về mặt quy mô rộng lớn và ý nghĩa của nó đối với vận mệnh của Tổ quốc ta, cũng ngang với các chiến dịch vĩ đại nhất của Thế chiến thứ hai.
Nếu như tôi không nhớ sai, thì ngay trong những ngày đầu chiến tranh, theo quyết định của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng, đã có hơn 50 ủy viên và ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng, hơn 100 bí thư các đảng ủy biên khu, tỉnh ủy và các Ban chấp hành trung ương Đảng các nước Cộng hòa liên bang, các cán bộ nhà nước lỗi lạc và giàu kinh nghiệm đã được cử trực tiếp làm công tác quân sự. Đảng đã lập tức thi hành nhiều biện pháp thực tế để tăng cường sự lãnh dạo tập trung đối với mọi mặt của đời sống đất nước và cuộc chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Cơ quan của Ban chấp hành trung ương Đảng dược cải tổ, chức năng và nhiệm vụ giữa các ủy viên Trung ương Đảng trong việc lãnh đạo các mặt công tác quân sự, kinh tế và chính trị được quy định rõ .
Đảng ta có kinh nghiệm biến đất nước trở thành một doanh trại quân đội thống nhất. Tôi đã nói tới điều đó ở đầu cuốn sách. Kinh nghiệm này được áp dụng ngay từ những ngày đầu chiến tranh, có tính toán cả đến những điều kiện mới. Kinh nghiệm này do Lê-nin đề ra đầu tiên, những nguyên tắc Lê-nin chỉ đạo việc tiến hành mọi công việc khi đất nước gặp cơn nguy hiểm sống còn là cơ sở cho toàn bộ sự hoạt động của những người đảng viên cộng sản ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương. Nhân dân tin tưởng rằng Đảng sẽ tìm ra con đường thoát khỏi tình hình khó khăn đã xảy ra và sẽ biết cách tổ chức đánh tan quân phát-xít Đức. Chỉ cốt có thời gian.
Ngày 30-6-1941, Hội đồng quốc phòng Nhà nước do Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng, I.V. Xta-lin, đứng đầu được thành lập. Đó là cơ quan có đủ uy tín để lãnh đạo công cuộc phòng thủ đất nước, nó tập trung trong tay toàn bộ quyền lực. Các tổ chức nhân dân, Đảng, Nhà nước đều có trách nhiệm thi hành mọi quyết định và chỉ thị của Hội đồng quốc phòng Nhà nước.
Để kiểm tra sự thi hành các quyết định và chỉ thị đó, Hội đồng quốc phòng Nhà nước có các đại diện của mình tại các biên khu và các tỉnh, tại các Bộ Ủy viên nhân dân công nghiệp, quốc phòng, tại các xí nghiệp và công trình chủ yếu nhất.
Những vấn đề quan trọng nhất của thời đó được thảo luận và quyết định trong các phiên họp của Hội đồng quốc phòng Nhà nước được triệu tập vào bất kỳ lúc nào trong ngày đêm, thường là ở Crem-lanh hoặc ở nhà riêng của I.V. Xta-lin. Ý đồ của những chiến dịch lớn nhất được Hội đồng quốc phòng Nhà nước cùng với Ban chấp hành trung ương Đảng, các Ủy viên nhân dân mà quyền hạn được mở rộng nhiều, xem xét. Điều đó cho phép, khi có điều kiện, đảm bảo tập trung được các lực lượng vật chất to lớn vào các hướng quan trọng nhất, cho phép thực hiện một đường lối thống nhất trong lĩnh vực lãnh đạo chiến lược và dựa chắc chắn vào một hậu phương có tổ chức, nó là điều kiện thuận lợi để gắn liền sự hoạt động chiến đấu của quân đội với sức cố gắng của cả nước.
Rất nhiều lần trong các phiên họp của Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã nổ ra những cuộc tranh luận gay go trong đó những ý kiến được nêu ra một cách khẳng định và gay gắt, và I.V. Xta-lin thường thường đi đi lại lại gần bàn, chăm chú nghe các đồng chí khác tranh luận. I.V. Xta-lin ít lời và không ưa người khác nhiều lời, thường ngăn những người nói bằng những tiếng “ngắn hơn”, “rõ hơn”. I.V. Xta-lin khi khai mạc các phiên họp, không có những lời nói mở đầu, I.V. Xta-lin nói khoan thai, tự nhiên, chỉ đi vào thực chất của vấn đề, nói gọn, diễn đạt rõ ràng các ý nghĩ.
Nếu trong phiên họp của Hội đồng quốc phòng Nhà nước mà không đi tới ý kiến thống nhất, thì lập tức thành lập tiểu ban gồm đại diện các phía đối lập nhau và tiểu ban này có nhiệm vụ nêu ra những ý kiến đã nhất trí. Đấy là vào những trường hợp khi I.V. Xta-lin chưa có ý kiến dứt khoát. Còn nếu I.V. Xta-lin tới họp đã có ý định sẵn thì hoặc các cuộc tranh luận không nổ ra hoặc các cuộc tranh luận nhanh chóng chấm dứt khi I.V. Xta-lin ngả về một trong các phía.
Trong toàn bộ thời gian chiến tranh, Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã thông qua gần một vạn quyết định và chỉ thị có tính chất quân sự và kinh tế. Thực hiện nghiêm chỉnh và tích cực các chỉ thị và nghị quyết đó chính là đảm bảo chấp hành đường lối thống nhất lãnh đạo đất nước của Đảng trong thời kỳ khó khăn gian khổ này.
I.V. Xta-lin là một người cương nghị và, như phương ngôn nói, không phải là người non gan. Chỉ có một lần tôi thấy I.V. Xta-lin hơi bàng hoàng, đó là vào buổi sớm ngày 22-6-1941: lòng tin tưởng của I.V. Xta-lin vào khả năng tránh được chiến tranh bị sụp đổ.
Sau ngày 22-6-1941, trong suất cả cuộc chiến tranh, I.V. Xta-lin cùng với Ban chấp hành trung ương Đảng và Chính phủ Liên Xô đã vừng vàng lãnh đạo đất nước, lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang và sự thực hiện nhiệm vụ quốc tế của chúng ta.
Những thất bại và những thiệt hại nặng nề xảy ra trong thời gian đầu chiến tranh làm cho cuộc chiến đấu diễn biến phức tạp thêm. Quân đội vừa chiến đấu vừa rút về phía sâu trong đất nước. Hội đồng quốc phòng Nhà nước, Ban chấp hành trung ương Đảng và các tổ chức Đảng tại các địa phương đã dùng mọi biện pháp cần thiết để giải thích cho nhân dân rõ tinh thế bắt buộc phải tạm thời rút lui.
Mặc dù tình hình rất phức tạp, các tổ chức Đảng và các cơ quan Nhà nước U-crai-na, Bê-lô-ru-xi và các nước Cộng hòa miền Pri-ban-tích đã triển khai có kết quả công tác động viên nhân dân tích cực đấu tranh với quân thù. Để thực hiện mục đích này, tại các vùng tạm thời phải bỏ lại, đã thành lập nhiều tổ chức bí mật của Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản, đã đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán của các đội du kích trong đó có các chiến sĩ Hồng quân, cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị của các đơn vị đã thoát khỏi vòng vây. Đặt chân lên đất nước ta, quân địch không những mau chóng thấy rõ lòng căm thù của người Xô-viết đối với bọn phát-xít Đức xâm lược mà ngay lập tức còn bị những người đã rút vào hoạt động bí mật đánh đau.
Trong những ngày đó, Bộ tư lệnh Liên Xô không có cách nào khác, ngoài việc phải chuyển sang phòng ngự về chiến lược. Lúc đó chưa có lực lượng cũng như phương tiện để tiến hành các chiến dịch tấn công, đặc biệt là những chiến dịch lớn. Cần phải thành lập các lực lượng dự bị chiến lược lớn, vũ trang đầy đủ cho số quân đó, để có sức mạnh lớn hơn địch để giành lại từ tay địch thế chủ động; sau đó chuyển sang tấn công, mở đầu việc đuổi các lực lượng địch ra khỏi Liên Xô.
Tất cả những điều đó đã được thực hiện, nhưng mãi về sau này.
Quân ta chuyển sang phòng ngự chiến lược trong quá trình rút lui bị động. Chúng ta phải hành động trong tình thế không đủ lực lượng để bố trí đội hình chiến dịch - chiến thuật, thiếu lực lượng và phương tiện để tổ chức phòng ngự có chiều sâu và đặc biệt là không xây dựng được xương sống của nó - việc phòng ngự chống xe tăng.
Không thể không nói tới sự yếu ớt của các phương tiện cao xạ phòng không của chúng ta và tình trạng không đủ tới mức cần thiết không quân để bảo vệ bầu trời. Trong thời kỳ đầu chiến tranh, quân địch đã làm chủ trên không, điều đó ảnh hường nhiều đến sức vững vàng của quân ta
Tuy vậy, mặc dù có nhiều thiếu sót và đôi khi tinh thần chống cự của chính các đơn vị cũng không đều nhau, công cuộc phòng ngự chiến lược về cơ bản vẫn được tổ chức xong.
Như chúng ta biết, trong các giai đoạn thứ hai và thứ ba của cuộc chiến tranh, khi bọn Hít-le thấm đau vì những thất bại trên khắp chiến trường Liên Xô, chúng đã không thể xây dựng nổi việc phòng ngự như thế
Mục đích chủ yếu nhất của phòng ngự chiến lược của ta lúc đó là:
- Kìm thật lâu quân phát-xít lại trên các tuyến phòng ngự để tranh thủ thời gian nhiều nhất đưa các lực lượng từ phía sau tới và thành lập các lực lượng dự bị mới, điều động và triển khai các lực lượng đó trên các hướng quan trọng nhất.
- Gây cho địch những thiệt hại lớn nhất, làm cho chúng mỏi mệt và hao hụt và do đó phần nào làm cân bằng so sánh lực lượng.
- Đảm bảo thực hiện các biện pháp của Đảng và Chính phủ trong việc di nhân dân và các mục tiêu công nghiệp vào sâu trong nước, tranh thủ thời gian để chuyển công nghiệp sang phục vụ nhu cầu chiến tranh.
- Tích lũy tối đa các lực lượng và chuyển sang phản công để đập tan toàn bộ kế hoạch chiến tranh của bọn Hít-le.
Trong phòng ngự chiến lược, quân ta không những chống lại quân địch ở trên bộ, trên không và trên biển, mà quan trọng hơn cả là mở hàng loạt cuộc phản kích, ráo riết đánh vào quân thù. Ở bất cứ nơi nào có thể được, quân đội và du kích ta đã chiến đấu dũng cảm, gây thiệt hại hết sức to lớn cho bọn phát-xít xâm lược.
Vào ngày thứ năm của cuộc chiến tranh, theo quyết định của Ban chấp hành trung ương Đảng, bắt đầu có cuộc động viên các đảng viên và đoàn viên thanh niên cộng sản ra tiền tuyến, trong đó có những người làm chiến sĩ chính trị. Họ sẽ trở thành chỗ dựa cho các tổ chức Đảng trong quân đội.
Sát trước chiến tranh, trong Hồng quân và Hải quân có hơn 65 vạn đảng viên và 1/3 ba tổng số quân là các đoàn viên thanh niên cộng sản. Chỉ riêng trong 6 tháng đầu chiến tranh đã có hơn 110 vạn đảng viên cộng sản ra tiền tuyến.
Trong sách báo nước ngoài cho đến nay vẫn thường định nghĩa các đảng viên cộng sản, các cán bộ Đảng như là một hạng “người đặc biệt” tầng lớp có đặc quyền ở xã hội ta. Với tư cách là một quân nhân, tôi mong cho bất kỳ nước nào cũng có dược “lớp người đặc biệt” đó, lớp người mà đại biểu của nó đã có thể hy sinh anh dũng và không chút do dự vì Tổ quốc mình.
Tôi đã nhiều lần chuyện trò với các chiến sĩ chính trị đang trên đường đi tới các đơn vị quân đội. Những con người này có lòng tin tưởng đặc biệt sắt đá vào thắng lợi của chúng ta. “Chúng tôi sẽ đứng vững?” - họ thường nói như vậy. Và tôi cảm thấy đó không chỉ là lời nói, đó là hình tượng của suy nghĩ, đó là chủ nghĩa yêu nước xô-viết chân chính. Bằng tinh thần lạc quan cao độ của mình các chiến sĩ chính trị đã mang lại tin tưởng cho những người bắt đầu mất tinh thần.
Ngày 3-7, trong bài diễn văn trên đài phát thanh, I.V. Xta-lin thay mặt Ban chấp hành trung ương Đảng, giải thích về tình hình đã diễn ra trên các mặt trận và kêu gọi nhân dân Liên Xô khẩn trương tổ chức lại đời sống và nền kinh tế củ.a đất nước cho phù hợp với yêu cầu của một cuộc chiến tranh chống một kẻ thù mạnh, xảo quyệt và độc ác. I.V. Xta-lin kêu gọi Đảng và nhân dân đứng lên tham gia vào cuộc chiến đấu thiêng liêng chống quân thù, chấm dứt thái độ vô tư và nâng cao tinh thần cảnh giác.
Bài diễn văn đáng ghi nhớ này của I.V. Xta-lin dựa vào chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng và Hội đồng Ủy viên nhân dân Liên Xô gửi ngày 29-6-1941, cho tất cả các tổ chức Đảng và Nhà nước tại các tỉnh sát tiền tuyến. Lời kêu gọi này đề ra những nhiệm vụ cơ bản của nhân dân và các lực lượng vũ trang Liên Xô trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại.
Hướng về nhân dân, diễn văn của I.V. Xta-lin, chỉ thị của Đảng và Chính phủ đã vang lên như hồi chuông báo động mạnh mẽ, trong đó vẳng lên âm thanh lời hiệu triệu nổi tiếng của Lê-nin: “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa lâm nguy?”. Mọi người cảm thấy rằng, tiếng phẫn nộ và giục giã của hồi chuông đó chỉ sẽ ngừng vang khi nào tên phát-xít xâm lược cuối cùng phải rút khỏi đất đai của Tổ quốc ta.
Trong đời sống của bất kỳ nước nào, ở những thời kỳ khó khăn, khủng hoảng, khi bị kẻ thù bên trong hoặc quân thù bên ngoài tấn công, đều cần có một lời hiệu triệu, một khẩu hiệu nêu rõ và đầy đủ những cố gắng cần có của toàn thể nhân dân, có khả năng đoàn kết tất cả mọi người lại. Nhân dân ta đã tin cậy giao phó vận mệnh của mình cho Đảng, Đảng cần nêu rõ mục tiêu và chỉ rõ kẻ thù, phát động được tất cả các tầng lớp, các giai cấp đứng lên chiến đấu. Đảng ta đã hoàn toàn nắm được nghệ thuật đó, nghệ thuật mà chỉ có người lãnh đạo chân chính của nhân dân mới có.
Lúc này bằng khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng?”, Đảng đã hướng từng người Xô-viết nhìn thẳng vào mối nguy cơ. Những người có các quan điểm và thói quen khác nhau, các quân nhân và cán bộ dân sự, đàn ông và đàn bà, không phân biệt tuổi tác và thành phần đã đoàn kết lại xung quanh khẩu hiệu đó.
Vì mục đích yêu nước cao cả - bảo vệ Tổ quốc mình - nhân dân Nga, tất cả các dân tộc trên đất nước ta, đã đứng thẳng lên, với tinh thần kiên cường thống nhất của mình, họ đã làm tăng sức mạnh vật chất và sức mạnh của vũ khí lên gấp bội.
Tháng 7, để tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị và củng cố ảnh hưởng của Đảng trong các lực lượng vũ trang, theo quyết định của Ban chấp hành trung ương Đảng, đã tiến hành việc cải tổ các cơ quan tuyên truyền chính trị trong quân đội và áp dụng chế độ chính ủy.
Ngay từ những ngày đầu chiến tranh sự hoạt động của tất cả các tổ chức quần chúng đều phục tùng lợi ích của tiền tuyến. Theo ý kiến của Ban chấp hành trung ương Đảng, Hội đồng trung ương các công đoàn Liên Xô, Ban chấp hành trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Lê-nin đã đề ra nhiều biện pháp thiết thực để phục vụ tiền tuyến về mọi mặt, để củng cố kỷ luật lao động và nâng cao năng suất lao động ở hậu phương, tăng cường việc chăm sóc thương binh và các gia đình quân nhân, để chuẩn bị các lực lượng dự trữ cho chiến đấu, tổ chức nhân dân lao động tích cực tham gia vào công cuộc phòng không ở địa phương.
Tại tiền tuyến và ở hậu phương, các thanh niên gái, trai của chúng ta đã nêu cao gương chủ nghĩa yêu nước Xô-viết và luôn luôn sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.
Tôi có nói chuyện với một số đoàn viên thanh niên cộng sản trước khi họ được đưa vào hậu địch làm nhiệm vụ trinh sát và phá hoại. Tiếc rằng tôi không ghi lại họ tên của những anh chị em đó, nhưng những lần gặp gỡ họ vẫn còn lại trong trí nhớ tôi.
Tôi muốn kể lại một cuộc gặp gỡ.
Trong những ngày đầu tháng 7, khi Min-xcơ đã bị địch chiếm và quân địch đang lao về phía sông Bê-rê-di-na, một tổ trinh sát phá hoại có nhiệm vụ nhảy dù xuống hậu địch ở vùng Min-xcơ. Tổ có hai thanh niên gái và hai thanh niên trai, đều là đoàn viên thanh niên cộng sản, thạo tiếng Đức. Nếu như tôi không nhầm thì hai em gái trước có học ở trường đại học tiếng nước ngoài. Trong khi nói chuyện, tôi được biết họ là người Mát-xcơ-va. Tôi hỏi, bay vào hậu địch có sợ không, họ nhìn nhau và mỉm cười trả lời:
- Tất nhiên là hơi sờ sợ. Nếu chúng bắt được vào lúc đang xuống đất thì sẽ hỏng việc. Còn nếu không bắt được vào lúc ấy thì mọi việc sẽ đâu vào đó
Các thanh niên gái, trai này còn rất trẻ và đẹp nết. Tổ quốc kêu gọi họ, và họ đã đi vào làm những việc khó khăn nguy hiểm. Tôi không biết tình hình của họ sau đó ra sao. Nếu như người nào trong tổ này còn sống, có thể, người đó còn nhớ cuộc gặp gỡ này ở Mát-xcơ-va, tại Bộ Tổng tham mưu, ở phố Phơ-run-dê, vào những ngày tháng 7 năm 1941...
Những thiệt hại đáng kể về quân số và phương tiện vật chất buộc phải tiến hành nhiều biện pháp tổ chức để kiện toàn bộ chỉ huy quân đội và củng cố sức chiến đấu của các bộ đội và binh đoàn. Hệ thống quân đoàn tạm thời giải tán, số cán bộ và phương tiện liên lạc dôi ra được dùng vào việc củng cố các tập đoàn quân và các sư đoàn. Trong tập đoàn quân trước đây có từ 9 - 12  sư đoàn, nay có 6 sư đoàn. Đơn vị chiến thuật cao nhất trước là quân đoàn nay là sư đoàn. Số máy bay ở các trung đoàn và sư đoàn không quân giảm bớt một nửa. Việc thành lập lực lượng dự bị của Bộ Tổng tư lệnh được tiến hành khẩn trương.
Hội đồng quốc phòng Nhà nước và Ban chấp hành trung ương Đảng đòi hỏi các cơ quan chỉ huy và cơ quan chính trị phải dùng mọi biện pháp để củng cố kỷ luật trong quân đội. Để thực hiện nhiệm vụ này, Tổng cục chính trị và Ủy viên nhân dân quốc phòng đã ra nhiều chỉ thị.
Tháng 7, tình hình ở tất cả các hướng lại trở nên phức tạp hơn nữa. Tuy một số lớn các đơn vị từ các quân khu phía trong tới đã bước vào chiến đấu, chúng ta vẫn chưa xây dựng được thế trận phòng ngự chiến lược vững chắc. Quân địch, trên các hướng quyết định, mặc dù bị thiệt hại lớn, vẫn có ưu thế gấp ba, bốn lần, chưa kể xe tăng.
Việc vận chuyển quân đội ta bằng đường sắt, vì nhiều nguyên nhân, không được thực hiện liên tục. Các đạo quân tới nơi thường được sử dụng ngay khi chưa tập trung đẩy đủ, do đó ảnh hưởng không tốt tới tình hình chính trị tư tưởng và sức chiến đấu bền bỉ của các đơn vị.
Chỗ yếu của ta trong phòng ngự về mặt chiến dịch - chiến thuật chủ yếu là ở chỗ, do thiếu lực lượng và phương tiện nên không lập được nhiều tuyến theo chiều sâu. Phòng ngự của các bộ đội và binh đoàn, về thực chất mang tính chất tuyến kéo dài. Vì thiếu sức kéo nhanh và sức kéo trên bất kỳ đường nào nên quân ta không thể cơ động rộng rãi pháo binh để khi cần thiết, yểm hộ các đơn vị đẩy lùi các cuộc tấn công bằng xe tăng của địch. Các phương diện quân và các tập đoàn quân còn lại rất ít đơn vị xe tăng. Trận đánh ác liệt giành Xmô-len-xcơ đã diễn ra trong những điều kiện đó.
Phòng giữ hướng Xmô-len-xcơ từ phía tây-bắc có tập đoàn quân 22 do trung tướng Ph.A. éc-sa-cốp chỉ huy, lùi về phía sau, bên sườn trái của nó là tập đoàn quân 19 do trung tướng I.X. cô-nép chỉ huy, tại trận địa từ Vi-tép-xcơ đến Oóc-sa có tập đoàn quân 20 do trung tướng P.A. Cu-rốt-kin chỉ huy, quá phía nam theo bờ trái sông Đơ-nép đến Rô-ga-chép có tập đoàn quân 13 do trung tướng Ph.N. Rê-mê-dốp chỉ huy. Ở vùng Xmô-len-xcơ, tập đoàn quân 16 do tướng M.Ph. Lu-kin chỉ huy - được tập trung thành lực lượng dự bị của phương diện quân. Tại cánh phía nam Phương diện quân miền Tây có tập đoàn quân 21 do trung tướng V.Ph. Ghê-ra-xi-men-cô, và sau đó do thượng tướng Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp chỉ huy, hoạt động.
Ý đồ của địch là dùng các đoàn xung kích rất mạnh để cắt Phương diện miền Tây của ta ra, bao vây các lực lượng cơ bản của ta ở vùng Xmô-len-xcơ và mở đường tiến đánh Mát-xcơ-va.
Bên những bức tường của thành phố Nga cổ kính, trước kia đã từng làm chướng ngại ghê gớm trên đường quân đội Na-pô-lê-ông tiến vào Mát-xcơ-va, nay lại nổ ra trận đánh ác liệt. Trận đánh này kéo dài 2 tháng.
Mở đầu cuộc tấn công vào Phương diện quân miền Tây, địch đã dùng đạo quân xe tăng 2 và 3 thuộc cụm tập đoàn quân “Trung tâm” làm thê đội 1. Đạo quân xe tăng 2 từ vùng Sơ-clốp dùng lực lượng đột kích chủ yếu đánh vu hồi Xmô-len-xcơ ở phía tây-nam, còn quân đoàn cơ giới 24 của nó - từ vùng Bu-khốp đánh vào Cri-chép và En-nha. Đạo quân xe tăng 3 phối hợp với các quân đoàn 5 và 6 đánh vu hồi Xmô-len-xcơ ở phía tây-bắc. Quân địch có lực lượng mạnh hơn ta nhiều.
Ngay từ đầu cuộc tấn công, địch đã đột phá sâu vào các vùng Pô-lốt-xcơ, Vi-tép-xcơ phía bắc và phía nam Mô-ghi-lép. Cánh phải Phương diện quân miền Tây buộc phải lui về Nê-ven. Các đạo quân xe tăng của Gu-đê-ri-an liền lao về phía Mô-ghi-lép.
Địch dùng bốn sư đoàn bộ binh, một sư đoàn xe tăng, trung đoàn “Đại Đức” và các đơn vị khác của chúng tấn công vào Mô-ghi-lép.
Các binh đoàn của tập đoàn quân 13 của ta, ngoan cường bảo vệ thành phố, đã bị bao vây.
Quân đoàn 61 của tướng Ph.A. Ba-cu-nin phòng ngự ở vòng ngoài thành phố. Sư đoàn khinh binh 172 do thiếu tướng M.T. Rô-ma-nốp chỉ huy, đã chiến đấu đặc biệt xuất sắc trong các trận đánh bảo vệ Mô-ghi-lép. Gần 45.000 người dân Mô-ghi-lép đã tham gia xây dựng các công sự phòng ngự. Trong 23 ngày, các chiến sĩ dũng cảm bảo vệ thành phố đánh lui nhiều cuộc tấn công của giặc. Phối hợp với các sư đoàn sườn phải của tập đoàn quân 21 thường xuyên mở các cuộc phản kích từ phía nam lên hướng Mô-ghi-lép, họ đã giam chân một phần lực lượng các quân đoàn mô-tô cơ giới 46, 24 thuộc đạo quân xe tăng 2 của địch và đã gây cho chúng những thiệt hại đáng kể. Trong các trận đánh ở gần Mô-ghi-lép, Hít-le đã mất 3 vạn lính và sĩ quan.
Trong khi quân địch tấn công từ Đơ-nép về phía đông, các đơn vị của tập đoàn quân 21 (tư lệnh là tướng Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp) đã vượt sông này ngày 13-7, giải phóng được Rô-ga-chép và Giơ-lô-bin và vừa đánh vừa tiến theo hướng tây-bắc về Bô-brui-xcơ.
Quân đoàn khinh binh 63, do L.G. Pê-tơ-rốp-xki chỉ huy, là đơn vị phụ trách mũi đột kích chủ yếu. Mấy ngày sau, L.G. Pê-tơ-rốp-xki đã anh dũng hy sinh. Tôi biết rõ L.G. Pê-tơ-rốp-xki, một trong số các tướng lĩnh có tài và có kiến thức, nếu như đồng chí không bị hy sinh sớm, thì tôi tin rằng, đồng chí sẽ trở thành người cán bộ chỉ huy cao hơn. Bằng cuộc phản kích nạy, tập đoàn quân 21 đã giam chân 8 sư đoàn Đức. Lúc đó việc ấy có ý nghĩa rất lớn.
Cuộc chiến đấu phòng ngự ngoan cường của tập đoàn quân 13 ở vùng Mô-ghi-lép, những đợt tấn công của tập đoàn quân 21 ở gần Bô-brui-xcơ đã kìm chân rõ rệt bước tiến của địch ở hướng Rô-xláp. Bộ chỉ huy cụm tập đoàn quân “Trung tâm” Đức buộc phải đưa một số sư đoàn từ các trận địa khác đến vùng hoạt động của tập đoàn quân 21.
Tại khu vực giữa mặt trận, các trận đánh ác liệt với quân chủ lực địch đã đột phá về phía Xmô-len-xcơ vẫn tiếp diễn. Các đơn vị của tập đoàn quân 20 vừa liên tục tiến công địch, vừa phòng ngự trên chính diện rộng, nhưng vẫn không thể chặn được cuộc tấn công của tập đoàn quân 9 của địch. Các binh đoàn xe tăng địch đã vòng qua tập đoàn quân của ta và lọt vào Xmô-len-xcơ.
Hội đồng quốc phòng Nhà nước và đặc biệt là I.V. Xta-lin rất đau lòng khi nhận được tất cả những tin đó. I.V. Xta-lin không kìm được mình, đã nổi giận. Các cán bộ lãnh đạo quân sự chúng tôi đã chịu đựng toàn bộ sự nặng nề của cơn tức giận đó của Xta-lin. Song các trận đánh ở vùng Xmô-len-xcơ không những không giảm đi mà ngược lại càng thêm ác liệt. Đại bản doanh cấp tốc thành lập mặt trận phòng ngự mới, bố trí nó ở hậu phương Phương diện quân miền Tây.
Ngày 14-7, ngay trong khi các trận đánh còn đang diễn ra trên các ngả đường vào Xmô-len-xcơ, đã có quyết định thành lập phương diện quân mới của các đơn vị dự bị gồm các tập đoàn quân 29, 30, 24, 28, 31 và do trung tướng I.A. Bốc-đa-nốp chỉ huy, phần lớn các đơn vị của phương diện quân này về sau đã sát nhập vào Phương diện quân miền Tây. Các tập đoàn quân này được bố trí rải ra trên tuyến Xta-rai-a Ru-xa - Ô-xta-scốp - Be-lưi - En-nha - Bri-an-xcơ. Để bảo vệ các ngả đường phía xa vào Mát-xcơ-va, lại có quyết định thành lập mặt trận mới trên tuyến phòng ngự Mô-gia-ích và dự định bố trí ở đó các tập đoàn quân 32, 33, 34, mới được thành lập.
Để khắc phục tình hình cực kỳ nguy hiểm đã xảy ra, Đại bản doanh quyết định giao cho tư lệnh Phương diện quân miền Tây, nguyên soái X.K Ti-mô-sen-cô 20 sư đoàn khinh binh lấy từ các tập đoàn quân của Phương diện quân Dự bị. Các sư đoàn này nhập vào các tập đoàn quân do thiếu tướng K K. Rô-cô-xốp-xki, thiếu tướng V.A. Khô-men-cô, trung tướng X.A. Ca-li-nin, trung tướng V.Ya. Ca-cha-lốp, trung tướng I.I. Ma-xlen-ni-cốp chỉ huy.
Theo chỉ thị của Đại bản doanh, nguyên soái X.K. Ti-mô-sen-cô đã giao cho các tập đoàn quân này nhiệm vụ: mở các cuộc phản kích từ các vùng Be-lưi - Yác-xê-vô - Rô-xláp theo hướng chung về Xmô-len-xcơ, tiêu diệt số quân địch đã đột nhập và bắt liên lạc với lực lượng cơ bản của phương diện quân đang chiến đấu ngoan cường trong vòng vây ở vùng Xmô-len-xcơ.
Trong nửa thứ hai của tháng 7, các trận đánh ở vùng Xmô-len-xcơ và phía đông Xmô-len-xcơ diễn ra ngày càng thêm ác liệt. Trên khắp mặt trận, quân địch đã gặp sự đánh trả tích cực của các đơn vị Hồng quân.
Ngày 23-7, một bộ phận thuộc tập đoàn quân 28 bắt đầu tấn công từ vùng Rô-xláp, còn ngày 24 và 25 thì các đơn vị của tập đoàn quân 30 và 24 tấn công từ vùng Bê-lưi - Yác-xê-vô. Các đơn vị của tập đoàn quân 16 và 20 cũng vòng qua phía bắc và phía nam Xmô-len-xcơ tiến ra. Quân địch lập tức đưa quân tăng viện đến vùng Xmô-len-xcơ với ý định đánh tan các đơn vị của tập đoàn quân 16 và 20 thuộc Phương diện quân miền Tây đang bị bao vây ở đây. Trận đánh vì vậy mang tính chất vô cùng ác liệt.
Được sự viện trợ của tập đoàn quân K.K. Rô-cô-xốp-xki có bộ đội xe tăng đi cùng, phần lớn các đơn vị của tập đoàn quân 16 và 20 đã chọc thủng vòng vây ở phía nam Yác-xê-vô, tiến ra bờ phía đông sông Đơ-nép, ở đây họ gặp chủ lực của phương diện quân và chuyển sang phòng ngự.
Quân địch tung một đạo quân gồm 9 sư đoàn ra chống lại tập đoàn quân của V.Ya. Ca-cha-lốp gồm 3 sư đoàn đang tiến từ vùng Rô-xláp về Xmô-len-xcơ. Trong đạo quân địch có một quân đoàn mô-tô hóa. Địch đã chiếm Rô-xláp trong hành tiến và bao vây đạo quân của V.Ya. Ca-cha-lốp.
Lực lượng ở đây quá chênh lệch. Đạo quân của V.Ya. Ca-cha-lốp lâm vào tình thế hết sức khó khăn. Một số ít rút ra được và nhập vào các đơn vị bạn. Trong các trận đánh này, tư lệnh tập đoàn quân, tướng V.Ya. Ca-cha-lốp đã anh dũng hy sinh.
Quân đoàn mô-tô hóa 46 của địch chiếm En-nha và định đánh vào Đô-rô-bô-gu-giơ, nhưng bị tập đoàn quân 24 của Phương diện quân Dự bị chặn lại.
Để bảo vệ hướng Gô-men, Đại bản doanh thành lập Phương diện quân Trung ương gồm các tập đoàn quân 4, 13 và 21 của Phương diện quân miền Tây đang chiến đấu tại tuyến Xe-sa - Prô-pôi-xcơ và quá phía nam theo sông Đơ-nép.
Chiến trận Xmô-len-xcơ giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh vĩ đại bảo vệ Tổ quốc. Mặc dù không đánh tan được quân địch như kế hoạch của Đại bản doanh đề ra, nhưng chúng ta đã đánh tiêu hao nặng các đạo quân xung kích của chúng.
Theo sự thừa nhận của tướng tá Đức, trong chiến trận Xmô-len-xcơ, bọn Hít-le đã mất 25 vạn lính và sĩ quan. Ngày 30-7, bộ chỉ huy Đức ra lệnh cho cụm tập đoàn quân “Trung tâm” chuyển sang phòng thủ. Còn bộ đội Xô-viết thì đã trụ vững được trên tuyến Vê-li ki-e Lu-ki - Yác-xê-vô - Cri-chép - Giơ-lô-bin.
Trong quá trình diễn biến. của chiến trận Xmô-len-xcơ, Hồng quân, nhân dân thành phố và nhân dân các vùng xung quanh đã biểu lộ một tinh thần rất kiên cường. Họ đã chiến đấu quyết liệt để giành từng lô-cốt, từng đường phố, từng khu dân cư. Kìm được sự tấn công của địch ở hướng chủ yếu này là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược to lớn. Nhờ kết quả đó, chúng ta tranh thủ được thời gian chuẩn bị lực lượng dự bị và tiến hành các biện pháp phòng thủ ở hướng Mát-xcơ-va. Đơn vị cận vệ Xô-viết xuất hiện đầu tiên trong chiến trận Xmô-len-xcơ. Tại đây, ngày 14-7-1941 trong trận đánh gần Oóc-sa, đội pháo của đại úy I.A. Phơ-lê-rốp lần đầu tiên đã sử dụng các dàn pháo cối phản lực “Ca-chiu-sa” nổi tiếng.
Cần phải đánh giá đúng nguyên soái X.K. Ti-mô-sen-cô. Trong những tháng khó khăn đầu tiên của chiến tranh, nguyên soái đã làm được nhiều việc, vững vàng lãnh đạo quân đội, động viên tất cả các lực lượng nhằm đánh lui cuộc tiến công của quân địch và tổ chức công cuộc phòng ngự.
Giới lãnh đạo quân sự - chính trị, cơ quan chỉ huy của bọn Hít-le và bản thân quân đội của chúng đã thấy rõ tinh thần dũng mãnh và chủ nghĩa anh hùng tập thể của các chiến sĩ Xô-viết. Bây giờ chúng đã biết rằng chiến tranh càng vào sâu trong nước ta, thì càng trở nên khó đối với chúng.
Cuối tháng 7, A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép gọi dây nói cho tôi và hỏi:
- Đồng chí Ti-mô-sen-cô hiện ở đâu?
- Nguyên soái Ti-mô-sen-cô ở Bộ Tổng tham mưu, chúng tôi đang thảo luận về tình hình ở mặt trận.
- Đồng chí Xta-lin mời đồng chí và đồng chí Ti-mô-sen-cô tới ngay nhà riêng gặp đồng chí đó - A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép nói.
Chúng tôi nghĩ là I.V. Xta-lin muốn bàn với chúng tôi về những hoạt động sắp tới. Nhưng hóa ra lệnh gọi có mục đích khác. Khi chúng tôi bước vào phòng đã thấy hầu hết các ủy viên Bộ chính trị đang ngồi bên bàn. I.V. Xta-lin mặc chiếc áo cũ, đứng ở giữa phòng và tay cầm tẩu thuốc đã tắt - một biểu hiện chắc chắn khi không vui.
- Có việc này - I.V. Xta-lin nói, - Bộ chính trị đã thảo luận về công tác của đồng chí Ti-mô-sen-cô trên cương vị tư lệnh Phương diện quân miền Tây và đã quyết định để đồng chí ấy thôi nhiệm vụ đó. Có ý kiến đề nghị cử đồng chí Giu-cốp đảm đương nhiệm vụ này. Các đồng chí thấy thế nào? - I.V. Xta-lin quay lại phía tôi và X K. Ti-mô-sen-cô, hỏi.
X K. Ti-mô-sen-cô im lặng.
- Đồng chí Xta-lin, - tôi nói, - việc thay đổi luôn các tư lệnh phương diện quân ảnh hưởng không tốt tới diễn biến các trận đánh. Các tư lệnh chưa kịp nắm tình hình công việc đã phải mở các trận đánh lớn. Nguyên soái Ti-mô-sen-cô chỉ huy phương diện quân chưa đến 4 tuần lễ. Trong quá trình diễn biến chiến trận Xmô-len-xcơ, nguyên soái đã biết rõ quân đội, thấy được khả năng của họ như thế nào. Nguyên soái đã làm tất cả những gì có thể làm được trên cương vị của mình, và gần suốt một tháng đã kìm quân địch lại ở vùng Xmô-len-xcơ. Tôi nghĩ rằng không ai có thể làm được gì nhiều hơn nữa. Quân đội tin tưởng ở đồng chí Ti-mô-sen-cô và điều đó là chủ yếu. Theo tôi hiện nay để đồng chí Ti-mô-sen-cô thôi giữ chức tư lệnh phương diện quân là điều không đúng và không lợi.
M.I. Ca-li-nin chăm chú nghe xong, nói:
- Có lẽ đúng đấy?
I.V. Xta-lin chậm rãi rít tẩu thuốc, nhìn các ủy viên khác trong Bộ chính trị và nói:
- Hay là, chúng ta đồng ý với đồng chí Giu-cốp?
- Đồng chí Xta-lin, đồng chí nói đúng, - nhiều người nói. - Đồng chí Ti-mô-sen-cô có thể còn làm cho tình hình trở lại tốt được.
Chúng tôi ra về. X.K. Ti-mô-sen-cô nhận lệnh phải ra ngay mặt trận.
Rõ ràng là Xê-mi-on Kôn-xtan-ti-nô-vích Ti-mô-sen-cô rất bực mình về những nhận xét đã nêu ra. Nhưng trong chiến tranh, mọi việc đều có thể xảy ra, không phải lúc nào cũng có thể tính đến những tâm tư riêng của mỗi người trong khi giải quyết những vấn đề to lớn và phức tạp.
Trên hướng Tây, sau các trận giao tranh cực kỳ ác liệt ở vùng Xmô-len-xcơ, cuộc chiến tạm thời ngừng lại. Cả hai bên chỉnh đốn lại quân đội và chuẩn bị cho các sự kiện sắp nổ ra. Riêng ở vùng En-nha, trận đánh không chấm dứt. Mỏm En-nha mà quân Đức chiếm được, là bàn đạp rất có lợi để đánh vào Mát-xcơ-va. Vào bất kỳ tình thế nào quân Đức củng cố giữ lấy nó.
Trên hướng Lê-nin-grát, địch tiếp tục tấn công. Nhưng, mặc dù có thắng lợi, chúng vẫn không chọc thủng được trận địa phòng ngự của quân đội Liên Xô và không tiến được tới những ngả đường gần vào Lê-nin-grát.
Trong thời gian diễn ra chiến trận Xmô-len-xcơ, cụm tập đoàn quân “Bắc” của Đức có âm mưu đánh qua Lu-ga để tiến gần đến Lê-nin-grát. Ngày 12-7, quân đoàn mô-tô cơ giới 41 địch tiến dọc theo đường Lê-nin-grát để tới Lu-ga, nhưng bị chặn lại. Song, sau khi tìm ra được chỗ phòng ngự yếu ở vùng Kin-ghi-xép - I-va-nốp-xcơ, các đơn vị của đạo quân xe tăng 4 địch đã nhanh chóng chuyển từ vùng Lu-ga sang và định chọc vào phòng ngự của ta ở đó, nhưng đội dự bị của ta đến kịp và đã chặn chúng lại.
Một đạo quân khác của địch âm mưu tiến vào Nốp-gô-rốt và sau đó tới Chu-đô-vô đã gặp phải sự chống cự kịch liệt và ở đây chúng cũng không thành công. Quân đoàn mô-tô cơ giới Đức đang tiến đến khu vực Xôn-xư thì bị các đơn vị của tập đoàn quân 11 tấn công. Cuộc phản kích này của tập đoàn quân 11 được tổ chức chu đáo, lại có không quân yểm hộ. Bị đánh bất ngờ, quân địch phải quay trở lại và bắt đầu vội vã rút lui. Các đơn vị của tập đoàn quân 11 đã truy kích quân địch và gây cho chúng những thiệt hại lớn. Nếu như không có tập đoàn quân 16 địch đến viện trợ kịp thì quân đoàn cơ giới 56 của Man-xten có thể đã bị tiêu diệt.
Khi giặc đưa quân bổ sung tới, thì các tập đoàn quân 11 và 27 của Phương diện quân Tây-bắc phải rút về tuyến Xta-rai-a Ru-xa - Khôn-mơ.
Mũi tấn công của cụm tập đoàn quân “Bắc” gồm hai tập đoàn quân và một đạo quân xe tăng đã gặp phải sự chống cự kịch liệt của quân ta ở khu phòng thủ Lu-ga, khu Đờ-nô, trên tuyến Xta-rai-a Ru-xa - Khôn-mơ cũng như ở vùng Kin-ghi-xép - Xi-vée-xki. Ở đây, địch bị thiệt hại nặng và vì thiếu lực lượng bổ sung, chúng không đủ sức tiến đánh Lê-nin-grát.
Kết quả của chiến trận Xmô-len-xcơ, các hoạt động ngày càng tích cực và sức mạnh đánh trả ngày càng tăng của các Phương diện quân Bắc, Tây-bắc, của Hạm đội Ban-tích và của không quân làm cho kế hoạch “Bác-ba-rô-xơ” của địch bị vỡ một mảng lớn.
Trong thời gian này, tình hình ở U-crai-na, nơi bộ đội hướng tây-nam đang tiến hành những trận đánh phòng ngự ác liệt, diễn ra như thế nào?
Chiếm U-crai-na có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với bọn Đức. Chúng cố gắng nhanh chóng chiếm lấy U-crai-na để làm cho Liên Xô mất một cơ sở công nghiệp và nông nghiệp lớn nhất, đồng thời để củng cố nền kinh tế của chúng bằng quặng miền Cri-vô-rô-giơ-xcơ, than Đôn-bát, măng-gan Ni-cô-pôn-xcơ và lúa mì U-crai-na.
Đứng về mặt chiến lược, chiếm được U-crai-na sẽ đảm bảo chi viện từ phía nam cho cụm tập đoàn quân “Trung tâm” là cụm vẫn được giao nhiệm vụ chủ yếu nhất là chiếm Mát-xcơ-va.
Ngay từ những ngày đầu chiến tranh, quá trình diễn biến của các sự kiện ở U-crai-na cũng phát triển không đúng như kế hoạch chiến tranh chớp nhoáng của bọn Hít-le dự tính. Trong khi rút lui trước các đòn đột kích của quân Đức, mặc dù bị thiệt hại rất nặng nề, Hồng quân vẫn dũng cảm chống cự lại.
Tập đoàn quân 5 do tướng M.I. Pô-ta-pốp chỉ huy, tập đoàn quân 26 do tướng Ph.Ya. Cô-xten-cô chỉ huy, và tập đoàn quân 6 do tướng I.N. Mu-dư-chen-cô chỉ huy đã chiến đấu vô cùng ngoan cường, tài giỏi và dũng mãnh.
Tôi đặc biệt phấn khởi nhắc đến các tư lệnh xuất sắc đó còn là bởi vì trước đây họ là các trung đoàn trưởng thuộc sư đoàn Cô-dắc sông Đông 4 và tôi đã có dịp cùng với họ, trong những năm 1932 - 1936, phục vụ dưới lá cờ của sư đoàn kỳ cựu nổi tiếng đó của tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất.
Gặp phải sức đánh trả quyết liệt của quân ta ở vùng phòng thủ vững chắc Ki-ép, quân Đức ngoặt hẳn về phía nam để thọc vào hậu phương các tập đoàn quân 6 và 12 của ta đang rút khỏi tuyến Béc-đi-chép - Xta-rô-côn-xtan-ti-nốp - Prô-xcu-rốp. Một bộ phận lực lượng quân địch đã tiến tới phía nam Ki-ép đến trận địa của tập đoàn quân 26. Nhưng cuộc tiến quân này không có ý nghĩa quan trọng bởi vì bộ phận chủ yếu của các tập đoàn quân “Nam” của địch đã đi xuống phía nam. Sắp diễn ra giao chiến ác liệt giữa các tập đoàn quân 6, 12, và 18 của ta với đạo quân địch thọc vào hậu phương của họ.
Tình hình thêm gay go còn là vì tập đoàn quân 11 Đức sau khi đột phá phòng ngự của Phương diện quân Nam đã đánh qua Mô-ghi-lép - Pô-đôn-xcơ, tiến tới sườn và hậu phương của ba tập đoàn quân này.
Bộ đội của Phương diện quân Tây-nam phối hợp với Phương diện quân Nam cố gắng dùng các trận phản kích để kìm bước tiến của địch. Quân ta đã gây cho địch những thiệt hại lớn, song không chặn được chúng. Sau khi bố trí lại lực lượng chút ít, quân Đức lại đánh vào các tập đoàn quân 6 và 12 của ta đang rút lui, lần này các tập đoàn của ta đã rơi vào một tình thế khó khăn.
Vì cách xa và khó chỉ huy các tập đoàn quân này nên Phương diện quân Tây-nam đề nghị chuyển thuộc họ sang bộ tư lệnh Phương diện quân Nam. Đại bản doanh đồng ý, và các tập đoàn quân 6 và 12 đã được chuyển sang Phương diện quân Nam do đại tướng I.V. Chiu-lê-nép chỉ huy.
Phần lớn các binh đoàn đang rút lui của hai tập đoàn quân này đã bị bao vây trong thời gian chuyển sang Phương diện quân Nam.
Do bị thương nặng, tư lệnh tập đoàn quân 6, tướng I.N. Mu-dư-chen-cô bị bắt làm tù binh. Tư lệnh tập đoàn quân 12, tướng P.G. Pô-nê-đê-hn cũng không tránh được số phận đó. Lúc đó Phương diện quân Nam đang trong hoàn cảnh rất khó khăn, nặng nề. Tập đoàn quân 9 vừa rút lui vừa chiến đấu trong tình thế nửa bị bao vây. Các đơn vị còn lại của nó rút về sông In-gu-lét.
Việc quân địch tiến đến Đờ-nép, chọc thủng về phía Da-pô-rô-giơ, Đne-prô-pê-tơ-rốp-xcơ và Ô-đét-xa đã làm cho quân đội Xô-viết ở toàn bộ hướng tây-nam lâm vào tình thế phức tạp nghiêm trọng. Song quân Đức cũng phải trả giá rất đắt đối với thắng lợi này. Chúng bị tiêu hao trầm trọng và bị thiệt hại nặng.
Tất cả những sự kiện nói trên xảy ra từ sau khi tôi rời Phương diện quân Tây-nam về Mát-xcơ-va trở lại cương vị Tổng tham mưu trưởng và chính trên cương vị này mà tôi tham gia vào các sự kiện đó cùng gánh vác trách nhiệm với các ủy viên Đại bản doanh, cùng chia sẻ nỗi đau đớn của những thất bại và niềm vui sướng của những thắng lợi thưa thớt của quân ta. Ở đây tôi nghĩ rằng đúng chỗ để nói ít lời về công việc của Đại bản doanh và của I.V. Xta-lin.
Tháng 7-1941, theo quyết định của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng, hệ thống cơ quan chỉ đạo chiến lược của các lực lượng vũ trang được cải tổ. Ngày 10-7, Hội đồng quốc phòng Nhà nước quyết định cải tổ Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh thành Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Thành phần Đại bản doanh gồm có I V. Xta-lin (Chủ tịch), V.M. Mô-lô-tốp, các nguyên soái X.K. Ti-mô-sen-cô, X.M. Bu-đi-on-nưi, K.E. Vô-rô-si-lốp B.M. Sa-pô-sni-cốp, tướng G.K. Giu-cốp. Ngày 19-7, I.V. Xta-lin được cử làm Ủy viên nhân dân quốc phòng và ngày 8-8 được cử làm Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang Liên Xô. Từ ngày dó, cơ quan lãnh đạo chiến lược cao nhất được gọi là Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao.
Việc cử I.V. Xta-lin - người có uy tín lớn - làm Tổng tư lệnh tối cao được nhân dân và quân đội nhiệt liệt hoan nghênh.
Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng cũng được cải tổ, chức năng của từng Cục được xác định rõ, các cơ quan mới được thành lập.
Cùng với việc thành lập Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao, để phối hợp tốt hơn nữa các hoạt động của các phương diện quân và các hạm đội và để thống nhất các cố gắng của các quân chủng tại các hướng chiến lược quan trọng nhất, đã thành lập ba Bộ tổng tư lệnh. Nhưng điều đó không làm trở ngại việc Đại bản doanh lãnh đạo các phương diện quân, các hạm đội và thậm chí các tập đoàn quân. Bởi vì hồi ấy các lực lượng dự bị có hạn của bộ binh và không quân hoàn toàn ở trong tay Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Việc này, tất nhiên, không thể không có ảnh hưởng đến mức nào đó tới sự chủ động của các Tổng tư lệnh các hướng.
Cùng hồi đó, theo chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng, đã thực hiện thêm một biện pháp nữa có ảnh hưởng tốt tới khả năng chiến đấu của quân đội, Đảng đã đánh giá đúng, xứng đáng ý nghĩa của các cơ quan hậu cần trong thời gian chiến tranh. Chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần Hồng quân được đặt ra, một hệ thống mới các cơ quan hậu cần trong tất cả các lực lượng vũ trang được kiên quyết thành lập. Tại các phương diện quân và các hạm đội thành lập các cục hậu cần, trong các tập đoàn quân thành lập các phòng hậu cần, tại các quân đoàn và sư đoàn có chức phó tư lệnh phụ trách về vật chất kỹ thuật. Theo quyết định của Ban chấp hành trung ương Đảng, tại các phương diện quân và các tập đoàn quân thành lập các phòng chính trị hậu cần và định ra chức vụ ủy viên Hội đồng quân sự chuyên trách hậu cần. Các tổ chức hậu cần của ta đã tiến hành công việc to lớn trong việc chuẩn bị các chiến dịch và các trận lớn. Về điều đó chúng ta sẽ còn nói tới sau.
Đại bản doanh không có cơ quan điều khiển công việc nào khác ngoài Bộ Tổng tham mưu. Thông thường, các mệnh lệnh và chỉ thị của Bộ Tổng tư lệnh tối cao đều đi qua Bộ Tổng tham mưu. Các mệnh lệnh và chỉ thị này được thảo ra và thường được thông qua trong điện Crem-lanh, tại phòng làm việc của I.V. Xta-lin.
Đó là một căn phòng rộng, khá sáng sủa. Các tường lát bằng gỗ sồi màu sẫm, một chiếc bàn dài phủ nỉ xanh. Trên tường bên trái và phải, treo các chân dung Mác, Ăng-ghen, Lê-nin. Trong thời gian chiến tranh, có các chân dung Xu-vô-rốp và Cu-tu-dốp. Ghế cứng, không có đồ vật gì thừa. Một quả địa cầu lớn đặt ở phòng bên, cạnh quả địa cầu có chiếc ghế, trên tường là các tấm bản đồ thế giới.
Phía sâu trong phòng làm việc, bên tường là bàn làm việc của I.V. Xta-lin, lúc nào cũng đầy tài liệu, giấy tờ, bản đồ. Ở đây có máy điện thoại mạnh đường dài và máy điện thoại trong Crem-lanh, một lô các bút chì màu đã gọt nhọn. I.V. Xta-lin thường viết ý kiến của mình bằng bút chì xanh, viết nhanh, ngoáy, nhưng khá dễ xem.
Lối vào phòng làm việc đi qua phòng của A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép và một căn phòng nhỏ của đội trưởng bảo vệ riêng Tổng tư lệnh tối cao. Sau phòng làm việc là phòng nghỉ và phòng liên lạc, ở đây có các máy điện thoại và máy “Bô-đô”. Qua các máy này, A.N. Pô-xcơ-rê-bư-xép tổ chức các cuộc nói chuyện của I.V. Xta-lin với các tư lệnh phương diện quân và các đại diện của Đại bản doanh tại các phương diện quân.
Các cán bộ Bộ Tổng tham mưu và các đại diện Đại bản doanh trải các bản đồ trên chiếc bàn lớn và theo các bản đồ đó báo cáo về tình hình ở các mặt trận, đứng báo cáo, đôi khi dùng sổ tay. I.V. Xta-lin thường vừa nghe vừa đi đi lại lại trong phòng bằng những bước đi rộng, người hơi ngả, chốc chốc lại đi tới gần bàn lớn, cúi xuống chăm chú xem bản đồ trải rộng. Thỉnh thoảng quay lại bàn của mình, lấy gói thuốc sợi, tẽ rời thuốc và chậm rãi nhét vào tẩu.
Nhiệm vụ cơ bản của Đại bản doanh là nghiên cứu và đề ra nhiệm vụ chiến lược cho các đơn vị, phân bố các lực lượng và phương tiện giữa các phương diện quân và các hướng, đặt kế hoạch và quyết định sự hoạt động chiến đấu về toàn cục cho quân đội và hải quân. Trong việc này, các lực lượng dự bị của Đại bản doanh, luôn luôn được bổ sung và thành lập thêm, đóng vai trò to lớn. Các lực lượng này là công cụ mạnh mẽ trong tay Đại bản doanh để tăng cường một cách đáng kể cho các đơn vị quân ta ở các hướng quan trọng nhất và trong các chiến dịch có nhiệm vụ nặng nhất.
Các cuộc thảo luận trong Đại bản doanh về những quyết định chiến lược quan trọng thường có sự tham gia của các ủy viên Hội đồng quốc phòng Nhà nước. Các cán bộ lãnh đạo Bộ tổng tham mưu, các tư lệnh không quân, pháo binh, Chủ nhiệm Tổng cục xe tăng, xe bọc thép, Chủ nhiệm hậu cần Hồng quân, các cán bộ lãnh đạo các tổng cục khác của Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng, thường được mời tới họp. Tư lệnh các phương diện quân được triệu tập về Đại bản doanh, khi xem xét các vấn đề liên quan tới phạm vi của họ, nhất là khi thảo luận về trận đánh sắp mở. Có khi các công trình sư máy bay, xe tăng, pháo binh cũng được mời tới dự.
Nếp làm việc của Đại bản doanh khẩn trương, không ồn ào, mọi người đều có thể nói lên ý kiến của mình. I.V. Xta-lin đối xử với mọi người như nhau, nghiêm nghị và khá chính quy. I.V. Xta-lin biết nghe, khi người báo cáo nắm chắc vấn đề .
Nhân đây cần nói rằng, như tôi đã được thấy rõ trong những năm chiến tranh, I.V. Xta-lin hoàn toàn không phải là người mà khi quan hệ với người đó, ta không thể đặt ra những vấn đề gay gắt, không thể tranh luận, mà thậm chí không thể giữ vững quan điểm của mình. Nếu như có ai khẳng định trái lại, tôi xin nói thẳng: điều khẳng định của họ không đúng.
Cơ quan làm việc của Đại bản doanh là Bộ Tổng tham mưu. Hồi đầu chiến tranh, tôi cùng các cán bộ lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu thực tế là suốt ngày đêm phải cùng một lúc nhận những tin tức có khi trái ngược nhau từ tất cả các mặt trận gửi về, và nghiên cứu báo cáo lên Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao những đề nghị khẩn cấp. Chức năng của Bộ Tổng tham mưu ngay từ đó trở nên phức tạp. Khối lượng công việc tăng lên quá nhanh, nhiều cái trong việc tổ chức công việc ở thời bình là tốt, nay không còn hợp nữa. Tuy đã nhanh chóng chỉnh đốn lại, song chúng tôi không làm ngay được mọi việc.
Khó mà có được những tài liệu tình báo chính xác và xác định được tính chất của sự bố trí của quân ta và của lực lượng địch vào mọi thời gian khác nhau trong ngày đêm; khó mà nhanh chóng đưa ra được những đề nghị có căn cứ về khả năng bảo đảm vũ khí, đạn dược cho mặt trận này hay mặt trận kia; khó mà viết được những chỉ thị quan trọng nhất của Bộ Tổng tư lệnh tối cao do Đại bản doanh giao cho trong vòng mấy tiếng đồng hồ và có khi trong vòng mấy phút.
Đi lên Đại bản doanh báo cáo với I.V. Xta-lin, mà mang theo các bản đồ còn có những “điểm trắng” nào đó, hoặc với những số liệu ước lượng, chứ đừng nói gì những số liệu quá sự thật, là điều không thể được. I.V. Xta-lin không chịu được lối trả lời mò mẫm, đòi hỏi phải hết sức đầy đủ và rõ ràng.
I V. Xta-lin nhạy cảm đặc biệt đối với những chỗ yếu trong các báo cáo hoặc các tài liệu, phát hiện ra ngay những chỗ đó và nghiêm khắc khiển trách người có lỗi về báo cáo không rành rọt.
Có được trí nhớ giỏi, I.V. Xta-lin nhớ kỹ những việc đã nói, phê bình khá gay gắt đối với những việc bị quên. Vì vậy, khi chuẩn bị các tài liệu tham mưu, chúng tôi làm hết sức kỹ càng, với mọi khả năng của mình trong những ngày đó.
Song, trong khi tình hình ở các mặt trận vô cùng nặng nề, trong khi nhịp sống ở điều kiện chiến tranh chưa được hoàn toàn vào nền nếp, tôi cần phải nói tới nỗ lực của các cán bộ lãnh đạo Bộ tổng tham mưu: về toàn cục, trong Bộ Tổng tham mưu đã xây dựng được ngay nếp làm việc khẩn trương và sáng tạo, mặc dù mức độ căng thẳng trong công tác hồi đó lên đến tột bậc.
Về sau trong suốt thời gian chiến tranh, tôi vẫn giữ được mối quan hệ riêng và liên hệ công tác với Bộ Tổng tham mưu, mối liên hệ này đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong điều kiện ở mặt trận, khi chuẩn bị và lúc tiến hành các chiến dịch lớn. Bộ Tổng tham mưu đã tiến hành có kết quả việc chuẩn bị các lực lượng vũ trang mới, có đủ khả năng và nhanh chóng nghiên cứu đề ra dự thảo các chỉ thị và mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh tối cao, theo dõi chặt chẽ việc thực hiện các chỉ thị của Hội đồng quốc phòng Nhà nước, lãnh đạo công tác của các bộ tham mưu trung ương các quân chủng và binh chủng, có tín nhiệm trong việc báo cáo các vấn đề lớn và quan trọng với Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao.
I.V. Xta-lin suy tính các vấn đề quan trọng phần nhiều căn cứ vào báo cáo của các đại diện Đại bản doanh được phái đến các nơi để xem xét tình hình ngay tại chỗ và hỏi ý kiến các bộ tư lệnh binh đoàn, hoặc căn cứ vào những kết luận của Bộ Tổng tham mưu, những ý kiến và các đề nghị của các bộ tư lệnh phương diện quân và các thông báo đặc biệt.
Tôi hiểu biết I.V. Xta-lin được sát từ sau năm 1940, khi tôi làm việc ở chức vụ Tổng tham mưu trưởng, và trong thời gian chiến tranh ở chức vụ Phó Tổng tư lệnh tối cao.
Về bề ngoài của I.V. Xta-lin, nhiều người đã diễn tả nhiều lần. Người không cao và trông ngoài không có gì đặc biệt. I.V. Xta-lin gây cho những người khác ấn tượng mạnh mẽ. Không có cử chỉ cách điệu hóa, I.V. Xta-lin hấp dẫn người nói chuyện với mình bằng cách đối xử giản dị. Phong thái tự nhiên khi nói chuyện, tài diễn đạt một cách rành rọt ý nghĩ, trí thông minh phân tích bẩm sinh, sự uyên bác và trí nhớ giỏi, thậm chí làm cho những người tài giỏi và rất hiểu biết cũng phải tập trung suy nghí và thận trọng trong khi nói chuyện với I.V. Xta-lin.
I.V. Xta-lin không thích ngồi, trong khi nói chuyện chậm rãi đi đi lại lại trong phòng, chốc chốc đứng lại, tới gần người nói chuyện và nhìn thẳng vào mắt người đó. I.V. Xta-lin có cái nhìn sáng sủa, sâu sắc. I.V. Xta-lin nói khoan thai, mạch lạc từng câu một, hầu như không có điệu bộ, trong tay thường cầm tẩu thuốc, cả lúc tẩu thuốc đã tắt, thích dùng cán tẩu rẽ râu mép.
I.V. Xta-lin nói giọng Gru-di-a, nhưng rất thạo tiếng Nga và thích dùng những hình tượng so sánh văn học, những ví dụ, những ẩn dụ. I.V. Xta-lin ít cười, và khi cười thì cười khẽ, tựa như cười thầm. Nhưng hiểu chuyện vui và biết đánh giá sự tinh tế và lời nói đùa.
I.V. Xta-lin có sức nhìn rất tốt, đọc vào bất kỳ lúc nào trong ngày, đêm cũng không cần kính. Thông thường I.V. Xta-lin tự tay mình viết. Đọc nhiều và là người hiểu biết rộng trong đủ mọi lĩnh vực. Sức làm việc rất lớn, tài nhanh chóng hiểu được tài liệu đã giúp cho trong một ngày I.V. Xta-lin xem và nắm được một số lượng tài liệu về đủ mọi vấn đề.
Bình thường I.V. Xta-lin bình tĩnh và từ tốn, nhưng có khi hay nổi nóng. Khi đó mất tính khách quan, con người thay đổi ngay, nét mặt càng tái, mắt nhìn trở nên nặng nề và khắc nghiệt. Tôi thấy có ít người can đảm chịu nổi cơn giận dữ của I.V. Xta-lin và dám chống lại.
Khó mà nói được đặc điểm gì lớn hơn cả ở I.V. Xta-lin. Một con người hiểu biết nhiều mặt và có tài, I.V. Xta-lin không phải là người thản nhiên. I.V. Xta-lin có nghị lực lớn, tính tình kín đáo và nóng.
I.V. Xta-lin hàng ngày làm việc có phần khác thường: làm việc chủ yếu là vào chiều tối và đêm. Không dậy trước 12 giờ trưa. Làm việc nhiều, tới 12 - 15 tiếng đồng hồ trong một ngày đêm. Để thích ứng với giờ làm việc của I.V. Xta-lin, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hội đồng Ủy viên nhân dân, các Bộ Ủy viên nhân dân và các cơ quan Nhà nước và các cơ quan lập kế hoạch chủ chốt, cũng làm việc đến tận đêm khuya. Điều đó rất làm mệt mọi người.
Nhiều vấn đề chính trị, quân sự có tính chất quốc gia được thảo luận và giải quyết, không phải chỉ trong các cuộc họp chính thức của Bộ chính trị và trong Ban bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng, mà cả vào các buổi tối trong bữa ăn tại nhà ở hoặc tại nơi nghỉ mát của I.V. Xta-lin. Ở đây, thường có mặt các ủy viên Bộ chính trị gần gũi nhất của I.V. Xta-lin. Ngay trong bữa ăn thường hết sức giản dị, I.V. Xta-lin giao nhiệm vụ cho các ủy viên Bộ chính trị hoặc các Ủy viên nhân dân được mời đến để bàn về các vấn đề thuộc phạm vi của họ. Cùng với Ủy viên nhân dân quốc phòng, có khi Tổng tham mưu trưởng cũng được mời đến.
Trong thời kỳ trước chiến tranh, tôi khó đánh giá được độ sâu về hiểu biết và năng lực của I.V. Xta-lin trong lĩnh vực khoa học quân sự, trong các vấn đề nghệ thuật chiến dịch và chiến lược, bởi vì Bộ chính trị và riêng I.V. Xta-lin (ít ra thì cũng vào những khi tôi được có mặt) chủ yếu là xem xét và quyết định những vấn đề về tổ chức, động viên và vật chất, kỹ thuật.
Tôi chỉ có thể nói rằng I.V. Xta-lin luôn luôn chú ý nhiều đến các vấn đề vũ khí và kỹ thuật chiến đấu, I.V. Xta-lin thường mời các tổng công trình sư máy bay, pháo binh và xe tăng tới cặn kẽ hỏi họ về những chi tiết cơ cấu của những loại kỹ thuật chiến đấu đó ở nước ta và ở nước ngoài. Cần phải đánh giá cho dúng là I.V. Xta-lin hiểu biết khá đầy đủ những tính chất của các loại vũ khí cơ bản.
I.V. Xta-lin đòi hỏi các tổng công trình sư, các giám đốc các nhà máy quốc phòng, mà trong số này nhiều người I.V. Xta-lin quen biết riêng, phải sản xuất các loại mẫu máy bay, xe tăng, pháo và kỹ thuật quan trọng nhất khác trong thời hạn quy định, và về chất lượng không những phải bằng mà còn phải hơn những loại của nước ngoài.
Như tôi đã nói, nếu không được I.V. Xta-lin chuẩn y thì không một loại mẫu vũ khí nào hoặc kỹ thuật chiến đấu nào được sử dụng để trang bị cho quân đội hoặc bị gạt đi. Tất nhiên điều đó đụng chạm đến sự chủ động của Ủy viên nhân dân quốc phòng và các Phó ủy viên nhân dân quốc phòng phụ trách vấn đề trang bị của Hồng quân.
Trước cuộc chiến tranh giữ nước và đặc biệt sau chiến tranh, I.V. Xta-lin được coi là người đã giữ vai trò lỗi lạc trong việc xây dựng các lực lượng vũ trang, trong việc đề ra những nền tảng của khoa học quân sự Xô-viết, những nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực chiến lược và cả nghệ thuật chiến dịch.
I.V. Xta-lin có thực sự là nhà tư tưởng quân sự lỗi lạc trong lĩnh vực xây dựng các lực lượng vũ trang và là người tinh thông các vấn đề về chiến dịch và chiến lược không?
Là một cán bộ quân sự, tôi đã tìm hiểu kỹ I.V. Xta-hn, bởi vì đã cùng với I.V. Xta-lin trải qua suốt cả cuộc chiến tranh.
I.V. Xta-lin nắm được các vấn đề tổ chức các trận đánh của một phương diện quân và các trận đánh của nhiều phương diện quân và đã lãnh đạo các trận đánh đó với sự hiểu biết đầy đủ công việc, hiểu biết đầy đủ các vấn đề chiến lược lớn. Nhưng khả năng đó của I.V. Xta-lin, với tư cách là vị Tổng tư lệnh, đặc biệt được thể hiện bắt đầu từ Xta-lin-grát.
Trong việc lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang nói chung, trí tuệ sẵn có, trực giác lớn lao đã giúp I.V. Xta-lin. I.V. Xta-lin biết tìm ra khâu chủ yếu trong tình thế chiến lược và nắm lấy nó, đối phó trả lại quân giặc, tiến hành những trận tấn công lớn. Rõ ràng I.V. Xta-lin là vị Tổng tư lệnh tối cao xứng đáng.
Tất nhiên, I.V. Xta-lin không đi vào toàn bộ khối lượng các vấn đề mà các đơn vị quân đội và các cơ quan chỉ huy các cấp phải thực hiện tỉ mỉ để chuẩn bị tốt trận đánh của một hoặc của nhiều phương diện quân. Và điều đó I.V. Xta-lin không nhất thiết phải biết đến. Trong những trường hợp này, lẽ đương nhiên, I.V. Xta-lin bàn bạc với các ủy viên Đại bản doanh, Bộ Tổng tham mưu và các chuyên viên về các vấn đề pháo binh, xe tăng, thiết giáp, không quân và hải quân, về các vấn đề bảo đảm hậu phương và cung cấp. Riêng I.V. Xta-lin viết nhiều tài liệu quan trọng, trong số đó có tài liệu nói về phương thức tấn công của pháo binh, về việc giành quyền khống chế trên không, về phương thức bao vây địch, về việc cắt các đạo quân địch bị bao vây và tiêu diệt chúng từng phần một, v.. v...
Tất cả những vấn đề hết sức quan trọng đó của nghệ thuật quân sự là những kết quả đạt được trên thực tiễn, trong các trận đánh và chiến dịch chống quân thù, là những kết quả của sự suy nghí và tổng hợp sâu sắc kinh nghiệm của tập thể lớn các tướng lĩnh và của bản thân các quân chủng, binh chủng. Ở đây, công lao của I.V. Xta-lin là ở chỗ đã tiếp nhận một cách đúng đắn những ý kiến của các chuyên gia quân sự lớn của chúng ta, bổ sung và phát triển những ý kiến đó và đã tổng hợp lại trong các thông tư, chỉ thị và điều lệnh, nhanh chóng đưa xuống quân đội làm phương hướng lãnh đạo thực hiện. Hơn nữa, trong việc bảo đảm các trận đánh, xây dựng các lực lượng dự bị chiến lược, tổ chức sản xuất kỹ thuật chiến tranh và nói chung trong việc tạo ra mọi điều kiện cần thiết cho tiền tuyến, tôi xin nói thẳng là I.V. Xta-lin đã tỏ ra là một nhà tổ chức lỗi lạc. Nếu như chúng ta không đánh giá đúng điều đó thì sẽ thiếu sự công bằng.
Nhưng, tất nhiên, trước hết chúng ta cần phải rạp mình cúi chào người Xô-viết chúng ta đã hy sinh cả những thứ cần thiết nhất, không ăn và không ngủ, làm tất cả những gì mình cần làm để làm tròn những nhiệm vụ mà Đảng cộng sản đề ra trước nhân dân nhằm tổ chức đánh thắng quân thù.
Tháng thứ hai của chiến tranh diễn ra, lời hứa hẹn được quảng cáo ầm ĩ của Hít-le là trong thời hạn ngắn nhất sẽ tiêu diệt Hồng quân, chiếm Mát-xcơ-va và tiến tới sông Đông, đã bị tan vỡ. Ở khắp nơi, quân Đức đều bị những thiệt hại hết sức lớn. Mặt trận chung của địch bị mở rộng ra. Mật độ chiến dịch của quân Đức bị giảm thấp rất nhiều, và bây giờ chúng không còn đủ số quân để tấn công cùng một lúc ở tất cả các hướng chiến lược.
Nhưng tuy vậy, các lực lượng xung kích chủ yếu của quân Đức - các đạo quân xe tăng thiết giáp và không quân - vẫn hoàn toàn có khả năng làm cho quân ta thiệt hại nghiêm trọng bằng những đòn đánh tập trung lớn.
Trước tình hình nặng nề tại các mặt trận, Đảng đã đặc biệt chú trọng tới tinh thần của quân đội. Theo chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng, Tổng cục chính trị Hồng quân, mà nói chung trong những năm chiến tranh đã tiến hành công tác sáng tạo to lớn trong quân đội, hồi giữa tháng 7 đã gửi hai chỉ thị quan trọng cho các đơn vị, trong đó nêu sự đánh giá về tình hình trong ba tuần lễ đầu chiến tranh đề ra yêu cầu nâng cao vai trò tiền phong của các đảng viên và đoàn viên thanh niên cộng sản ngay trong chiến đấu và trong việc thi hành các mệnh lệnh của người chỉ huy.
Các cơ quan chính trị, các tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản, gánh vác trách nhiệm đặc biệt về tinh hình tư tưởng đơn vị và khả năng chiến đấu của nó, có nhiệm vụ làm cho các đảng viên và đoàn viên thanh niên cộng sản, đặc biệt là trong tình thế khó khăn và phức tạp, biết dẫn dắt các chiến sĩ theo mình, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện hoang mang, vô tổ chức, biết phổ biến kinh nghiệm chiến đấu, nêu gương dũng cảm và ngoan cường, chủ động và nhanh trí, giúp đỡ lẫn nhau trong chiến đấu. Công tác chính trị trong quân đội ngày càng được tăng cường đã mang lại nhiều kết quả và đã có ý nghĩa to lớn.
Sau khi thảo luận về tình hình chung với Cục trưởng Cục tác chiến V.M. Giô-lô-bin, tướng A.M. Va-xi-lép-xki và các cán bộ tác chiến khác của Bộ Tổng tham mưu, chúng tôi đi đến kết luận rằng, trong thời gian gần nhất chắc là quân địch sẽ mưu toan đánh tan Phương diện quân Trung ương của ta để thọc vào sườn và hậu phương của Phương diện quân Tây-nam.
Còn về cuộc tấn công vào Mát-xcơ-va, thì cuộc tấn công này chắc là chỉ sẽ bắt đầu khi nào quân địch khắc phục được nguy cơ từ phía Phương diện quân Trung ương và từ phía các đơn vị thuộc hướng tây-nam của ta đối với sườn cụm tập đoàn quân trung ương của chúng. Ở hướng tây-bắc, quân địch sau khi tăng cường lực lượng, muốn nhanh chóng chiếm lấy Lê-nin-grát và liên kết với quân Phần Lan.
Một lần nữa sau khi cân nhắc và thẩm tra kỹ càng mọi việc, tin chắc rằng những phán đoán đó là đúng, tôi quyết định báo cáo ngay những điều này với Tổng tư lệnh tối cao để có những biện pháp đối phó cần thiết.
Ngày 29-7, tôi gọi dây nói tới I.V. Xta-lin đề nghị được gặp để báo cáo công việc khẩn cấp.
Mang theo bản đồ tình hình chiến lược, bản đồ đội hình quân Đức những tài liệu về tình hình quân ta và các lực lượng dự trữ vật chất kỹ thuật của các phương diện quân và của trung ương, tôi tới phòng tiếp khách gặp A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép. Tôi yêu cầu báo cáo là tôi đã có mặt. A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép trả lời:
- Mời đồng chí ngồi. Có lệnh chờ đồng chí Mê-khơ-lít.
Mười phút sau tôi được mời vào gặp I.V. Xta-lin.
- Thế nào, đồng chí có gì báo cáo đi - I.V. Xta-lin nói.
Trải các tấm bản đồ lên bàn, tôi báo cáo cặn kẽ về tình hình, bắt đầu từ hướng tây-bắc và kết thúc bằng hướng tây-nam. Tôi nêu lên những số liệu về những thiệt hại chủ yếu ở các mặt trận và quá trình xây dựng các lực lượng dự bị. Tôi nói tỉ mỉ về sự bố trí lực lượng của quân địch, kể về các cụm tập đoàn quân của chúng và trình bày tính chất của những hoạt động chiến lược của địch mà chúng tôi phán đoán. I.V. Xta-lin chăm chú nghe, hơi cúi xuống xem xét các bản đồ, tất cả những ghi chú nhỏ trên các bản đồ đó.
- Do đâu mà đồng chí biết được quân Đức sẽ hành động như thế? - L.D. Mê-khơ-lít hỏi.
- Tôi không biết được các kế hoạch quân Đức sẽ hành động, - tôi đáp, - nhưng, qua phân tích tình hình tôi thấy chúng có thể hành động đúng như vậy chứ không thể nào khác. Những điều phán đoán của chúng tôi dựa trên sự phân tích trạng thái và sự bố trí của quân đội Đức và trước hết của các đạo quân xe tăng thiết giáp và cơ giới là lực lượng chủ chốt trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược của chúng.
- Đồng chí báo cáo tiếp đi. - I.V. Xta-lin nói.
Tôi tiếp tục:
- Ở hướng chiến lược Mát-xcơ-va, trong những ngày sắp tới quân Đức không thể mở trận tấn công, bởi vì chúng đã bị những thiệt hại quá lớn. Ở đây chúng không có các lực lượng dự bị chiến lược lớn để đảm bảo cánh phải và cánh trái của cụm tập đoàn quân “Trung tâm”; ở hướng Lê-nin-grát, nếu không có lực lượng tăng viện, quân Đức không thể mở trận đánh để chiếm Lê-nin-grát và hợp với quân Phần Lan; ở U-crai-na, các trận chính có thể nổ ra tại vùng Đơ-me-prô-pê-tơ-rốp-xcơ, Crê-men-chúc, nơi quân chủ lực của đạo quân xe tăng thiết giáp thuộc cụm tập đoàn quân “Nam” của địch đã kéo tới; Nơi yếu và nguy hiểm nhất trên các mặt trận của chúng ta là Phương diện quân Trung ương. Các tập đoàn quân bảo vệ hướng U-nê-cha, Gô-men quá ít quân và yếu về kỹ thuật. Quân Đức có thể lợi dụng chỗ yếu này đánh vào sườn và hậu phương của Phương diện quân Tây-nam.
- Đồng chí đề nghị như thế nào? - I.V. Xta-lin hỏi.
- Trước hết phải củng cố Phương diện quân Trung ương, giao cho nó ít nhất ba tập đoàn quân được tăng cường bằng pháo binh. Một tập đoàn quân lấy của hướng tây, một tập đoàn quân lấy của Phương diện quân Tây-nam, tập đoàn quân thứ ba lấy ở lực lượng dự bị của Đại bản doanh. Cứ một tư lệnh có kinh nghiệm và kiên nghị để phụ trách mặt trận. Cụ thể tôi đề nghị cử N.Ph. Va-tu-tin.
- Sao, - I.V. Xta-lin hỏi, - đồng chí cho rằng có thể làm yếu hướng vào Mát-xcơ-va?
- Không, tôi không nghĩ vậy. Sau 12 - 15 ngày, chúng ta có thể đưa từ Viễn Đông về ít nhất 8 sư đoàn có khả năng chiến đấu đầy đủ trong đó có một sư đoàn xe tăng. Số quân này sẽ không làm yếu mà sẽ làm mạnh thêm hướng Mát-xcơ-va.
- Còn Viễn Đông, chúng ta sẽ giao cho bọn Nhật? - L.D. Mê-khơ-lít bực bội hỏi.
Tôi không trả lời và nói tiếp:
- Cần phải đưa toàn bộ Phương diện quân Tây-nam về đằng sau Đờ-nép. Phía sau nơi tiếp giáp giữa Phương diện quân Trung ương và Phương diện quân Tây-nam, cần tập trung lực lượng dự bị ít nhất là 5 sư đoàn được tăng cường.
- Còn Ki-ép thì sao? - I.V. Xta-lin hỏi.
Tôi hiểu hai chữ “bỏ Ki-ép” đối với tất cả những người Xô-viết và đối với I.V Xta-lin có nghĩa như thế nào. Nhưng tôi không thể đi theo tình cảm. Là cán bộ quân sự tôi bắt buộc phải đề nghị một quyết định, theo quan điểm của tôi, duy nhất có thể thực hiện được trong tình hình đã diễn ra.
- Buộc phải bỏ Ki-ép, - tôi trả lời. - ở hướng tây cần phải khẩn cấp tổ chức cuộc phản kích để tiêu diệt địch ở mỏm En-nha. Quân địch có thể dùng bàn đạp này để đánh vào Mát-xcơ-va.
- Phản kích nào nữa ở đấy, sao lại có chuyện hồ đồ ấy? - I.V. Xta-lin bực lên - Thế nào mà đồng chí lại có thể nghĩ đến việc bỏ Ki-ép cho quân thù?
Tôi không thể kìm được mình và trả lời:
- Nếu như đồng chí cho rằng Tổng tham mưu trưởng chỉ có thể làm được những chuyện hồ đồ, vậy thì Tổng tham mưu trưởng ở đây không có việc gì để làm nữa. Tôi đề nghị cho tôi thôi chức vụ Tổng tham mưu trưởng và cử tôi ra tiền tuyến. Chắc là ở ngoài đó có ích hơn đối với Tổ quốc.
- Đồng chí dừng nóng, - I.V. Xta-lin nói - Nếu đồng chí đặt vấn đề một cách như vậy, thì không có đồng chí chúng tôi cũng xong...
Tôi nói rằng, tôi có quan điểm riêng đối với tình hình và các phương thức tiến hành chiến tranh và đã báo cáo quan điểm đó như tôi và Bộ Tổng tham mưu suy nghĩ.
- Đồng chí hãy ra làm việc đi, chúng tôi bàn ngay với nhau một tí và sẽ gọi đồng chí sau.
Thu lấy các bản đồ, tôi bước ra ngoài phòng, trong lòng nặng trĩu.
Chừng 40 phút sau tôi được gọi vào gặp Tổng tư lệnh tối cao.
- Bây giờ thế này, - I.V. Xta-lin nói, - chúng tôi đã bàn bạc và quyết định để đồng chí thôi trách nhiệm Tổng tham mưu trưởng. Chúng tôi sẽ cử B.M. Sa-pô-sni-cốp làm Tổng tham mưu trưởng. Thực ra sức khỏe của đồng chí ấy không được tốt lắm, nhưng không sao, chúng tôi sẽ giúp đỡ đồng chí ấy.
- Đồng chí ra lệnh cho tôi đi đâu?
- Vậy đồng chí muốn đi đâu?
- Tôi có thể làm bất kỳ công tác gì. Tôi có thể chỉ huy sư đoàn, quân đoàn, tập đoàn quân, phương diện quân.
- Đừng nóng, đừng nóng! Đồng chí vừa nói tới việc tổ chức cuộc phản kích ở En-nha. Vậy đồng chí đảm đương lấy việc đó. Chúng tôi sẽ cử đồng chí làm tư lệnh Phương diện quân Dự bị. Bao giờ đồng chí có thể đi?
- Một giờ sau.
- B.M. Sa-pô-sni-cốp sẽ tới Bộ Tổng tham mưu ngay, đồng chí bàn giao công việc rồi lên đường. Đồng chí cần biết rằng đồng chí vẫn là ủy viên Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao. - I.V. Xta-lin kết thúc.
- Đồng chí cho phép tôi đi?
- Đồng chí hãy ngồi lại đây uống nước chè với chúng tôi, - I.V. Xta-lin nói, lúc này đã mỉm cười, - chúng ta còn có việc cần nói chuyện.
Mọi người ngồi vào bàn và uống nước chè, nhưng chuyện thì không thành.
Tôi chuẩn bị rất chóng. Chẳng bao lâu B.M. Sa-pô-sni-cốp từ Phương diện quân miền Tây đã trở về, tại đây đồng chí là đại diện Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Tôi lên đường tới vùng Gơ-giát-xcơ. Cơ quan chỉ huy của Phương diện quân Dự bị đóng ở đó.

---

[1] Tin về xe tăng nêu ra bị phóng đại - TG.

<< Chương 9 | Chương 11 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 615

Return to top