NGÀY 5-10-1941, từ Đại bản doanh có điện gọi: - Đồng chí Xta-lin muốn nói chuyện với tư lệnh phương diện quân. Tôi đang ở trong phòng họp của bộ tham mưu Phương diện quân Lê-nin-grát liền cầm máy “Bô-đô” nói chuyện: - Có Giu-cốp đây. Điện trả lời: - Đợi một tí. Chưa hết 2 phút thì đồng chí phụ trách máy “Bô-đô” của Đại bản doanh đã nói: -Có đồng chí Xta-lin đây. I.V. Xta-lin: - Chào đồng chí. G.K. Giu-cốp: - Chúc đồng chí khỏe. I.V. Xta-lin: - Tôi chỉ hỏi đồng chí một điều: đồng chí có thể đi máy bay về Mát-xcơ-va được không? Tình hình khu Yu-khơ-nốp ở cánh trái Phương diện quân Dự bị trở nên phức tạp, Đại bản doanh muốn thảo luận với đồng chí về những biện pháp cần áp dụng. Hãy để một đồng chí nào đó, có thể là đồng chí Khô-din thay đồng chí. G.K. Giu-cốp: - Đề nghị cho phép về vào sáng sớm ngày 6-10. I.V. Xta-lin: - Được. Ngày mai tôi đợi đồng chí ở Mát-xcơ-va. Tuy vậy, vì phải giải quyết một số việc quan trọng ở khu vực tập đoàn quân 54, lúc đó do G.I. Cu-lích chỉ huy, cho nên sáng 6-10 tôi không thể đi được và Tổng tư lệnh tối cao đã đồng ý lui chuyến bay về Mát-xcơ-va của tôi sang ngày 7-10. Chiều ngày 6-10, I.V. Xta-lin lại gọi dây nói đến Lê-nin-grát. - Công việc của đồng chí thế nào? Quân địch có hành động gì mới không? - Đồng chí hỏi tôi. - Cuộc tiến công của quân Đức đã yếu dần - Tôi báo cáo – Theo những tin do tù binh khai, thì trong những trận đánh tháng 9, quân địch đã bị thiệt hại nặng và xung quanh Lê-nin-grát chúng đang chuyển sang phòng ngự. Hiện nay chúng bắn pháo và dùng máy bay ném bom vào thành phố. Máy bay trinh sát của ta phát hiện thấy nhiều đoàn xe tăng và cơ giới địch đang chuyển vận từ Lê-nin-grát về phía nam. Chắc là địch điều lực lượng đó về hướng Mát-xcơ-va. Sau khi đã nắm chắc được tình hình ở tập đoàn quân của G.I. Cu-lích, tôi hỏi Tổng tư lệnh tối cao xem có phải đáp máy bay về Mát-xcơ-va nữa không? - Giao công việc cho tham mưu trưởng phương diện quân, tướng Khô-din, hay Phê-điu-nin-xki - I.V. Xta-lin nhắc lại - Còn đồng chí đáp máy bay về ngay Mát-xcơ-va . Chia tay với các ủy viên Hội đồng quân sự Phương diện quân Lê-nin-grát A.A. Giơ-đa-nốp, A.A. Cu-dơ-nét-xốp, T.Ph. Xtư-cốp, Ya.Ph. Ca-pu-xtin và N.V. Xô-lô-vi-ốp - những người đã cùng làm việc rất tâm đồng ý hợp với tôi trong những ngày tháng hiểm nghèo ở Lê-nin-grát, tôi lên máy bay về Mát-xcơ-va. Chỉ huy Phương diện quân Lê-nin-grát tạm thời giao cho tướng I.I. Phê-điu-nin-xki, vì tướng M.X. Khô-din có việc phải cấp tốc xuống tập đoàn quân của tướng G.I. Cu-lích. Tôi đến Mát-xcơ-va ngày 7-10. Đồng chí phụ trách bảo vệ Xta-lin ra đón và báo cho tôi biết, I.V. Xta-lin bị cúm, đang làm việc ở nhà riêng. Chúng tôi đi ngay đến đó. Xta-lin gật đầu chào, gọi tôi đến chỗ bản đồ và nói: - Xem đây này. Tình hình khu vực này rất gay go. Tôi không làm thế nào có được một báo cáo đầy đủ và chính xác của Phương diện quân miền Tây. Chúng tôi không thể hạ quyết tâm được, một khi không biết quân địch tiến công ở đâu, số lượng đơn vị chúng như thế nào và không biết tình hình quân ta ra sao. Đồng chí hãy đi ngay tới bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây, tìm hiểu cặn kẽ tình hình và từ đó gọi dây nói báo cáo về vào bất cứ lúc nào, tôi sẽ đợi Tôi đi thẳng đến chỗ làm việc của Tổng tham mưu trưởng B.M. Sa-pô-sni-cốp. - Tổng tư lệnh tối cao vừa gọi dây nói ra lệnh chuẩn bị bản đồ mặt trận hướng tây[1] cho anh, - đồng chí Sa-pô-sni-cốp nói.- Bản đồ sẽ có ngay bây giờ. Bộ tư lệnh Phương diện quân miền Tây đóng ở vị trí bộ tham mưu phương diện quân Dự bị hồi tháng 8, khi anh tới đó chỉ huy chiến dịch tiêu diệt quân địch ở En-nha. Trong khi chờ bản đồ, B.M. Sa-pô-sni-cốp mời tôi uống nước chè đậm. Đồng chí kêu trong người mệt lắm và tôi cũng thấy đồng chí có vẻ yếu thật. Rời Bộ Tổng tham mưu, tôi lên ô-tô đi đến bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây. Trên đường đi, tôi dùng chiếc đèn bấm bỏ túi soi bản đồ, nghiên cứu tình hình ngoài mặt trận và hành động của hai bên. Chúng tôi buồn ngủ quá nên thỉnh thoảng phải dừng lại, xuống xe, vận động, chạy đi chạy lại để khỏi ngủ gật. Khuya hôm đó chúng tôi tới bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây. Đồng chí trực nhật báo cáo: tất cả các đồng chí lãnh đạo đang họp ở buồng đồng chí tư lệnh. Phòng đồng chí tư lệnh tranh tối tranh sáng, mấy cây nến bằng sáp cháy leo lét. Ngồi xung quanh bàn là I.X. Cô-nép, V.Đ. Xô-cô-lốp-xki, N.A. Bun-ga-nin và G.K. Ma-lan-đin, tất cả đều có vẻ mệt mỏi. Tôi nói, được lệnh của Tổng tư lệnh tối cao đến nghiên cứu tình hình và báo cáo về bằng dây nói. Báo cáo của trung tướng G.K. Ma-lan-đin, trưởng phòng tác chiến bộ tham mưu phương diện quân, về những diễn biến mới nhất đã bổ sung và xác minh những tài liệu mà tôi đã nắm. - Tình hình ngoài mặt trận hướng tây ra sao? - Khi quân phát-xít Đức bắt đầu tiến công trên hướng Mát-xcơ-va thì trên những ngả đường phía xa vào Mát-xcơ-va có 3 phương diện quân bố trí phòng ngự: Phương diện quân miền Tây (tư lệnh - thượng tướng I.X. Cô-nép), Phương diện quân Dự bị (tư lệnh – nguyên soái Liên Xô Bu-di-on-nưi)[2] và Phương diện quân Bri-an-xcơ (tư lệnh - trung tướng Ê-rê-men-cô). Tất cả 3 phương diện quân đó, tính đến cuối tháng 9, có 80 vạn chiến sĩ có thể chiến đấu được, 82 xe tăng, 6.808 đại bác và súng cối, 545 máy bay. Phương diện quân miền Tây có nhiều lực lượng và phương tiện hơn cả. Quân địch dồn về hướng Mát-xcơ-va một lực lượng tính ra còn lớn hơn cả 3 phương diện quân của ta cộng lại. Về bộ binh, chúng hơn ta 1,2 lần, xe tăng - 2,2 lần, đại bác và súng cối - 2,1 lần, máy bay - 1,7 lần. Mở đầu cuộc tiến công vào ngày 30-9, quân Đức đã dùng đạo xe tăng của Gu-đê-ri-an và tập đoàn quân 2 đột kích vào bộ phận của Phương diện quân Bri-an-xcơ đóng ở khu vực Giu-cốp-ca - Sốt-ca. Ngày 2-10, quân địch mở rộng những trận đánh lớn vào các Phương diện quân miền Tây và Dự bị. Tiếp theo đó là những trận giao chiến mãnh liệt trong các vùng bắc Đu-khốp-si-na và đông Rô-xláp. Quân địch đã chọc thủng tuyến phòng ngự của quân ta. Các đơn vị xung kích của chúng tiến vượt lên phía trước và từ phía nam và phía bắc đánh vu hồi, bao vây tất cả các đơn vị thuộc các Phương diện quân miền Tây và Dự bị đóng trong vùng Vi-a-dơ-ma. Tình hình phía nam Bri-an-xcơ trở nên hết sức gay go. Các tập đoàn quân 3 và 13 thuộc Phương diện quân Bri-an-xcơ đóng tại đây có nguy cơ bị bao vây. Không vấp phải sự chống cự mạnh mẽ nào, bộ đội của Gu-đê-ri-an lao lên phía O-ri-ôn và ở đây ta cũng không có lực lượng để đánh bại cuộc tiến công của chúng. Ngày 3-10, quân Đức chiếm được O-ri-ôn. Phương diện quân Bri-an-xcơ bị chia cắt. Bộ đội thuộc Phương diện quân bị thiệt hại, vừa đánh vừa rút lui về phía đông. Ở hướng Tu-la, tình hình cũng đáng lo ngại. Tư lệnh Phương diện quân miền Tây, thượng tướng Cô-nép, đã ra lệnh phản kích vào gọng kìm vu hồi phía bắc của quân địch. Tiếc thay, trận phản kích không thắng lợi. Đến chiều 6-10, một bộ phận lớn các đơn vị bộ đội thuộc các Phương diện quân miền tây và Dự bị đã bị hợp vây ở phía tây Vi-a-dơ-ma.
Qua buổi thảo luận ở bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây và sau khi phân tích tình hình, tôi nảy ra ý nghĩ là có thể tránh được thảm họa ở vùng Vi-a-dơ-ma. Dù cho quân địch có ưu thế về người và kỹ thuật quân ta vẫn có thể tránh khỏi bị bao vây. Muốn thế, phải kịp thời xác định thật đúng hướng đột kích chủ yếu của địch và tập trung những lực lượng và phương tiện chủ yếu lấy từ các khu vực khác, chưa quan trọng, đánh vào quân địch ở hướng chủ yếu đó. Trước đây đã không làm như thế, nên phòng ngự của các phương diện quân không đủ sức chịu những cú đánh tập trung của địch mà bằng những cú đánh như thế địch đã tạo nên những cửa mở mà chúng ta không thể bịt được, vì trong tay bộ tư lệnh không còn lực lượng dự bị nào nữa. Lúc 2 giờ rưỡi đêm 8-10, tôi gọi dây nói đến I.V. Xta-lin. I.V. Xta-lin vẫn đang làm việc. Sau khi báo cáo về tình hình Phương diện quân miền Tây, tôi nói: - Nguy cơ chính hiện nay là ở chỗ tuyến Mô-gia-ích còn yếu, vì vậy bộ đội xe tăng thiết giáp địch có thể bất ngờ tiến đến gần Mát-xcơ va. Cần phải rút bộ đội từ các nơi khác thật nhanh hơn nữa về tuyến phòng ngự Mô-gia-ích. I.V. Xta-lin hỏi: - Các tập đoàn quân 19, 20 và bộ phận lực lượng của Bôn-đin thuộc Phương diện quân miền Tây hiện nay ở đâu? Cả các tập đoàn quân 24 và 32 của Phương diện quân Dự bị nữa cũng ở đâu rồi? - Bị bao vây ở phía tây và tây-bắc Vi-a-dơ-ma. - Tôi trả lời. - Bây giờ đồng chí định xử trí như thế nào? - Tôi đến gặp Bu-di-on-nưi ngay bây giờ. - Đồng chí có biết chỗ bộ tham mưu của Bu-di-on-nưi không? - Tôi sẽ tìm ở một nơi nào đó trong vùng Ma-lô-ya-rô-xla-vét. - Được đồng chí đi gặp Bu-di-on-nưi đi và từ đó gọi dây nói ngay về cho tôi. Trời mưa phùn lấm tấm, sương mù dày trải trên mặt đất, làm cho người ta khó nhìn được xa. Sáng ngày 8-10 khi tới gần ga xép Ốp-nin-xcôi-ê (cách Mát-xcơ-va 105 km) chúng tôi nhìn thấy hai đồng chí thông tin lúi húi kéo dây điện từ phía cầu qua sông Prốt-va lại. Tôi hỏi: - Các đồng chí kéo dây thông tin đi đâu đấy? - Kéo đến nơi nào mà cấp trên ra lệnh, - đồng chí chiến sĩ vóc người to lớn thản nhiên trả lời. Tôi đành phải xưng tên và cho các đồng chí biết, chúng tôi đang đi tìm bộ tham mưu Phương diện quân Dự bị và X.M. Bu-di-on-nưi. Đồng chí chiến sĩ lúc này liền nghiêm chỉnh lại, trả lời: - Xin lỗi đồng chí Đại tướng, chúng tôi không biết đồng chí, vì vậy mới trả lời như thế. Đồng chí đã đi quá chỗ bộ tham mưu phương diện quân rồi. Khoảng 2 giờ trước đây bộ tham mưu phương diện quân mới chuyển về đây, ở chỗ có mấy cái nhà nhỏ trên núi kia kìa. Đến đó các đồng chí bảo vệ sẽ chỉ cho các đồng chí đường vào. Ô-tô quay ngược lại, chẳng bao lâu tôi đã tới buồng làm việc của đồng chí đại diện Dại bản doanh, chính ủy tập đoàn quân bậc một L.D. Me-khơ-lít; thiếu tướng A.Ph. A-ni-xốp tham mưu trưởng phương diện quân cũng có mặt ở đây. L.D. Me-khơ-lít đang nói điện thoại và khiển trách nặng đồng chí nào đấy. Khi tôi hỏi đồng chí tư lệnh ở đâu, đồng chí tham mưu trưởng trả lời: - Chúng tôi không biết. Trưa nay đồng chí ấy ở tập đoàn quân 43. Tôi sợ hay là X.M. Bu-di-on-nưi lại gặp gì không may. - Thế đồng chí đã cho đi tìm chưa? - Có. Chúng tôi đã cử sĩ quan hên lạc đi nhưng họ chưa về. Lúc này. L.D. Me-khơ-lít mới quay về phía tôi, hỏi: - Đồng chí đến đây có việc gì? - Được ủy nhiệm của Tổng tư lệnh tối cao với danh nghĩa ủy viên của Đại bản doanh, tôi đến để nắm tình hình ở đây - Tôi trả lời. - Đây đồng chí xem chúng tôi dang trong tình trạng nào - L.D. Me-khơ-lít nói - Hiện nay chúng tôi đang tập hợp những người đã rút lui vô tổ chức. Chúng tôi sẽ trang bị lại và tổ chức thành các đơn vị mới tại những địa điểm đang tập trung đó. Qua nói chuyện với L.D. Me-khơ-lít và A.Ph. A-ni-xốp, tôi biết được rất ít về tình hình quân ta và quân địch ở đây. Tôi liền lên ô-tô và đi về phía Yu-khơ-nốp, hy vọng có thể nắm tình hình ngay tại chỗ nhanh hơn. Khi qua Prốt-va tôi nhớ lại mình hồi nhỏ. Địa hình vùng này rất quen thuộc đối với tôi, vì hồi trẻ tôi đã đi ngang đi dọc khắp nơi đây. Quê tôi, làng Xtơ-ren-cốp-ca cách Ốp-nin-xcôi-ê, nơi đóng quân của bộ tham mưu Phương diện quân Dự bị 10 km. Lúc này ở đó còn mẹ tôi, bà chị với bốn cháu. Không biết gia đình tôi thế nào? Sẽ ra sao đây, nếu qua nhà một tí? Không, không thể được thời gian không cho phép. Còn nếu bọn phát-xít tới đó thì sẽ ra sao? Chúng sẽ đối xử với những người thân của tôi thế nào, nếu chúng biết đó là gia đình đại tướng Giu-cốp? Chắc chắn là chúng bắn thôi. Việc trước hết có thể làm là đón gia đình tôi đến Mát-xcơ-va ở với tôi. Hai tuần sau, làng Xtơ-ren-cốp-ca và cả khu U-gốt-xki - Da-vốt đều bị quân Đức chiếm. Nhưng người dân quê tôi không chịu ngồi bó tay. Trong khu đã tổ chức đội du kích rất lớn, chỉ huy là đoàn viên thanh niên cộng sản Vích-to Ca-ra-xép, một chiến sĩ dũng cảm bảo vệ Tổ quốc, một con người thông minh, có tài tổ chức, còn chính ủy là đồng chí A.lếch-xan-drơ Cuốc-ba-tốp, bí thư Khu ủy khu U-gốt-xki - Da-vốt. Trong đội du kích đó có cả Mi-kha-in A-lếch-xây-ê-vích Gu-ri-a-nốp, chủ tịch ủy ban hành chính khu, một chiến sĩ dũng cảm hết lòng vì nhân dân. Đội du kích khu đã tổ chức những cuộc tập kích táo bạo vào các cơ quan tham mưu, hậu cần và những đơn vị lẻ của quân địch. Trong một trận tập kích ban đêm, đội đã diệt bộ phận tham mưu của cơ quan hậu cần một quân đoàn địch. Tháng 11-1941, đảng viên cộng sản Mi-kha-in A-lếch-xây-ê-vích Gu-ri-a-nốp đã bị quân Đức bắt, đánh đập rất dã man và treo cổ. Dân làng tôi đến nay vẫn chăm nom chu đáo phần mộ của người anh hùng gan dạ đó. Sau này, khi rút lui, giặc Đức đã đốt làng Xtơ-ren-ni-cốp-ca và nhiều làng khác, nhà mẹ tôi cũng bị đốt. May là tôi đã đưa được mẹ tôi đi nơi khác. Sư đoàn bộ binh 17 do tướng Đ.M. Xê-le-dơ-nép chỉ huy và các binh đoàn khác thuộc tập đoàn quân 49 đã giải phóng khu U-gốt-xki - Da-vốt. Sau chiến tranh, trên mảnh đất làng Pi-át-ki-nô (bị quân Đức đốt khi rút lui), nơi đóng quân của bộ tham mưu Phương diện quân Dự bị và sau đấy của Phương diện quân miền Tây năm 1941, đã xây dựng thành phố Ốp-nin-xcơ. Tên thành phố Ốp-nin-xcơ đã vượt ra ngoài biên giới Liên Xô: nhà máy điện đầu tiên chạy bằng năng lượng nguyên tử đã được xây dựng ở đây. Hiện nay thành phố là một trung tâm khoa học lớn nhất. Nhưng chúng ta hãy quay lại những sự kiện hồi đó. Xe ô-tô đi đến giữa thành phố Ma-lô-ya-rô-xla-vét rồi mà tôi chưa gặp một người nào cả. Thành phố tựa như đã rời đi nơi khác. Gần trụ sở ủy ban hành chính khu, tôi thấy hai chiếc xe con. - Ô-tô này của ai? - Tôi đánh thức lái xe và hỏi. - Báo cáo đồng chí Đại tướng, xe của Xê-mi-on Mi-khai-lô-vích Bu-di-on-nưi. - Đồng chí đó đâu? - Trong trụ sở ủy ban hành chính khu. - Các đồng chí ở đây lâu chưa? - Chúng tôi đã ở đây 3 tiếng đồng hồ. Bước vào ủy ban hành chính khu, tôi nhìn thấy X.M. Bu-di-on-nưi đang nghiên cứu và suy nghĩ trên bản đồ. Hai người chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng. Rõ ràng là đồng chí Bu-di-on-nưi đã phải chịu đựng nhiều trong những ngày khó khăn này. - Cậu từ đâu đến thế? - Bu-di-on-nưi hỏi. - Từ chỗ Cô-nép. - Thế tình hình ở đó ra sao? Đã hơn hai ngày nay tôi không có liên lạc gì với Cô-nép. Hôm qua tôi ở bộ tham mưu tập đoàn quân 43, còn bộ tham mưu phương diện quân đã chuyển đi chỗ khác lúc vắng tôi và bây giờ không biết nó đã dừng lại ở đâu. - Tôi đã tìm thấy nó ở cách Mát-xcơ-va 105 km trong khu rừng phía trái, bên kia chiếc cầu xe lửa qua sông Prốt-va. Anh em đang đợi anh ở đó. Rất tiếc là bên Phương diện quân miền Tây, một phần đáng kể lực lượng ta đã bị bao vây. - Ở đây tình hình cũng không hơn, - X.M. Bu-di-on-nưi nói, - Các tập đoàn quân 29 và 32 bị chia cắt rồi. Chiều qua tí nữa tôi cũng rơi vào tay quân địch ở khoảng giữa Yu-khơ-nốp và Vi-a-dơ-ma. Hàng đoàn bộ đội xe tăng và cơ giới địch đi về phía Vi-a-dơ-ma, chắc là để đánh bao vây thành phố từ phía đông. - Hiện nay Yu-khơ-nốp thuộc về ta hay địch? - Bây giờ tôi không biết. Trên sông U-gơ-ra trước có đến 2 trung đoàn bộ binh nhưng không có pháo binh. Tôi cho rằng Yu-khơ-nốp đã bị địch chiếm. - Thế ai giữ con đường từ Yu-khơ-nốp vào Ma-lô-ya-rô-xla-vét? - Khi đi xe đến đây tôi không gặp ai ngoài 3 đồng chí cảnh sát ở Mê-đư-nhơ. Chính quyền địa phương đã rút khỏi Mê-đư-nhơ. - Anh nên về bộ tham mưu phương diện quân, - tôi nói với Bu-di-on-nưi - để nắm chắc tình hình và báo cáo về Đại bản doanh, còn tôi sẽ đi đến khu Yu-khơ-nốp. Nhớ báo cáo với Tổng tư lệnh tối cao về cuộc gặp gỡ giữa chúng ta và nói là tôi đi về Ca-lu-ga. Tôi cần biết tình hình ở đằng ấy. Khi tôi đến Mê-đư-nhơ thì thấy đúng là không có một ai. Chỉ có một bà già đang tìm kiếm vật gì trong đống gạch ngói đổ nát của một ngôi nhà bị bom phá hủy. - Bà cụ ơi, cụ tìm gì đấy? - Tôi hỏi. Bà cụ ngẩng đầu lên. Bằng đôi mắt mở rộng, mơ màng, cụ như người không hồn, nhìn tôi. - Cụ làm sao thế ? Không trả lời gì cả, bà cụ lại moi xới. Từ một ngóc ngách nào đó của đống nhà đổ nát, một bà khác xách túi đi tới, trong có đến lưng túi các vật gì đó. - Không nên hỏi bà cụ. Cụ đã mất trí vì đau khổ. Hôm kia máy bay Đức đã bay đến đây. Chúng ném bom và bắn phá. Bà cụ sống với các cháu ở đây, trong căn nhà này. Khi máy bay địch bắn phá thì cụ đang lấy nước ở giếng và cụ đã trông tận mắt thấy rõ quả bom rơi trúng nhà. Các cháu bị chết. Nhà của chúng tôi cũng bị phá sập. Cần phải đi nhanh khỏi nơi này, vâng, nhưng tôi còn tìm xem trong đống gạch vụn này còn có thể lấy được ít quần áo, giày dép nào không. Trên gò má của bà, nước mắt ròng ròng chảy. Tôi đi về phía Yu-khơ-nốp, lòng đau thắt lại. Thỉnh thoảng chúng tôi phải dừng xe quan sát kỹ càng xung quanh để khỏi nhảy vào chỗ giặc đóng. Đi được khoảng 10 đến 12 km bỗng nhiên có một số chiến sĩ đeo súng, mặc quần áo và đội mũ lái xe tăng ở trong rừng ra ngăn chúng tôi lại. Một người trong số đó tiến lại gần xe. - Không thể đi nữa được đâu. - Người đó nói - Các đồng chí là ai? Tôi xưng tên và sau chuyển sang hỏi lại bộ đội của các đồng chí đó ở đâu - Ở trong rừng này, phòng tham mưu lữ đoàn xe tăng cách đây hơn 100 mét. - Tốt lắm. Dẫn tôi vào phòng tham mưu lữ đoàn. Tôi rất vui mừng được gặp lữ đoàn xe tăng tại đây. Ra đón tôi là một chiến sĩ bộ đội xe tăng người tầm thước, tư thế nghiêm chỉnh trong bộ quần áo công tác màu xám. Tôi nhận ra ngay đó là một đồng chí mà tôi đã có lần gặp ở một nơi nào đó. - Báo cáo: tôi là đại tá Tơ-rốt-xki, tư lệnh lữ đoàn xe tăng dự bị của Đại bản doanh. - A! Đồng chí Tơ-rốt-xki. Tôi không ngờ gặp đồng chí ở đây. I.I. Tơ-rốt-xki gợi cho tôi nhớ đến trận Khan-khin Gôn. Hồi đó, năm 1939, đồng chí Tơ-rốt-xki là tham mưu trưởng lữ đoàn xe tăng 11, một đơn vị đáng sợ đối với quân Nhật. - Tôi cũng không nghí sẽ được gặp đồng chí ở đây, thưa đồng chí Đại tướng. - I.I Tơ-rốt-xki nói - Tôi được biết đồng chí chỉ huy Phương diện quân Lê-nin-grát, còn việc đồng chí lại về đây thì không nghe nói. - Thế nào? Tình hình ra sao rồi. Báo cáo đi. Trước tiên cần biết quân địch ở đâu? Đại tá I.I Tơ-rất-xki kể lại: - Địch chiếm Yu-khơ-nốp. Các đơn vị phái đi trước của chúng chiếm giữ cầu trên sông U-gơ-ra. Tôi đã cử trinh sát đến Ca-lu-ga. Trong thành phố đó hiện nay chưa có địch nhưng trong khu đó đang có những trận đánh ác liệt. Sư đoàn 5 bộ binh và một số đơn vị của tập đoàn quân 43 rút về đang chiến đấu ở đó. Lữ đoàn do tôi phụ trách thuộc đội dự bị của Đại bản doanh. Chúng tôi ở đây đã hai ngày nhưng không nhận được chỉ thị nào cả. - Đồng chí hãy cử sĩ quan liên lạc đến bộ tham mưu Phương diện quân Dự bị trong khu ga xép ốp-nin-xcôi-ê bên kia sông Prốt-va, để báo cáo tình hình cho đồng chí X.M. Bu-di-on-nưi. Đồng chí hãy triển khai một bộ phận của lữ đoàn và tổ chức đánh chặn không cho địch tiến về hướng Mê-đư-nhơ. Qua bộ tham mưu Phương diện quân Dự bị, báo cáo cho Bộ Tổng tham mưu biết mệnh lệnh đó của tôi và nói là tôi đến sư đoàn bộ binh 5 ở Ca-lu-ga. Sau này tôi mới biết chiếc cầu qua sông Prốt-va đã bị đội du kích của thiếu tá I.G. Xta-rơ-trác phá, trước khi nó bị quân Đức chiếm. Thiếu tá Xta-rơ-trác trước đây phụ trách bộ đội nhảy dù của Phương diện quân Dự bị. Đội du kích được thành lập do sáng kiến của đồng chí Xta-rơ-trác gồm 400 người, lấy trong số bộ đội biên phòng được chuẩn bị sẵn vào hoạt động trong vùng sau lững địch. Sau đó lại có sự phối hợp của đội du kích gồm học viên các trường trung học quân sự ở Pô-đôn-xcơ do thượng uý L.A. Mam-trích và đại úy Ya.X. Rô-xi-cốp chỉ huy. Các đội du kích đó đã đẩy lui các cố gắng của địch định vượt sông U-gơ-ra tiến về Mê-đư-nhơ. Sau 5 ngày chiến đấu quyết liệt, nhiều đồng chí đã hy sinh nhưng bằng khí phách anh hùng, tinh thần xả thân vì nước, các đồng chí đó đã phá tan kế hoạch chớp nhoáng chiếm Ma-lô-ya-rô-xla-vét của địch và như vậy, đã tạo điều kiện cho bộ đội ta có thời gian cần thiết để tổ chức phòng ngự trên các đường vào Mát-xcơ-va. Hôm tôi đang ở Ca-lu-ga, có một sĩ quan liên lạc đem đến cho tôi bức điện của đồng chí Tổng tham mưu trưởng, trong đó đồng chí báo cho biết Tổng tư lệnh tối cao lệnh cho tôi đến bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây vào ngày 10-10. Trong những ngày đó, một ủy ban của Hội đồng quốc phòng Nhà nước đang làm việc tại đây. Bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây đóng ở Cra-xnô-vi-đô-va. Vừa tới nơi tôi liền được gọi ngay đến máy để nói chuyện với I.V. Xta-lin. - Đại bản doanh quyết định cử đồng chí làm tư lệnh Phương diện quân miền Tây. Cô-nép ở lại làm phó tư lệnh. Đồng chí có ý kiến gì khác không? - Không, làm thế nào mà có ý kiến khác được? Tôi thấy nên giao cho Cô-nép đặc trách hướng Ca-li-nin. Hướng đó xa quá, cần có sự chỉ huy bổ trợ của phương diện quân. - Đồng ý, - I.V. Xta-lin trả lời. - Thuộc quyền đồng chí có các bộ đội còn lại của Phương diện quân Dự bị, các đơn vị hiện đóng trên tuyến Mô-gia-ích. Nên nhanh chóng nắm lấy tất cả lực lượng trong tay và hành động đi. - Xin hứa thực hiện đầy đủ chỉ thị của đồng chí, nhưng tôi đề nghị, điều gấp những lực lượng dự bị lớn hơn nữa đến, vì thời gian tới thế nào bọn Hít-le cũng mở rộng cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va. Sau khi thảo luận tình hình với I.X. Cô-nép, chúng tôi đề ra mấy chủ trương đầu tiên: rời bộ tham mưu phương diện quân đến A-la-bi-nô; cử đồng chí Cô-nép đem theo những phương tiện chỉ huy cần thiết và một số cán bộ chỉ huy đi tổ chức hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị ở hướng Ca-li-nin; đề nghị Hội đồng quân sự phương diện quân đến Mô-gia-ích gặp đại tá X.I. Bốc-đa-nốp, chỉ huy khu phòng thủ Mô-gia-ích để nắm tình hình tại chỗ trên hướng đó. Bộ tham mưu phương diện quân được chuyển ngay đến A-la-bi-nô, còn tôi và ủy viên Hội đồng quân sự N.A. Bun-ga-nin khoảng 2 giờ sau đã đến Mô-gia-ích. Ở đây chúng tôi nghe thấy tiếng pháo và bom nổ rền. X.I. Bốc-da-nốp báo cáo, trên đường vào Bô-rô-đin, sư đoàn bộ binh 32 có xe tăng và pháo binh tăng cường đang đánh các đơn vị cơ giới và xe tăng đi đầu của địch. Đại tá Pô-lô-xu-khin sư đoàn trưởng là một người chỉ huy rất có kinh nghiệm. Có thể tin ở sư đoàn được. Ra xong những chỉ thị cần thiết cho X.I. Bốc-da-nốp, chúng tôi về bộ tham mưu phương diện quân. Ở bộ tham mưu phương diện quân, sau khi tạm thu xếp việc ăn, ở trong những lều dã chiến, mọi người bắt tay ngay vào việc tổ chức chiến đấu vì khối lượng việc cần làm rất lớn. Trước hết cần lập ngay trận địa phòng ngự vững chắc trên tuyến Vô-lô-cô-lam-xcơ - Mô-gia-ích - Ma-lô-ya-rô-xla-vét - Ca-lu-ga; phải làm cho trận địa phòng ngự trở thành có chiều sâu, tổ chức thê đội 2 và đội dự bị của phương diện quân để có lực lượng cơ động tăng cường cho những nơi xung yếu. Phải tổ chức trinh sát mặt đất và trên không cho cẩn mật, bộ máy chỉ huy của phương diện quân cho vững vàng, việc cung cấp vật tư kỹ thuật cho hợp lý. Và một việc chủ yếu nữa là phải triển khai công tác Đảng, công tác chính trị, nâng cao tinh thần các chiến sĩ, củng cố lòng tin của họ vào sức mạnh của mình nhất định sẽ tiêu diệt được quân địch ngay ở cửa ngõ Mát-xcơ-va. Bộ đội làm việc căng thẳng suốt ngày này sang đêm khác. Nhiều người vì mệt mỏi và thiếu ngủ tường chừng như có thể ngã gục xuống, nhưng nghĩ đến trách nhiệm của mình trước vận mệnh của Mát-xcơ-va, của Tổ quốc, và được Đảng động viên dìu dắt, họ lại đứng dậy, hăng hái, tích cực làm cho đến hết khối lượng công việc khổng lồ nhằm thiết lập bằng được thế trận phòng ngự vững chắc cho các đơn vị của phương diện quân trên các đường vào Mát-xcơ-va. Mùa hè và mùa thu năm 1941, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hội đồng quốc phòng Nhà nước và Bộ tổng tư lệnh tối cao đã áp dụng nhiều biện pháp lớn nhằm tăng cường việc bảo vệ Mát-xcơ-va. Chúng ta đã thành lập một số khá lớn đội dự bị, bổ sung nhiều đơn vị, binh đoàn mới và binh khí kỹ thuật cho quân đội đang tác chiến. Nhưng lúc này, nhiều biện pháp lại được thi hành thêm nhằm chặn đứng quân địch. Ngay trong đêm 6 rạng ngày 7 tháng 10 đã bắt đầu chuyển các đơn vị thuộc lực lượng dự bị của Đại bản doanh và của các phương diện quân khác đến tuyến phòng ngự Mô-gia-ích. Số quân này gồm 14 sư đoàn bộ binh, 16 lữ đoàn xe tăng, hơn 40 trung đoàn pháo binh và nhiều đơn vị khác nữa. Các tập đoàn quân 16, 5, 43 và 49 được thành lập lại. Đến giữa tháng 10, quân số các tập đoàn quân đó đã lên tới 9 vạn. Đương nhiên là số lực lượng đó chưa đủ để xây dựng một hệ thống phòng ngự dày đặc và chắc chắn. Nhưng lúc đó Đại bản doanh chưa có những khả năng lớn hơn, còn việc điều động bộ đội từ miền Viễn Đông và ở các vùng xa xôi khác về thì bị chậm trễ vì nhiều lý do. Vì vậy, chúng tôi quyết định trước hết hãy chiếm giữ những hướng chủ yếu nhất như: Vô-lô-cô-lam-xcơ - Mô-gia-ích - Ma-lô-ya-rô-xla-vét - Ca-lu-ga. Những phương tiện pháo binh và chống xe tăng chủ yếu cũng được tập trung ở ngay trên những hướng đó. Chúng tôi quyết định cử bộ tham mưu và bộ tư lệnh tập đoàn quân 16 do các đồng chí K.K. Rô-cô-xốp-xki, A.A. Lô-ba-chép và M.X. Ma-li-nin phụ trách đến hướng Vô-lô-cô-lam-xcơ. Trong biên chế của tập đoàn quân 16 đã có các sư đoàn mới vì các sư đoàn cũ được chuyển thuộc tập đoàn quân 20 hiện còn đang bị bao vây ở phía tây Vi-a-dơ-ma. Tập đoàn quân 5 do thiếu tướng Đ.Đ. Lê-liu-sen-cô chỉ huy, khi Lê-hu-sen-cô bị thương thì tướng L.A. Gô-vô-rốp thay thế, được tập trung về hướng Mô-gia-ích, còn tập đoàn quân 43 của thiếu tướng K.Đ. Gô-lu-bép thì được đưa về hướng Ma-lô-ya-rô-xla-vét, và tập đoàn quân 49 do trung tướng I.G. Da-khác-kin chỉ huy đến hướng Ca-lu-ga. Chúng tôi biết rõ các đồng chí đó là những người cầm quân giàu kinh nghiệm và hoàn toàn tin tưởng ở các đồng chí đó. Chúng tôi biết, với số lượng bộ đội giao cho, các đồng chí sẽ làm tất cả những gì có thể để không cho quân địch lọt đến Mát-xcơ-va. Ở đây chúng tôi muốn nêu cao tính chính xác trong công tác của bộ tham mưu phương diện quân đứng đầu là trung tướng V.Đ. Xô-cô-lốp-xki và trưởng phòng tác chiến trung tướng G.K. Ma-lan-đin. Chúng tôi cũng muốn kể đến những cố gắng rất lớn của thiếu tướng N.Đ. Pơ-cuốc-xép chỉ huy các đơn vị thông tin đã giữ vững đường dây liên lạc thường xuyên giữa các đơn vị trong phương diện quân. Ở phía sau các đơn vị thê đội 1 của Phương diện quân miền Tây đã xây dựng những công trình rất lớn nhằm phát triển chiều sâu phòng ngự và các khu chống tăng được thiết lập trên tất cả những hướng bị xe tăng uy hiếp. Lực lượng dự bị của phương diện quân được đưa đến những hướng chủ yếu. Ít lâu sau bộ tham mưu phương diện quân đã chuyển đến Péc-khu-scô-vô. Từ đó các đường dây điện tín, điện thoại được kéo đi để liên lạc với các đơn vị mặt đất và trên không. Đường dây liên lạc với Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao cũng được mắc riêng. Vậy là trên thực tế đã lập lại Phương diện quân miền Tây để đảm đương nhiệm vụ lịch sử: giữ Mát-xcơ-va. Dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành trung ương, Đảng ta đã giải thích sâu rộng trong nhân dân về tình thế khó khăn của đất nước và mối nguy cơ đang trực tiếp đe dọa Mát-xcơ-va. Trung ương Đảng kêu gọi toàn dân Liên Xô hoàn thành nhiệm vụ vinh quang trước Tổ quốc: không cho quân giặc tới Mát-xcơ-va. Trong thời gian đó , ở vùng sau lưng địch tại khu vực phía tây Vi-a-dơ-ma, các đơn vị quân ta đang bị vây hãm vẫn chiến đấu anh dũng và cố gắng chọc thủng vòng vây để liên lạc với các đơn vị Hồng quân. Nhưng những cố gắng đó không đem lại kết quả. Để chi viện cho các đơn ví bị bao vây, bộ tư lệnh phương diện quân và Đại bản doanh cho máy bay ta ném bom vào đội hình quân Đức và thả dù lương thực, vũ khí, đạn dược xuống. Nhưng nhiều hơn nữa thì phương diện quân và Bộ tổng tư lệnh không làm được vì không đủ lực lượng và phương tiện. Tuy ở sau lưng địch, bộ đội ta không chịu bỏ súng mà vẫn tiếp tục chiến đấu dũng cảm để kìm chân những lực lượng chủ yếu của địch, không cho chúng phát triển tiến công vào Mát-xcơ-va. Đã hai lần - vào ngày 10 và 12 tháng 10 - qua vô tuyến điện, chúng tôi chuyển đến các đơn vị bị vây mấy bức điện thông báo vắn tắt tình hình địch, đề ra nhiệm vụ phá vây và giao cho tướng M.Ph. Lu-kin, tư lệnh tập đoàn quân 19 chỉ huy chung cuộc phá vây đó. Chúng tôi cũng đề nghị các đồng chí đó cho biết ngay kế hoạch rút khỏi vòng vây và tập kết bộ đội, và những khu vực cần không quân của phương diện quân chi viện. Tuy vậy, cả hai bức điện của chúng tôi đều không được trả lời: các bức điện ấy quả là đã muộn rồi. Có lẽ đã mất sự chỉ huy chung và chỉ có những đơn vị lẻ tẻ thoát khỏi vòng vây thôi. Đây là lời của An-đrây Tơ-rô-phi-mô-vích Xtu-sen-cô, nguyên tư lệnh sư đoàn kỵ binh 45 sau này kể lại với tôi: “Trong cuộc chiến đấu phá vòng vây để bắt liên lạc với phương diện quân, chúng tôi, những bộ phận còn lại của các sư đoàn, đã tiêu diệt bất cứ tên địch nào mà chúng tôi gặp, số địch bị giết đó lên đến hàng nghìn. Giữa tháng 10, không có ngày nào là chúng tôi không đánh nhau ác liệt với quân địch. Nhiều chiến sĩ, cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị xuất sắc đã hy sinh trong các trận đó.” An-đrây Tơ-rô-phi-mô-vích Xtu-sen-cô kể lại rất xúc động về cái chết anh hùng của chính ủy sư đoàn A.G. Pô-lê-khin khi đồng chí đó không nề nguy hiểm, đã tự mình dẫn đầu đội trinh sát. Mặc dầu phần lớn cán bộ và chiến sĩ trong sư đoàn đã hy sinh, nhưng các đồng chí còn lại vẫn sống và chiến dấu với khát vọng duy nhất: bắt liên lạc thật nhanh với các đơn vị của phương diện quân để cùng nhau tiếp tục chiến đấu bảo vệ Mát-xcơ-va. Và ngày sung sướng nhất là ngày chúng tôi thoát được vòng vây của địch, trở lại hòa cùng đội ngũ các đơn vị của phương diện quân tiếp tục đánh lại quân thù đang liều lĩnh tiến công.... Do các đơn vị bị vây trong khu Vi-a-dơ-ma đã chiến đấu ngoan cường, nên chúng tôi đã có được thời gian rất quý báu để tổ chức phòng ngự trên tuyến Mô-gia-ích. Những hy sinh đổ máu của các đơn vị bị vây thật không phải là vô ích. Chiến công của các chiến sĩ Xô-viết chiến đấu dũng cảm ở Vi-a-dơ-ma đã góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ Mát-xcơ-va. Những chiến công đó đang chờ đợi được viết thành văn. Từ ngày 13-10, các trận chiến đấu ác liệt đã nổ ra ở các hướng quan trọng trên các ngả đường đi về Mát-xcơ-va. Đó là những ngày bão táp. Ban chấp hành trung ương Đảng và Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã quyết định đưa một số cơ quan trung ương và toàn bộ Đoàn ngoại giao sơ tán ra khỏi Mát-xcơ-va, về vùng Quy-bi-sép và chuyển vận những kho tàng đặc biệt quan trọng ra ngoài thủ đô. Mát-xcơ-va ngày càng bị ném bom nhiều hơn. Hầu như đêm nào cũng có báo động máy bay. Tuy vậy, trong thời kỳ đó Đảng đã làm nhiều việc để củng cố việc phòng không ở địa phương. Thực hiện nghị quyết tháng Bảy của Chính phủ và Hội đồng quốc phòng, hàng triệu dân chúng đã được huấn luyện về phòng không. Đối với người Mát-xcơ-va, lửa đạn không đáng sợ nữa. Bộ tổng tư lệnh tối cao đã tập trung ở vùng Mát-xcơ-va những đơn vị máy bay cường kích, tiêm kích và ném bom mới xây dựng trong mùa thu. Từ 20-10, Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã đặt Mát-xcơ-va và các vùng lân cận trong tình trạng giới nghiêm. Sinh hoạt của tất cả các đơn vị bảo vệ thủ đô được tổ chức hết sức nghiêm ngặt. Mỗi hành động vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đều được kiên quyết xử lý. Nhân dân Mát-xcơ-va tích cực chống lại những bọn phao tin đồn nhảm, coi đó là bọn tiếp tay cho địch. Thủ đô Xô-viết đã tỏ rõ tinh thần dũng cảm trước nguy cơ đang tới gần. Ban chấp hành trung ương và thành ủy Mát-xcơ-va đã phát đi lời thiết tha kêu gọi bảo vệ Thủ đô Xô-viết, tiêu diệt quân giặc. Lời kêu gọi đó đã được mỗi người dân Mát-xcơ-va, mỗi chiến sĩ Hồng quân cũng như mọi người Xô-viết hiểu rõ và nhiệt liệt hưởng ứng. Nhân dân Mát-xcơ-va đã biến Thủ đô và các vùng ven thành một pháo đài bất khả xâm phạm. Để đối phó với các đơn vị địch có thể lọt vào thành phố, nhân dân lao động đã thành lập và trang bị hàng trăm đội tự vệ chiến đấu và những tổ xung kích đánh xe tăng. Gần 10 vạn người đã vừa làm vừa học quân sự. Trong thời kỳ chiến đấu bảo vệ Thủ đô, họ đã gia nhập các đơn vị quân đội. Những hoạt động nhiều mặt của các đảng viên cộng sản Mát-xcơ-va để động viên nhân dân lao động đoàn kết đứng lên chống quân thù hung ác, bảo vệ Thủ đô, đã biến thành một bản trường ca anh hùng. Theo sáng kiến của nhân dân Thủ đô , trong những tháng đầu chiến tranh, đã thành lập 12 sư đoàn dân quân. Các cơ quan quân sự và tổ chức Đảng tiếp tục nhận được hàng nghìn đơn của nhân dân xin ra mặt trận. Trong các sư đoàn dân quân tình nguyện có chuyên gia đủ các nghề: công nhân, kỹ sư, nhân viên kỹ thuật, bác học, văn nghệ sĩ. Tất nhiên những người đó chưa quen lắm với sinh hoạt và công tác quân sự. Việc phục vụ trong quân đội còn mới đối với họ và họ phải vừa đánh vừa học. Nhưng điều nổi nhất của tất cả mọi người là: lòng yêu nước cao độ quyết tâm vững chắc và lòng tin vào thắng lợi. Và rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà các tổ chức chiến đấu tình nguyện do các tổ chức Đảng lãnh đạo trong nhiều thành phố, sau một thời gian, có kinh nghiệm tác chiến, đã trở thành những binh đoàn chiến đấu nổi tiếng. Anh chị em dân quân là nòng cốt của nhiều phân đội chuyên môn như trinh sát, trượt tuyết, họ tích cực hoạt động trong các đội du kích. Hàng chục vạn người Mát-xcơ-va ngày đêm làm việc để xây dựng những phòng tuyến bao quanh thành phố. Đáp ứng lời kêu gọi của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản liên bang (b), hàng ngàn đảng viên cộng sản và đoàn viên thanh niên Mát-xcơ-va cũng như các thành phố khác, đã ra mặt trận để làm các chiến sĩ chính trị. Họ đi đến đó, dùng hành động gương mẫu của mình nâng cao sức chiến đấu của bộ đội. Hội đồng quân sự Phương diện quân miền Tây trong những ngày khó khăn gian khổ đã gửi thư kêu gọi, trong đó nói: “Các đồng chí! Trong những giờ phút nước nhà lâm nguy này, cuộc sống của mỗi chiến sĩ đều thuộc về Tổ quốc. Tổ quốc đòi hỏi ở mỗi chúng ta sự cố gắng cao nhất, lòng dũng cảm, khí phách anh hùng và tinh thần bền bỉ. Chúng ta hãy xiết chặt hàng ngũ, đứng lên thành một bức tường thành không sức gì phá vỡ nổi để chặn không cho bầy phát-xít đến được Mát-xcơ-va thân yêu. Bây giờ, hơn lúc nào hết, cần phải có tinh thần cảnh giác, kỷ luật sắt, tinh tổ chức, tinh kiên quyết trong hành động, cần có ý chí sắt đá giành thắng lợi và tinh thần sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc”. Những sự kiện có ý nghĩa quyết định đang nhích gần lại. Vì lực lượng phòng ngự trên tuyến Vô-lô-cô-lam-xcơ - Mô-gia-ích - Ma-lô-ya-rô-xla-vét - Xéc-pu-khốp còn mỏng, và đôi chỗ đã bị địch lấn chiếm, cho nên Hội đồng quân sự phương diện quân đã chọn tuyến Nô-vô - Da-vi-dốp-xki - Clin - Hồ chứa nước I-xtơ-ra - Cra-xnai-a Pa-khơ-ra - Xéc-pu-khốp - A-lếch-xi-na làm tuyến phòng ngự chủ yếu có nhiệm vụ ngăn không cho địch đột phá vào Mát-xcơ-va. Do mặt trận kéo dài quá và việc chỉ huy các đơn vị thuộc khu vực Ca-li-nin gặp khó khăn, theo đề nghị của Hội đồng quân sự phương diện quân, ngày 17-10, Đại bản doanh đã ra lệnh tách các tập đoàn quân 22, 29, 30 và 31 khỏi biên chế của Phương diện quân miền Tây và thống nhất các tập đoàn quân đó vào Phương diện quân Ca-li-nin mới thành lập lại. Thượng tướng I.X. Cô-nép được cử làm tư lệnh Phương diện quân Ca-li-nin, Đ.X. Lê-ô-nốp, chính ủy quân đoàn - ủy viên Hội đồng quân sự, thiếu tướng I.I. I-va-nốp – tham mưu trưởng. Do việc thành lập phương diện quân này, dải phòng ngự của Phương diện quân miền Tây được rút ngắn lại và việc chỉ huy bộ đội cũng dễ dàng hơn. Phương diện quân Bri-an-xcơ do trung tướng A.I. Ê-rê-men-cô chỉ huy cũng đang gặp nhiều khó khăn rất lớn. Phần lớn các đơn vị của phương diện quân đã bị bao vây và dang vất vả phá vây để rút về phía đông. Bằng những cố gắng dầy khí phách anh hùng, ngày 23-10, các đơn vị đó đã vượt khỏi vòng vây. Rượt theo các đơn vị còn lại của Phương diện quân Bri-an-xcơ, những đơn vị phái đi trước của tập đoàn quân Gu-đê-ri-an đã tới Tu-la vào ngày 29-10. Trước ngày 10-11, thành phố Tu-la nằm trong dải phòng ngự của Phương diện quân Bri-an-xcơ. Sau khi chiếm được O-ri-ôn, quân Đức tiến về Tu-la. Lúc đó ở đây chỉ có các cơ quan hậu cần đang được thành lập của tập đoàn quân 50, vì vậy không còn đơn vị nào có đủ sức giữ thành phố. Hạ tuần tháng 10, 3 sư đoàn bộ binh đã bị tổn thất nặng được rút về đóng ở khu Tu-la. Quân số các sư đoàn này có từ 500 đến 1.500 chiến sĩ, nhưng trung đoàn pháo binh thì chỉ còn tất cả 4 khẩu. Các đơn vị khi rút về đều hết sức mệt mỏi. Nhân dân thành phố Tu-la đã tận tình giúp đỡ quân đội, họ khẩn trương vá quần áo, khâu giày dép và sửa vũ khí cho anh em. Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, mọi người lao động ngày đêm để nhanh chóng khôi phục sức chiến đấu của các đơn vị. Trong một thời gian ngắn, ủy ban bảo vệ thành phố, đứng đầu là đồng chí Va-xi-li Ga-vri-lô-vích Gia-vô-rôn-cốp bí thư Tỉnh ủy, đã thành lập và trang bị xong các đội ngũ công nhân. Cùng với các đơn vị của tập đoàn quân 50 thuộc Phương diện quân Bri-an-xcơ, các đội ngũ đó đã chiến đấu dũng cảm trên các cửa ngõ sát Tu-la và đã không cho địch lọt vào thành phố. Đặc biệt ngoan cường và dũng cảm trong chiến đấu là trung đoàn công nhân Tu-la do đại úy A.P. Goóc-scốp và chính ủy G.A. A-ghê-ép lãnh đạo và chỉ huy. Trung đoàn cùng với các đơn vị rút lui từ các nơi khác đến chiếm giữ tuyến phòng ngự trong vùng Cô-xai-a Gô-ra. Tướng V.X. Pô-pốp, tư lệnh khu phòng thủ Tu-la đã dùng trung đoàn cao xạ để đánh lui xe tăng Đức tại các cửa ngõ sát thành phố. Bộ đội ở khu Tu-la chiến đấu rất dũng cảm. Cuộc tiến công của tập đoàn quân Gu-đê-ri-an ngày 30-10 đã bị những người bảo vệ khu phòng thủ Tu-la đánh lui, và ở đây địch bị thiệt hại nặng. Gu-đê-ri-an dự định chiếm Tu-la trong hành tiến (như đã chiếm O-ri-ôn) và tiến quân vu hồi Mát-xcơ-va từ phía nam. Nhưng trong tháng 10 chúng đã không làm được. Ngày 10-11, Đại bản doanh quyết định giao việc phòng ngự Tu-la cho Phương diện quân miền Tây phụ trách. Phương diện quân Bri-an-xcơ bị giải thể. Dải phòng ngự của Phương diện quân miền Tây lại mở rộng ra khá nhiều. Dù quân địch có cố gắng đến đâu cũng không thể lấy được Tu-la trong tháng 11. Âm mưu của chúng chiếm Tu-la để mở đường từ phía nam tiến đánh Mát-xcơ-va cuối cùng bị đánh bại. Thành phố đã đứng vững như một pháo đài bất khả xâm phạm. Tu-la đã bó chân bó tay tất cả các đơn vị cánh phải của quân Đức. Không vào được Tu-la, địch chủ trương vòng qua, nhưng, chính vì thế mà chúng phải kéo dài đội hình ra, làm cho tập đoàn quân Gu-đê-ri-an bị mất độ dày đặc về chiến dịch và chiến thuật. Trong việc tiêu diệt quân Đức gần Mát-xcơ-va, nhân dân cả thành phố Tu-la đã góp phần xứng đáng.
Tôi nghĩ rằng, không cần phải kể hết toàn bộ các diễn biến về quân sự vì nó đã được nhiều lần kể lại tỉ mỉ trong nhiều tác phẩm lịch sử và mọi người đều biết đến kết quả của những trận chiến đấu phòng ngự tháng 10 ở Mát-xcơ-va. Trong một tháng tác chiến ác liệt và đẫm máu, tính tổng cộng, quân phát-xít Đức đã tiến được từ 230 đến 250 km. Tuy vậy, kế hoạch của bọn chỉ huy Hít-le mưu toan chiếm Mát-xcơ-va trong giữa tháng 10 đã bị đổ vỡ; lực lượng giặc bị tiêu hao nghiêm trọng, lực lượng xung kích của chúng bị phân tán. Cuộc tiến công của quân Đức ngày càng yếu dần và đến cuối tháng 10 bị chặn đứng trên tuyến Tuốc-ghi-nô-vô - Vô-lô-cô-lam-xcơ - Đô-rô-khô-vô - Na-rô Phô-min-xcơ, tây Xéc-pu-khốp, A-lếch-xi-na. Cùng thời gian này, ở khu vực Ca-li-nin, thế trận phòng ngự của bộ đội Phương diện quân Ca-li-nin đã trở nên ổn định. Không thể kể hết tên các anh hùng đã xuất hiện trong cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô tháng 10-1941. Không phải chỉ từng người mà có từng binh đoàn đã vì Tổ quốc lập nên những chiến công hiển hách làm rạng rỡ thêm truyền thống vẻ vang của quân đội. Ở bất cứ khu vực chiến đấu nào cũng đều có những đơn vị và binh đoàn như thế. Trên hướng Vô-lô-cô-lam-xcơ là nơi có mũi tiến công thoạt đầu của quân đoàn 5 Đức và sau đó thêm hai quân đoàn cơ giới địch nữa, các đơn vị của tập đoàn quân 16 mới thành lập lại đã ngoan cường chống lại quân giặc, kiên cường giữ vững các khu phòng thủ. Đặc biệt xuất sắc là sư đoàn bộ binh do thiếu tướng Păng-phi-lốp chỉ huy, về sau được đổi thành sư đoàn cận vệ 8. Trung đoàn học viên sĩ quan do đại tá I.X. Mơ-la-đen-xép chỉ huy, được ba trung đoàn pháo chống tăng yểm hộ, cũng chiến đấu rất anh dũng tại đây. Trên hướng Mô-gia-ích, sư đoàn 32 bộ binh, do đại tá V.I. Pô-lô-xu-khin chỉ huy, đã ngoan cường chiến đấu chống lại một lực lượng lớn quân địch gồm quân đoàn cơ giới Đức số 40 và những đơn vị lớn xe tăng và máy bay yểm hộ khác. 130 năm sau cuộc chinh chiến của Na-pô-lê-ông, sư đoàn đã được đấu súng với quân giặc ngay trên cánh đồng Bô-rô-đi-nô, cánh đồng từ lâu đã trở thành niềm kiêu hãnh của dân tộc, đài kỷ niệm bất diệt về nền nghệ thuật quân sự vẻ vang của nước Nga. Các chiến sĩ sư đoàn bộ binh 32 đã không làm tổn hại mà còn tô thắm thêm truyền thống vinh quang đó. Ở cửa ngõ thành phố Ma-lô-ya-rô-xla-vét là nơi quân đoàn 12 và quân đoàn cơ giới 57 Đức tiến công, sư đoàn bộ binh 312 do đại tá A.Ph. Na-u-mốp chỉ huy cùng với học viên trường trung học lục quân và pháo binh Pô-đôn-xcơ đã chiến đấu rất dũng cảm. Trong vùng Mê-đư-nhơ, đơn vị xe tăng của đại tá I.I. Tơ-rốt-xki mà tôi có nói ở trên, đã quyết tử để giữ vững trận địa. Chiến sĩ và cán bộ sư đoàn bộ binh 110 và lữ đoàn cơ giới 181 đã tô thắm thêm lá cờ vẻ vang của đơn vị mình trong các trận chiến đấu ở thành phố Nga Bô-rốp-xcơ cổ kính. Tiểu đoàn xe tăng 127 đã cùng với họ kề vai chiến đấu đánh lui cuộc tiến công của quân địch. Chỉ sau khi bị tổn thất rất lớn, địch mới đẩy được chúng ta lui về sông Prốt-va rồi đến sông Na-ra, nhưng tới đây chúng không thể tiến thêm một bước nào nữa. Mỗi khi nhắc đến các chiến công anh hùng đó, chúng ta không phải chỉ nói đến công lao của các chiến sĩ, cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị. Tất cả những thành quả trên chiến trường trong tháng 10 và trong các trận sau đó chỉ có thể đạt được, một khi có sự nhất trí và cố gắng chung của các đơn vị bộ đội Xô-viết, của các đảng viên cộng sản, của nhân dân lao động Thủ đô và tỉnh Mát-xcơ-va, được sự ủng hộ đều khắp của toàn thể nhân dân đất nước chúng ta. Trong thời gian khó khăn ấy, Đại bản doanh đã tăng cường cho Phương diện quân miền Tây tập đoàn quân 33, do trung tướng Ê-phơ-rê-mốp chỉ huy. Tập đoàn quân 33 phòng ngự trong vùng Na-rô Phô-min-xcơ, ở nơi tiếp giáp giữa tập đoàn quân 5 và tập đoàn quân 43. Tập đoàn quân 43 thì phòng ngự ở phía nam Na-rô Phô-min-xcơ dọc theo bờ phía đông sông Na-ra và tập đoàn quân 49 thì chiếm giữ tuyến tây Xéc-pu-khốp - đông Ta-ru-xa, A-lếch-xi-na. Sau khi đã trụ vững trên tuyến đó, bộ đội thuộc phương diện quân có đầy đủ quyết tâm dùng mọi vu khí có trong tay để đánh trả cuộc tiến công của quân địch. Các chiến sĩ Phương diện quân miền Tây đã học tập được nhiều qua ba tuần chiến đấu của tháng 10. Trong các đơn vị, công tác Đảng, công tác chính trị và công tác giáo dục đã được tiến hành sâu rộng với nội dung cơ bản là phổ biến rộng rãi các phương pháp tiêu diệt địch, giáo dục chủ nghĩa anh hùng của tập thể và của từng người, động viên tinh thần dũng cảm chiến đấu của các đơn vị. Tôi muốn đặc biệt nêu lên Đ.A. Le-xtép, chính ủy sư đoàn, chủ nhiệm chính trị Phương diện quân miền Tây. Đ.A. Le-xtép, một đảng viên xuất sắc, một chiến sĩ rất can đảm đã có công lao rất lớn trong việc chỉ đạo tiến hành công tác chính trị trong các đơn vị. V.E. Ma-ca-rốp, người thay đồng chí khi đồng chí bị thương, cũng đã cố gắng nhiều để tăng cường công tác Đảng và công tác chính trị trong các đơn vị. Ngày 1-11-1941, tôi được gọi về Đại bản doanh. I.V. Xta-lin nói: - Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười, ngoài lễ kỷ niệm trọng thể ra, chúng tôi muốn tổ chức ở Mát-xcơ-va cả duyệt binh nữa. Đồng chí thấy thế nào? Tình hình ngoài mặt trận có cho phép chúng ta tổ chức long trọng như thế không? Tôi trả lời: - Những ngày sắp tới giặc chưa mở được những cuộc tiến công lớn. Chúng bị thiệt hại nặng trong những trận đánh vừa qua và buộc phải bổ sung thêm quân số và chấn chỉnh tổ chức, nhưng chắc chắn chúng sẽ tăng cường các hoạt động bằng không quân. Vì vậy, tôi đề nghị tăng cường công tác phòng không, và điều các đơn vị máy bay tiêm kích của ta từ các mặt trận khác về Mát-xcơ-va. Như mọi người đều biết, hôm trước ngày hội, trong phòng khách của ga xe điện ngầm Mai-a-cốp-xki đã cứ hành buổi lễ long trọng kỷ niệm lần thứ 24 Cách mạng Tháng Mười và ngày 7-11 đã tổ chức lễ duyệt binh cổ truyền tại Quảng trường đỏ. Còn các chiến sĩ thì từ Quảng trường đỏ đi thẳng ra mặt trận. Sự kiện đó có tác dụng rất lớn trong việc củng cố tinh thần của quân đội và nhân dân Liên Xô và có ý nghĩa quốc tế lớn lao. Trong lời nói của I.V. Xta-lin, một lần nữa chúng ta thấy lòng tin tưởng của Đảng và Chính phủ vào sự thất bại không thể tránh khỏi của bọn xâm lược. Cùng trong thời gian đó, trên những khu vực bị uy hiếp, chúng ta đã tổ chức phòng ngự chống tăng thành nhiều tuyến, xây dựng những điểm tựa và khu chống tăng. Theo chỉ thị của Hội đồng quốc phòng Nhà nước và Đại bản doanh, các đơn vị quân đội được bổ sung quân số, trang bị đạn dược, phương tiện thông tin liên lạc, công binh và vật chất kỹ thuật khác. Cả nước đã cung cấp các thứ đó cho các chiến sĩ bảo vệ Mát-xcơ-va. Bộ tổng tư lệnh lấy lực lượng dự bị xây dựng ở hậu phương lớn chuyển cho mặt trận những binh đoàn bộ binh và xe tăng bổ sung để có lực lượng sử dụng tập trung ở các hướng xung yếu nhất. Phần lớn các đơn vị được đưa đến các hướng Vô-lô-cô-lam-xcơ - Clin và I-xtơ-ra, nơi dự kiến sẽ là hướng tiến công chủ yếu của các tập đoàn xe tăng thiết giáp địch. Chúng ta đưa cả lực lượng dự bị đến vùng Tu-la, Xéc-pu-khốp để chuẩn bị chống lại đòn tiến công thứ hai của tập đoàn quân xe tăng 2 và tập đoàn quân dã chiến 4 Đức. Từ ngày 1 đến 15 tháng 11, Phương diện quân miền Tây đã được bổ sung 10 vạn cán bộ và chiến sĩ, 300 xe tăng, 2 nghìn cỗ đại bác. Một hôm giữa Tổng tư lệnh tối cao và tôi đã có một cuộc nói chuyện không được thoải mái trên dây nói. - Quân địch đang hành động thế nào? - I.V. xta-lin hỏi. - Chúng đang hoàn thành việc tập trung các tập đoàn xung kích, có lẽ, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ chuyển sang tiến công. - Tôi trả lời. - Theo đồng chí thì mũi đột kích chủ yếu của địch sẽ ở đâu? - Đòn mạnh nhất của địch sẽ đánh từ Vô-lô-cô-lam-xcơ. Tập đoàn quân của Gu-đê-ri-an chắc sẽ vòng qua Tu-la để đánh Ca-si-ra. - Chúng tôi và Sa-pô-sni-cốp thấy, ta cần phải mở những mũi phản kích trước để phá vỡ các mũi đột kích mà địch đang chuẩn bị. Nên tổ chức một mũi phản kích ở vùng Vô-lô-cô-lam-xcơ và một mũi từ vùng Xéc-pu-khốp đánh vào sườn tập đoàn quân 4 Đức. Vì đây là nơi địch đang tập trung những lực lượng lớn để đánh vào Mát-xcơ-va. - Ta sẽ dùng lực lượng nào để thực hiện các cuộc phản kích đó? Tất cả lực lượng của Phương diện quân miền Tây đều sử dụng cả rồi. Chúng tôi chỉ có đủ lực lượng để phòng ngự. - Trong vùng Vô-lô-cô-lam-xcơ các đồng chí hãy sử dụng các binh đoàn bên sườn phải thuộc tập đoàn quân của Rô-cô-xốp-xki, sư đoàn xe tăng và quân đoàn kỵ binh của Đô-va-to. Trong vùng Xéc-pu-khốp, nên sử dụng quân đoàn kỵ binh của Bê-lốp, sư đoàn xe tăng của Ghét-man và một phần lực lượng của tập đoàn quân 49. - Bây giờ không nên làm việc đó. Chúng tôi không dám dùng lực lượng dự bị cuối cùng của mình để tiến hành phản kích khi chưa nắm chắc phần thắng. Chúng tôi sẽ không có lực lượng để tăng cường củng cố phòng ngự khi các tập đoàn xung kích địch chuyển sang tiến công. - Phương diện quân các đồng chí có 6 tập đoàn quân, thế có phải là ít không? - Nhưng thật ra tuyến phòng ngự của bộ đội Phương diện quân miền Tây bị kéo ra rất dài; với nhiều khúc cong hiện nay nó đã dài đến hơn 600 km. Chúng tôi có rất ít lực lượng dự bị ở bên trong, nhất là ở giữa. - Vấn đề tổ chức các đòn phản kích đã được quyết định rồi. Đồng chí cho chúng tôi kế hoạch thực hiện vào chiều hôm nay. – I.V. Xta-lin không hài lòng cắt đứt cuộc nói chuyện. Chừng 15 phút sau, N.A. Bun-ga-nin đến chỗ tôi, và ngay từ cửa đã nói: - Tôi vừa bị phê bình một trận gay gắt. - Phê bình gì thế? - Xta-lin nói với tôi: “Đồng chí và Giu-cốp ở đấy tự kiêu lắm. Nhưng chúng tôi sẽ tìm cách sửa chữa cho các đồng chí”. Đồng chí yêu cầu tôi đến đây và cùng với anh tổ chức ngay các cuộc phản kích. - Thôi, còn gì nữa, hãy ngồi xuống đây. Chúng ta sẽ gọi Va-xi-li Đa-ni-lô-vích Xô-cô-lốp-xki và báo trước cho các tư lệnh tập đoàn quân Rô-cô-xốp-xki và Da-khác-kin biết về việc đó. Khoảng 2 tiếng đồng hồ sau, bộ tham mưu phương diện quân ra mệnh lệnh tổ chức phản kích cho các tư lệnh tập đoàn quân 16, 49 và chỉ huy các binh đoàn, rồi báo cáo mệnh lệnh đó lên Đại bản doanh. Tuy vậy, những đòn phản kích mà chủ yếu là do các đơn vị kỵ binh tiến hành, đã không đem lại kết quả tích cực như Tổng tư lệnh tối cao mong đợi. Quân giặc còn đầy đủ sức mạnh và tinh thần hăng say tiến công của chúng chưa nguội. Để tiếp tục cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va, bộ chỉ huy quân Đức đã điều những lực lượng mới đến, và đến ngày 15-11, chúng đã tập trung được ở phía trước Phương diện quân miền Tây 51 sư đoàn, trong đó có 31 sư đoàn bộ binh, 13 sư đoàn xe tăng và 7 sư đoàn cơ giới, tất cả được bổ sung đủ về quân số, xe tăng, pháo binh và phương tiện kỹ thuật. Trên hướng Vô-lô-cô-lam-xcơ - Clin và I-xtơ-ra, quân địch tập trung hai cụm xe tăng 3 và 4, thành phần có 7 sư đoàn xe tăng, 3 sư đoàn cơ giới, 3 sư đoàn bộ binh được 2.000 khẩu pháo và một tập đoàn không quân mạnh chi viện. Trên hướng Tu-la - Ca-si-ra, tập đoàn xung kích quân giặc gồm có: quân đoàn cơ giới 24 và 47, quân đoàn 53 và 43, tổng số tất cả có 9 sư đoàn (trong đó có 4 sư đoàn xe tăng) và trung đoàn cơ giới SS “Đại Đức” được một tập đoàn không quân mạnh chi viện. Tập đoàn quân dã chiến 4 Đức trong biên chế có 6 quân đoàn đã triển khai trên các hướng: Dơ-vê-ni-gô-rốt, Cu-bin-ca, Na-rô Phô-min-xcơ, Pô-đôn-xcơ và Xéc-pu-khốp. Chính tập đoàn quân này đã nhận lệnh tiến công vào chính diện, kiềm chế các đơn vị phòng ngự của Phương diện quân miền Tây, làm cho các đơn vị của ta ở đó yếu đi rồi sau đó đột kích vào giữa mặt trận tiến về Mát-xcơ-va. Như thế là ngày 15-11, bộ chỉ huy quân Đức đã bắt đầu giai đoạn hai của cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va lấy mật danh là “Bão táp” bằng đòn đột kích vào tập đoàn quân 30 thuộc Phương diện quân Ca-li-nin. Tập đoàn quân 30 này có trận địa phòng ngự rất yếu ở phía nam hồ chứa nước Von-ga. Cùng lúc đó, quân địch cũng tiến công các đơn vị thuộc Phương diện quân miền Tây, đánh vào sườn phải tập đoàn quân 16 ở phía nam sông Sô-si. Mũi đột kích bổ trợ của địch đánh vào dải phòng ngự của tập đoàn quân 16 trong vùng Tê-ri-a-ê-vai-a Xlô-bô-đa. Chống lại trên 300 xe tăng địch, tập đoàn quân 30 chỉ có 56 xe tăng loại nhẹ, được trang bị kém. Vì vậy, dải phòng ngự của tập đoàn quân đã nhanh chóng bị chọc thủng. Từ sáng 16-11, quân địch bắt đầu phát triển tiến công mạnh vào Clin. Trong khu vực này chúng ta không có lực lượng dự bị, vì theo lệnh của Đại bản doanh, lực lượng đó đã được sử dụng để tổ chức mũi phản kích ở vùng Vô-lô-cô-lam-xcơ và hiện đang bị địch kiềm chế tại đấy. Cũng trong ngày đó, quân phát-xít Đức đã tiến công mãnh liệt vào khu Vô-lô-cô-lam-xcơ. Trên hướng I-xtơ-ra có 2 sư đoàn xe tăng và 2 sư đoàn bộ binh Đức tiến công. Quân địch đã dùng 400 xe tăng hạng trung chống với 150 chiếc hạng nhẹ của chúng ta. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Các sư đoàn bộ binh của ta chiến đấu rất ngoan cường, nhất là sư đoàn bộ binh 316 của tướng I.V. Păng-phi-lốp, sư đoàn 78 của tướng A.P. Bê-lô-bô-rô-đốp và sư đoàn của tướng P.N. Chéc-nư-sép, sư đoàn xe tăng cận vệ 1, các lữ đoàn xe tăng độc lập 23, 27, 28 và đoàn kỵ binh của thiếu tướng L.M. Đô-va-to. Lúc 23 giờ ngày 17-11, tập đoàn quân 30 của Phương diện quân Ca-li-nin được lệnh của Đại bản doanh chuyển thuộc sang Phương diện quân miền Tây, vì vậy tuyến phòng ngự của phương diện quân lại mở rộng hơn nữa lên phía bắc (tới hồ chứa nước Von-ga) Đại bản doanh quyết định cử thiếu tướng Đ.Đ. Lê-liu-sen-cô làm tư lệnh tập đoàn quân 30 thay thiếu tướng V.A. Khô-men-cô bị huyền chức. Những cuộc chiến đấu từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 11 thật gay go khó khăn đối với chúng ta. Quân giặc không kể gì đến thiệt hại, đã vượt qua mọi trở ngại để tiến vào và cố gắng bằng mọi giá, lao các mũi nhọn xe tăng về phía Mát-xcơ-va. Nhưng do dải phòng ngự của ta có bố trí pháo binh và pháo chống tăng sâu thành nhiều tuyến, lại có sự hợp đồng chặt chẽ giữa các binh chủng, nên quân địch đã không chọc thủng được đội hình của quân ta. Tập đoàn quân 16 đã rút dần và hoàn toàn có trật tự về những tuyến phòng ngự đã chuẩn bị trước lại có pháo binh bố trí sẵn để tiếp tục cuộc chiến đấu kiên cường đánh lui những đợt tiến công điên cuồng của bọn Hít-le. Lữ đoàn xe tăng cận vệ 1, được chuyển thuộc tập đoàn quân 16 đã tác chiến với một tinh thần dũng cảm vô song. Hồi tháng 10, lữ đoàn này (lúc đó là lữ đoàn xe tăng 4) chiến đấu anh dũng ở O-ri-ôn và Mơ-xen-xcơ, và đã được tặng danh hiệu cao quý lữ đoàn xe tăng cận vệ 1. Bây giờ đây, trong tháng 11 này, các đồng chí cán bộ và chiến sĩ xe tăng cận vệ bảo vệ cửa ngõ Mát-xcơ-va lại nêu cao hơn nữa truyền thống chiến đấu vẻ vang của mình, lập thêm những chiến công mới. Hội đồng quốc phòng Nhà nước, một bộ phận cơ quan lãnh đạo của Ban chấp hành trung ương Đảng và của Hội đồng các Bộ ủy viên nhân dân tiếp tục làm việc ở Mát-xcơ-va như trước. Công nhân Mát-xcơ-va lao động từ 12 đến 18 giờ một ngày để bảo đảm vũ khí, binh khí kỹ thuật, đạn dược cho các đơn vị bảo vệ Mát-xcơ-va. Nhưng Thủ đô vẫn chưa qua khỏi cơn nguy nan. Một hôm - tôi không nhớ rõ ngày - vào khoảng ngay sau khi quân địch đã chọc thủng khu phòng ngự chiến thuật của tập đoàn quân 30 Phương diện quân Ca-li-nin và của cánh phải tập đoàn quân 16, I.V. Xta-lin gọi điện thoại cho tôi và hỏi: - Đồng chí có tin là chúng ta sẽ giữ được Mát-xcơ-va không? Tôi rất đau lòng hỏi đồng chí vấn đề đó. Đồng chí hãy lấy danh dự một người cộng sản cho tôi biết ý kiến. - Bất cứ trong điều kiện nào chúng tôi cũng sẽ giữ được Mát-xcơ-va. Nhưng cần thêm ít ra là hai tập đoàn quân và 200 xe tăng nữa. - Tin như vậy là rất tốt, - I.V. Xta-lin nói, - đồng chí hãy gọi dây nói về Bộ Tổng tham mưu và thống nhất với các đồng chí trên đó về địa điểm cần tập trung hai tập đoàn quân dự bị mà đồng chí đề nghị bổ sung. Cuối tháng 11 sẽ có đủ hai tập đoàn quân ấy nhưng xe tăng thì hiện nay chưa có. Nửa tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã thỏa thuận với A.M. Va-xi-lép-xki là tập đoàn quân xung kích 1 đang thành lập sẽ tập trung ở khu Ya-khơ-rô-ma, còn tập đoàn quân 10 ở khu Ri-a-dan. Trên hướng chiến dịch Tu-la - Mát-xcơ-va quân địch chuyển sang tiến công vào ngày 18-11. Các sư đoàn xe tăng 3, 4, 17 của địch tiến công ở hướng Vê-nép, nơi phòng ngự của các sư đoàn bộ binh 413 và 299 thuộc tập đoàn quân 50 của ta. Sau khi đột phá phòng ngự của ta, các sư đoàn địch đã chiếm khu Bô-lô-khô-vô - Đê-đi-lô-vô. Chúng ta liền tung các sư đoàn bộ binh 239 và sư đoàn kỵ binh 41 ra để chống trả quân địch ở U-dơ-lô-vai-a. Quân ta đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng tập thể, chiến đấu quyết liệt không phân biệt đêm ngày. Chiến đấu ngoan cường nhất là các đơn vị thuộc sư đoàn 413 bộ binh. Ngày 21-11, U-dơ-lô-vai-a và Xta-li-nô-goóc-xcơ bị chủ lực của cụm xe tăng Gu-đê-ri-an chiếm. Trên hướng Mi-khai-lốp thì có quân đoàn cơ giới 47 của giặc đang tiến công. Tu-la đã ở trong hoàn cảnh rất phức tạp. Trong những điều kiện đó, Hội đồng quân sự phương diện quân đã hạ quyết tâm tăng cường cho đoạn phòng ngự Ca-si-ra sư đoàn xe tăng 112 do đại tá A.L. Ghét-man chỉ huy[3]; cho đoạn Ri-a-ran - một lữ đoàn xe tăng và một số đơn vị khác, cho đoạn Da-rai - một lữ đoàn xe tăng 9 và các tiểu đoàn xe tăng độc lập 35 và 127; cho đoạn Láp-tê-va - trung đoàn bộ binh 510 với một đại đội xe tăng. Ngày 26-11, sư đoàn xe tăng 3 địch đã dồn được các đơn vị của chúng ta lại và cắt đứt đường sắt và đường cái Tu-la đi Mát-xcơ-va ở phía bắc Tu-la. Tuy nhiên, quân đoàn kỵ binh I của tướng P.A. Bê-lốp, sư đoàn xe tăng 112 và nhiều đơn vị khác của phương diện quân ở vùng Ca-si-ra đã không cho quân địch tiến sâu vào đoạn đó. Sư đoàn bộ binh 173 và trung đoàn súng cối cận vệ 15 được điều động bổ sung đến để chi viện cho các đơn vị đang chiến đấu tại đây. Ngày 27-11, quân đoàn kỵ binh của tướng P.A. Bê-lốp hiệp đồng với sư đoàn xe tăng 112, sư đoàn bộ binh 173 và các đơn vị khác, đã mở đòn phản kích vào các đơn vị của Gu-đê-ri-an và đẩy chúng lùi xuống phía nam được 10 đến 15 km về phía Moóc-đơ-vét. Các trận chiến căng thẳng trong khu Ca-si-ra - Moóc-đơ-vét tiếp diễn đến tận 30-11. Quân giặc ở đây không sao thu được thắng lợi. Gu-đê-ri-an, tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 2 Đức đã thấy không thể bẻ gãy được sự kháng cự kiên cường của Quân đội Xô-viết trong vùng Ca-si-ra và không thể tiến nổi về phía Mát-xcơ-va. Quân Đức buộc phải chuyển sang phòng ngự ở khu này. Các đơn vị Quân đội Xô-viết tác chiến ở đây đã đánh lùi tất cả các đòn tiến công của giặc, gây cho chúng những thiệt hại to lớn và không cho chúng tới Mát-xcơ-va. Tình hình bên cánh phải phương diện quân trong khu vực I-xtơ-ra - Clin, Xô-nét-nô-goóc-xcơ tiến triển xấu hơn nhiều. Ngày 23-11, các đơn vị xe tăng địch đột nhập vào Clin. Để tránh khỏi bị bao vây, trong đêm 23 rạng 24 tháng 11, đã cho các đơn vị thuộc tập đoàn quân 16 rút về tuyến phòng ngự ở phía sau. Tập đoàn quân này đã rút khỏi Clin sau những trận chiến đấu ác liệt. Clin bị mất, tạo nên một khoảng cách giữa tập đoàn quân 16 và 30 mà chỉ có một bộ phận lực lượng nhỏ của phương diện quân kiểm soát khoảng cách đó. Ngày 25-11, tập đoàn quân 16 lại phải rút khỏi thành phố Xô-nét-nô-goóc-xcơ. Ở đây đã hình thành một nguy cơ lớn. Hội đồng quân sự phương diện quân liền bổ sung cho tập đoàn quân 16 trong khu Xô-nét-nô-goóc-xcơ tất cả lực lượng có thể lấy được từ các nơi khác của phương diện quân, trong đó có những nhóm chiến sĩ có vũ khí chống tăng, những tổ xe tăng độc lập, các đại đội pháo binh và tiểu đoàn cao xạ lấy của tướng M.X. Grô-ma-đin, tư lệnh phòng không Mát-xcơ-va, v..v... Dù thế nào cũng phải chặn được quân địch ở khu vực này cho đến khi sư đoàn bộ binh 7 từ Xéc-pu-khốp, 2 lữ đoàn xe tăng và 2 trung đoàn pháo chống tăng thuộc lực lượng dự bị của Bộ tổng tư lệnh kịp tới tiếp viện. Tuyến phòng ngự của chúng ta đã móp lại thành hình cung, tạo nên nhiều chỗ rất yếu, tưởng chừng như sắp sửa rạn nứt không sao hàn gắn được. Nhưng không! Các chiến sĩ ta vẫn kiên cường giữ vững tinh thần, và sau khi được chi viện, đã xây dựng lại trận tuyến phòng ngự đủ sức giữ không cho quân địch vượt qua. Chiều ngày 29-11, lợi dụng đoạn phòng ngự yếu ở chỗ cầu qua sông đào Mát-xcơ-va - Von-ga trong khu Ya-khơ-rô-ma, một đơn vị xe tăng địch đã đánh chiếm cầu và vượt sang bên này sông đào. Đến đây, chúng bị những đơn vị phái đi trước của tập đoàn quân xung kích 1 do trung tướng V.I. Cu-dơ-nét-xốp chỉ huy chặn lại, và sau một trận chiến đấu ác liệt, chúng lại bị đánh bật trở về bên kia sông. Tình hình mặt trận diễn biến thật vô cùng phức tạp Vì vậy đôi lúc đã xảy ra những việc chỉ có thể lấy tính chất hết sức căng thẳng của tình hình lúc đó ra mà giải thích. Đây là một ví dụ: Một hôm, không biết từ đâu, Tổng tư lệnh tối cao nhận được tin quân ta rút khỏi Đê-đốp-xcơ, một thành phố ở phía tây-bắc Na-kha-bin. Thành phố này rất gần Mát-xcơ-va. Tất nhiên là I.V. Xta-lin rất lo lắng về tin đó. Mới ngày 28 và 29 tháng 11 vừa qua, sư đoàn bộ binh cận vệ 9 do thiếu tướng A.P Bê-lô-bô-rô-đốp chỉ huy đã đánh lui nhiều cuộc tiến công ác liệt của địch ở khu I-xtơ-ra. Thế mà chỉ qua một ngày đêm đã có tin, Đê-đốp-xcơ bị sa vào tay bọn Hít-le. I.V Xta-lin gọi tôi, hỏi qua dây nói: - Đồng chí có biết tin Đê-đốp-xcơ bị địch chiếm không? - Thưa đồng chí Xta-lin, tôi không biết. Tổng tư lệnh tối cao có vẻ nổi nóng, nói ngay: “Làm tư lệnh là phải biết những việc xảy ra ở mặt trận của mình” và lệnh cho tôi phải đến ngay tại chỗ để trực tiếp nghiên cứu, tổ chức phản công lấy lại Đê đốp-xcơ Tôi có ý kiến nói lại rằng, trong tình hình gay go hiện nay có nên bỏ bộ tham mưu phương diện quân mà ra đi hay không. - Không sao, chúng ta sẽ có cách khắc phục tình hình đó, sẽ giao cho Xô-cô-lốp-xki thay thế đồng chí trong thời gian này. Đặt máy nói xuống, tôi liên lạc ngay với K.K. Rô-cô-xốp-xki[4] và yêu cầu giải thích tại sao bộ tham mưu phương diện quân không được thông báo về việc rút lui khỏi Đê-đốp-xcơ. Ngay lúc đó tôi được biết là thành phố Đê-đốp-xcơ chưa bị dịch chiếm, mà có lẽ làng Đê-đô-vơ đã bị chiếm. Trong khu Khơ-va-xcôi-ê - Đê-đô-vơ - Xne-ghi-ri và quá xuống phía nam, có sư đoàn bộ binh cận vệ 9 đang chiến đấu quyết liệt để ngăn không cho địch đột phá dọc theo đường cái Vô-lô-cô-lam-xcơ tiến vào Đê-đốp-xcơ, Na-kha-bin. Đúng là có sự nhầm lẫn. Tôi quyết định gọi dây nói về Đại bản doanh báo cáo tất cả những sự nhầm lẫn ấy. Nhưng lần này cũng vậy, và như người ta nói “cái hái đã đụng vào đá”. Tổng tư lệnh tối cao nổi nóng thực sự. Đồng chí yêu cầu tôi đến ngay chỗ K.K. Rô-cô-xốp xki để tìm cách chiếm bằng được cái thị trấn đang bị mắc nạn đó ra khỏi tay địch. Tổng tư lệnh tối cao lại còn ra lệnh lấy L.A. Gô-vô-rốp tư lệnh tập đoàn quân 5 đi theo. Tổng tư lệnh nói: “Gô-vô-rốp là một cán bộ pháo binh. Đồng chí ấy sẽ giúp K.K. Rô-cô-xốp-xki tổ chức pháo bắn yểm hộ cho tập đoàn quân 16”. Phản đối lại trong hoàn cảnh này là không nên. Lúc tôi triệu tập tướng L.A Gô-vô-rốp lại để giao nhiệm vụ thì đồng chí đã nêu ra đầy đủ các lý lẽ sau đây để chứng minh rằng đồng chí không cần đi: Tập đoàn quân 16 cũng có chủ nhiệm pháo binh là thiếu tướng pháo binh V.I. Ca-da-cốp và bản thân tư lệnh tập đoàn quân cũng biết những việc cần phải làm, việc gì phải bắt đồng chí đó[5] bỏ tập đoàn quân mình trong lúc nước sôi lửa bỏng thế này. Để khỏi bàn cãi thêm nhiều, tôi phải nói với tướng Gô-vô-rốp rằng, đây là mệnh lệnh của I.V. Xta-lin. Chúng tôi qua chỗ K.K. Rô-cô-xốp-xki và cùng nhau đi ngay đến sư đoàn của A.P. Bê-lô-bô-rô-đốp. Chắc đâu tư lệnh sư đoàn đã vui mừng về sự có mặt của chúng tôi ở sư đoàn. Trong lúc công việc nhiều đến tận cổ mà còn phải để thì giờ trình bày cho chúng tôi về việc địch chiếm mấy ngôi nhà nhỏ bé trong làng Đê-đô-vơ ở tận bờ khe bên kia. A.P. Bê-lô-bô-rô-đốp báo cáo tình hình và nói như thuyết phục chúng tôi rằng, về ý nghĩa chiến thuật, không cần phải chiếm lại mấy ngôi nhà đó. Rất tiếc là tôi không thể nói với đồng chí đó rằng, trong trường hợp này tôi hành động không phải vì tuân theo yêu cầu của chiến thuật. Vì vậy, tôi đã lệnh cho A.P. Bê-lô-bô-rô-đốp cử ra 1 đại đội bộ binh cùng 2 xe tăng để đánh bật trung đội Đức đang bám mấy ngôi nhà đó. Khoảng sáng ngày 1-12, công việc đó được làm xong. Nhưng chúng ta hãy quay trở lại cái sự kiện quan trọng hơn. Ngày 1-12, quân Hít-le đã bất ngờ đột phá khoảng giữa mặt trận, chỗ tiếp giáp của hai tập đoàn quân 5 và 33 và tiến theo đường cái về Cu-bin-ca. Tuy nhiên, đến làng A-cu-lô-vô chúng bị sư đoàn bộ binh 32 chặn lại. Sư đoàn đã dùng pháo bắn tiêu diệt một bộ phận xe tăng địch. Nhiều xe tăng địch cũng bị tan xác trong các bãi mìn. Lúc này các đơn vị xe tăng địch bị thiệt hại nặng đã phải quay về Gô-lít-sư-nô và cuối cùng bị các đội dự bị của phương diện quân và các đơn vị của tập đoàn quân 5 và 33 tiếp cận đến tiêu diệt gọn Ngày 4-12, chúng ta hoàn toàn bẻ gãy mũi đột phá của quân địch. Chúng phải bỏ lại trên chiến trường hơn 1 vạn xác chết, 50 chiếc xe tăng tan tành và nhiều phương tiện kỹ thuật khác. Trong những ngày đầu tháng 12, trên tính chất những hành động và mức độ các trận đánh của tất cả các binh đoàn của chúng, địch đã tỏ ra thấm mệt và không còn đủ lực lượng và phương tiện tiếp tục tiến công. Trong quá trình diễn biến của chiến dịch tiến công Mát-xcơ-va, quân địch đã triển khai các lực lượng xung kích trên một chính diện rộng và tung các quả đấm bằng xe tăng đi khá xa, kết quả là chúng đã dàn các đơn vị của chúng trên một tuyến dài đến nỗi trong các trận đánh cuối cùng ở cửa ngõ Mát-xcơ-va, chúng không còn đủ sức chọc thủng mặt trận của ta nữa. Bọn chỉ huy quân đội Hít-le đã không ngờ nổi những thiệt hại to lớn như vậy trong khi tiến đánh Mát-xcơ-va, chúng không thể bù đắp những thiệt hại đó, không thể tăng cường cho các đơn vị của chúng ở gần Mát-xcơ-va. Qua các lời khai của tù binh, chúng ta được biết rằng trong một số đại đội, quân số của chúng chỉ còn từ 20 - 30 tên, tinh thần chúng đã sa sút hẳn, chúng không còn tin sẽ chiếm được Mát-xcơ-va. Quân ta thuộc Phương diện quân miền Tây cũng bị mất mát, mệt mỏi nhưng đã giữ không để một đoạn mặt trận nào bị chọc thủng. Có lực lượng dự bị đến tăng cường, được Đảng động viên, cán bộ và chiến sĩ ta đã nhân sức mạnh lên gấp mười lần để chiến đấu với địch ở cửa ngõ Mát-xcơ-va. Trong 20 ngày giai đoạn 2 cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va, quân Đức đã chết và bị thương đến trên 15,5 vạn tên, bị diệt và phá hủy gần 800 xe tăng, trên 300 khẩu pháo và khoảng 1.800 máy bay. Những thiệt hại nặng nề, khả năng không thực hiện nổi các nhiệm vụ chiến lược đã gieo rắc trong binh lính Đức sự nghi ngờ về kết cục thắng lợi của chiến tranh nói chung. Giới lãnh đạo quân sự và chính trị phát-xít đã mất uy tín trước con mắt của nhân dân thế giới. Ngày nay bọn tướng lĩnh và thống chế cũ của Hít-le đổ lỗi cho chính Hít-le đã làm cho kế hoạch đánh chiếm Mát-xcơ-va nói riêng và kế hoạch chiến tranh nói chung bị phá sản. Họ buộc tội Hít-le đã không nghe lời họ , mà đã cho cụm tập đoàn quân “Trung tâm” ngừng tiến vào Mát-xcơ-va trong tháng 8 để chuyển một phần lực lượng xuống, tiến đánh U-crai-na. Ví dụ, Ph. Mê-len-tin viết: “Đòn tiến công vào Mát-xcơ-va được Gu-đê-ri-an ủng hộ (hồi tháng 8 có lúc chúng tôi không đồng ý vì chúng tôi muốn đánh chiếm U-crai-na trước) có thể đem lại thắng lợi có ý nghĩa quyết định, nếu chúng ta coi đó là đòn tiến công chính, đòn quyết định sự phát triển của cả cuộc chiến tranh. Bị đòn đó[6], nước Nga coi như là bị đánh trúng tim”[7]. Tướt g Gu-đê-ri-an, tướng G. Gốt và những người khác cho rằng nguyên nhân chính cuộc thất bại của chúng ở Mát-xcơ-va, bên cạnh sai lầm của Hít-le, là khí hậu khắc nghiệt của nước Nga. Tất nhiên thời tiết và thiên nhiên giữ một vai trò của nó đối với mọi hành động quân sự. Nhưng thật ra những nhân tố đó tác động đến cả hai bên tham chiến. Đúng là, để chống chọi với cái rét ác nghiệt ở Nga, bọn lính Đức đã phải mặc những đồ ăn cướp được của nhân dân và đi trong những đôi giày cao cổ kỳ quái làm lấy bằng rơm. Áo khoác ấm, giày ấm, áo trấn thủ, quần áo lót ấm - mọi thứ đó cũng là vũ khí. Đất nước chúng ta đã cung cấp quần áo và sưởi ấm cho các chiến sĩ. Còn các nhà lãnh đạo nước Đức Hít-le, mưu toan “dễ dàng” chiếm nước Nga, chỉ tính thời gian tác chiến từng tuần, từng tháng. Phải nói: đây là những tính toán sai lầm về chính trị và chiến lược của bọn phát-xít đầu sỏ. Những tướng lĩnh và nhà viết sử tư sản khác lại đổ lỗi tất cả cho bùn lầy và đường xấu. Nhưng chính mắt tôi đã trông thấy trong bùn lầy và trên các con đường xấu đó hàng ngàn, hàng ngàn người Mát-xcơ-va, nói chung chưa quen làm đất, đá đã rời những gian nhà đầy đủ tiện nghi ở thành phố đi đào các hố chống tăng, hào giao thông, đắp những ụ đất làm các vật chặn đường, hàng rào dây thép gai, khuân vác những bao cát. Bùn đất bám vào chân họ, vào bánh các xe chở đất, bùn đất đã làm cho các lưỡi xẻng thêm nặng, mà ngay khi không có bùn đất bám, xẻng đó đã không phù hợp với bàn tay phụ nữ. Đối với những kẻ muốn lấy thời tiết xấu để che lấp nguyên nhân thực sự của các thất bại ở Mát-xcơ-va, cần nói thêm rằng, tháng 10-1941, đường sá chỉ lầy lội trong một thời gian tương đối ngắn. Đầu tháng 11 bắt đầu rét, tuyết rơi thì đất đai và đường sá đều dễ đi rồi. Trong cuộc “tổng tiến công” tháng 11 của quân Đức, ôn độ ở các khu có chiến sự trên hướng Mát-xcơ-va vào khoảng -7 đến -100 và trong thời tiết ấy, mọi người đều biết rằng, không thể có lầy lội. Không phải! Mưa và tuyết không thể chặn được bước tiến của quân địch ở Mát-xcơ-va. Chính là đạo quân hơn 1 triệu tên lính phát-xít tinh nhuệ đã vấp phải tinh thần vững như thép, lòng dũng cảm và khí phách anh hùng của các chiến sĩ Xô-viết có sự hậu thuẫn của nhân dân, của Thủ đô và Tổ quốc. Chúng ta có thể nói rằng nếu bọn Đức không tạm thời bỏ cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va và chuyển bộ phận lực lượng xuống U-crai-na thì tình hình của đạo quân “Trung tâm” còn tồi tệ nhiều hơn nữa. Vì rằng, nếu chúng tiến công vào Mát-xcơ-va thì các lực lượng dự bị của Bộ tổng tư lệnh dùng vào việc hàn gắn những cửa mở ở hướng tây-nam trong tháng 9 và sau này rút về phòng ngự ở cửa ngõ gần Mát-xcơ-va trong tháng 11, có thể được sử dụng để đột kích vào sườn và phía sau cụm tập đoàn quân “Trung tâm”. Điên dại trước sự thất bại của cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va, trước sự phá sản của kế hoạch chiến tranh “chớp nhoáng”, Hít-le đi tìm người để hành hạ. Hắn phế truất tướng Brau-khích khỏi chức vụ tổng tư lệnh lục quân, cách chức Phôn Bốc, tư lệnh cụm tập đoàn quân “Trung tâm”, tướng Gu-đê-ri-an, tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 2 và hàng chục tướng khác mà hắn gắn cho huân chương chữ thập ngoặc mới có một tháng rưỡi - hai tháng trước đây. Hít-le tuyên bố tự thân làm tổng tư lệnh lục quân với hy vọng đó là phép thánh có thể tác động đến bộ đội của hắn. Người ta đã hỏi tôi nhiều lần: làm thế nào mà Quân đội Xô-viết có thể tiêu diệt được đạo quân phát-xít Đức mạnh nhất ở gần Mát-xcơ-va? Làm thế nào mà trong thời tiết mùa đông ác nghiệt lại có thể đánh bật được tàn quân của chúng về phía tây? Trận tiêu diệt bọn Đức ở gần Mát-xcơ-va đã được viết nhiều và theo tôi, về cơ bản là viết đúng. Tuy vậy, với tư cách nguyên tư lệnh Phương diện quân miền Tây, tôi cũng muốn phát biểu ý kiến của mình về vấn đề đó. Như mọi người đều biết, khi mở ở hướng Mát-xcơ-va chiến dịch lấy mật danh là “Bão táp”, bộ chỉ huy phát-xít Đức định tiêu diệt các đơn vị Quân đội Xô-viết trên hướng Vi-a-dơ-ma - Mát-xcơ-va và Bri-an-xcơ - Mát-xcơ-va và sau đó đánh vu hồi từ phía bắc và nam để trong một thời gian ngắn có thể chiếm được Mát-xcơ-va. Để đạt mục đích chiến lược đó, địch chủ trương dùng hai đòn vu hồi liên tiếp. Trước hết chúng định bao vây và tiêu diệt Quân đội Xô-viết trong khu Bri-an-xcơ và Vi-a-dơ-ma; sau đó trong đợt hai, chúng định bao vây và chiếm Mát-xcơ-va bằng 2 mũi vu hồi sâu của các đơn vị xe tăng, một từ phía tây-bắc qua Clin, một từ phía nam qua Tu-la, Ca-si-ra để khép những gọng kìm hợp vây chiến lược trong khu Nô-ghin-xcơ. Tuy vậy, bộ chỉ huy tối cao quân Hít-le, trong khi đặt kế hoạch cho một chiến dịch có ý nghĩa chiến lược phức tạp với quy mô to lớn như chiến dịch “Bão táp”, đã phạm sai lầm rất nặng trong việc tính toán lực lượng và phương tiện. Chúng đánh giá quá thấp khả năng của Hồng quân và đánh giá quá cao quân đội của chúng. Những lực lượng mà bộ chỉ huy phát-xít Đức tập trung được chỉ đủ sức chọc thủng phòng ngự trong các khu Vi-a-dơ-ma và Bri-an-xcơ và uy hiếp các đơn vị quân ta ở các Phương diện quân miền Tây và Ca-li-nin trên tuyến Ca-li-nin - Ya-khơ-rô-ma - Cra-xnai-a - Pô-li-a-na - Criu-cô-vô - sông Na-ra và sông Ô-ca - Tu-la - Ca-si-ra - Mi-khai-lốp mà thôi. Cũng cần nói lại lần nữa rằng, cuộc chiến đấu anh dũng của các đơn vị Xô-viết phòng ngự và bị vây hãm ở khu phía tây Vi-a-dơ-ma đã gây cho địch những trở ngại lớn, góp phần làm cho chúng khôn~thể thực hiện được mục tiêu chiến lược chủ yếu là đánh chiếm Mát-xcơ-va. Kết quả là sau khi đã đạt được mục tiêu trước mắt vào đầu tháng 10, quân địch không thực hiện được đợt 2 của chiến dịch. Trong việc hình thành các tập đoàn xung kích cho đợt 2 của chiến dịch “Bão táp”, quân địch cũng đã tính toán rất sai. Những đơn vị địch ở hai bên sườn, đặc biệt là các đơn vị tác chiến ở khu Tu-la đều yếu và thiếu các binh đoàn binh chủng hợp thành. Chỉ dựa vào các binh đoàn thiết giáp, trong trường hợp này là không đúng. Chúng đã bị thiệt hại nặng và mất sức mạnh đột phá. Bộ chỉ huy Đức cũng không biết đồng thời đánh vào giữa mặt trận, tuy rằng ở đây chúng có đủ lực lượng. Vì vậy, chúng ta có thể tự do điều động lực lượng dự bị - kể cả lực lượng dự bị của các sư đoàn - từ phía giữa, khu ít tác chiến, đến hai bên sườn để đánh vào những tập đoàn xung kích của địch. Một vài tác giả sách lịch sử quân sự đã xác nhận rằng, các trận đánh của Phương diện quân miền Tây, Dự bị và Bri-an-xcơ trong tháng 10 không nằm trong chiến dịch lịch sử Mát-xcơ-va, rằng hình như lúc đầu bọn địch đã bị hoàn toàn chặn đứng ở tuyến phòng ngự Mô-gia-ích và sau đó bộ chỉ huy quân Hít-le buộc phải chuẩn bị một “chiến dịch tổng tiến công” mới. Tất cả những điều nói trên đây về sự phá sản của chiến dịch “Bão táp” đã đánh đổ những điều xác nhận ấy. Cũng không thể dựa vào việc bổ sung các đơn vị và phương diện vật chất của địch trong tháng 11, vào sự phân bố lại một vài binh đoàn xe tăng bên cánh trái mà nói rằng địch chuẩn bị một chiến dịch mới. Vì đó là những biện pháp thường làm trong các chiến dịch tiến công có tính chất chiến lược chứ không phải là những yếu tố để quy định việc mở đầu và chấm dứt một chiến dịch loại như thế. Đầu tháng 11, chúng ta đã kịp thời phát hiện việc địch tập trung các lực lượng xung kích ở hai bên sườn tuyến phòng ngự của ta. Do đó chúng ta đã xác định đúng hướng đột kích chủ yếu của chúng. Để chống lại quả đấm xung kích của địch trên các hướng đó, chúng ta đã xây dựng phòng ngự sâu thành nhiều tuyến, có đủ phương tiện chống tăng và phương tiện công binh. Tất cả những đơn vị xe tăng chủ yếu của ta đều được tập trung tại những hướng bị uy hiếp nhất này. Những ngày đầu tháng 12, quân đội phát-xít Đức lại bị đánh đau. Mạch giao thông vận tải của giặc kéo dài trên 1.000 km luôn luôn bị các đội du kích đánh phá và bằng những hành động anh hùng của mình, các đội du kích đã làm gián đoạn việc cung cấp cho quân đội địch và mọi hoạt động của cơ quan hậu cần của chúng. Những thiệt hại to lớn, tình trạng chiến tranh bị kéo dài, sự chống trả quyết liệt của các chiến sĩ Xô-viết - tất cả những cái đó đã ảnh hưởng rõ rệt đến khả năng chiến đấu của các đơn vị quân đội phát-xít Đức, gieo rắc tình trạng rối ren, hoài nghi thắng lợi trong hàng ngũ chúng. Quân đội Xô-viết qua các trận chiến đấu gần Mát-xcơ-va cũng bị thiệt hại nhiều, nhưng được Tổ quốc thường xuyên chi viện, bộ đội vẫn giữ được khả năng chiến đấu và tin tưởng vững chắc vào thắng lợi đến tận lúc kết thúc các trận đánh phòng ngự. Nhân dân Xô-viết và lực lượng vũ trang của mình đã trải qua thời kỳ gian khổ khó khăn nhất, nhưng đồng thời lại được hưởng niềm vui sướng của những chiến thắng đầu tiên. Hồng quân đã đập tan kế hoạch của Hít-le định chiếm Lê-nin-grát và kế hoạch liên kết hành động của quân đội phát-xít Đức với lực lượng vũ trang Phần Lan. Chuyển sang phản công ở khu Ti-khơ-vin, Hồng quân đã tiêu diệt quân địch và chiếm thành phố. Bộ đội của Phương diện quân Nam trong thời gian đó cũng chuyển sang phản công và chiếm Rô-xtốp trên sông Đông. Quân ta phấn khởi trước những thắng lợi đạt được trong các trận phòng ngự ở Mát-xcơ-va, không một phút dừng lại, lập tức chuyển sang phản công. Cuộc phản công được chuẩn bị trong quá trình các trận đánh phòng ngự và phương pháp tiến hành đã được xác định lần cuối khi bộ đội Hít-le có nhiều dấu hiệu không thể chịu đựng nổi đòn phản kích của ta. Đó là một sự kiện vĩ đại và vui mừng, nó cổ vũ không những toàn thể nhân dân Xô-viết mà cả loài người tiến bộ . Lợi dụng những điều kiện thuận lợi ở khu Mát-xcơ-va, Đại bản doanh đã hạ lệnh cho các đơn vị của Phương diện quân ở Ca-li-nin và cánh phải của Phương diện quân Tây-nam chuyển sang phản công cùng một lúc với Phương diện quân miền Tây. Cuối tháng 11, đầu tháng 12, Bộ tổng tư lệnh tối cao thực hiện đúng lời đề nghị của Hội đồng quân sự Phương diện quân miền Tây, đã tập trung tập đoàn quân xung kích 1 ở Tây-bắc Mát-xcơ-va và phía đông sông đào Mát-xcơ-va - Von-ga. Cùng thời gian đó tập đoàn quân 10 cũng được tập trung ở vùng Ri-a-dan. Ngày 29-11, tôi gọi dây nói về Tổng tư lệnh tối cao và sau khi báo cáo tình hình, tôi đề nghị Tổng tư lệnh cho lệnh chuyển thuộc tập đoàn quân 1 và 10 cho Phương diện quân miền Tây để mở những trận đánh mạnh hơn nữa, hất chúng lùi cách Mát-xcơ-va xa hơn nữa. I.V. Xta-lin chú ý nghe và sau đó hỏi: - Đồng chí tin là quân địch đã đến lúc hiểm nghèo và chúng không còn khả năng tổ chức ra một tập đoàn chiến đấu lớn mới nữa à? - Quân địch đã kiệt sức, nhưng bộ đội thuộc phương diện quân cũng sẽ không thể thanh toán được những mũi thọc sâu của quân địch nếu không được tăng cường tập đoàn quân xung kích 1 và tập đoàn quân 10. Nếu bây giờ chúng ta không tiêu diệt chúng, quân địch sau này có thể dùng những lực lượng dự bị lớn lấy trong các đạo quân của chúng ở phía bắc và phía nam đến chi viện cho các đơn vị trong khu Mát-xcơ-va và lúc đó tình hình có thể trở nên rất phức tạp. I.V. Xta-lin nói là đồng chí sẽ hội ý với Bộ Tổng tham mưu. Tôi đề nghị tham mưu trưởng phương diện quân V.Đ. Xô-cô-lốp-xki (là người cũng đồng ý đưa 2 tập đoàn quân xung kích 1 và 10 vào chiến đấu) liên lạc với Bộ Tổng tham mưu để trình bày lợi ích của việc chuyển giao nhanh chóng các tập đoàn quân dự bị nói trên cho Phương diện quân. Đêm khuya ngày 29-11, chúng tôi được thông báo quyết định của Đại bản doanh về việc chuyển giao tập đoàn xung kích 1, tập đoàn quân 10 và tất cả các binh đoàn thuộc tập đoàn quân 20 cho Phương diện quân miền Tây. Đồng thời Đại bản doanh yêu cầu gửi báo cáo về kế hoạch sử dụng các tập đoàn quân đó. Sáng ngày 30-11, chúng tôi báo cáo về Đại bản doanh dự án mà cơ bản như sau: Tập đoàn quân xung kích 1 dưới sự chỉ huy của trung tướng V.I. Cu-dơ-nét-xốp triển khai tất cả lực lượng của mình trong khu Đơ-mi-tơ-rốp - Ya-khơ-rô-ma có nhiệm vụ phối hợp với các tập đoàn quân 30 và 20 tiến công quân địch ở phía Clin và sau đó theo hướng chung, tiến về Tê-ri-a-ê-va Xlô-bô-đa; Tập đoàn quân 20 từ Cra-xnai-a Pô-li-a-na - Be-lưi Ra-xtơ, hợp đồng với tập đoàn quân xung kích 1 và tập đoàn quân 16, tổ chức đột kích theo hướng chung tới Xô-nét-nô- goóc-xcơ, từ phía nam đánh vu hồi vào thành phố và tiếp sau tiến về Vô-lô-cô-lam-xcơ; ngoài ra, tập đoàn quân 16 có nhiệm vụ dùng các đơn vị ở cánh phải tiến công vào Criu-cô-vô; tiếp sau sẽ do tình hình cụ thể mà quyết định; Tập đoàn quân 10, hợp đồng với bộ đội của tập đoàn quân 50, sẽ đánh quân địch ở hướng Xta-li-nô-goóc-xcơ - Bô-gô-rô-đít-xcơ và sau đó tiếp tục tiến công ở phía nam sông U-pa. Nhiệm vụ phản công trước mắt ở hai bên sườn của Phương diện quân miền Tây là tiêu diệt các lực lượng xung kích địch thuộc cụm tập đoàn quân “Trung tân” và thủ tiêu mối uy hiếp trực tiếp đối với Mát-xcơ-va. Lúc đó chúng ta chưa có đủ lực lượng để đề ra cho bộ đội của phương diện quân những mục tiêu xa hơn và có ý nghĩa quyết định hơn. Chúng ta chỉ mới có ý định đẩy lùi quân địch khỏi Mát-xcơ-va càng xa càng tốt và gây cho địch những thiệt hại lớn nhất. Tuy được tăng cường thêm 3 tập đoàn quân nhưng Phương diện quân miền Tây vẫn chưa có ưu thế về số lượng so với quân địch (trừ lực lượng không quân). Quân giặc vẫn hơn ta về số lượng xe tăng và pháo binh. Đó là đặc điểm cơ bản của cuộc phản công của quân ta ở gần Mát-xcơ-va. Trong giai đoạn đầu của cuộc phản công, các tập đoàn quân 5, 33 và 49 ở khu giữa của phương diện quân có nhiệm vụ hoạt động tích cực kiềm chế quân địch và chuẩn bị chuyển sang phản công cùng với cả phương diện quân. Tối khuya ngày 4-12, Tổng tư lệnh tối cao gọi dây nói hỏi tôi: - Phương diện quân cần được giúp đỡ gì thêm, ngoài những điều đã làm? Tôi trả lời cần có sự chi viện của lực lượng không quân dự bị của Bộ tổng tư lệnh và của bộ đội phòng không Nhà nước và, ngoài ra, cần chừng 200 xe tăng và các đội lái kèm theo. Phương diện quân không đủ xe tăng và nếu không có xe tăng thì cuộc phản công không thể phát triển nhanh được. - Không có xe tăng nên không thể tăng cường cho các đồng chí được, - I.V. Xta-lin nói. - Không quân thì sẽ có. Đồng chí hãy thỏa thuận với Bộ Tổng tham mưu. Tôi sẽ gọi dây nói đến đó ngay bây giờ. Đồng chí nhớ là Phương diện quân Ca-li-nin sẽ chuyển sang tiến công ngày 5-12. Và ngày 6-12, cụm chiến dịch ở cánh phải Phương diện quân Tây-nam ở khu En-xa cũng sẽ chuyển sang tiến công. Lớp tuyết dày mới rơi gần đây đã gây khó khăn không nhỏ cho việc tập trung chấn chỉnh đội hình và việc chuyển các đơn vị vào khu vực xuất phát của chiến dịch. Sau khi khắc phục những khó khăn đó, đến sáng ngày 6-12, tất cả các binh chủng đã sẵn sàng bước vào giai đoạn mới của cuộc chiến đấu bảo vệ Mát-xcơ-va. Và ngày 6-12-1941 đã đến. Các đơn vị Phương diện quân miền Tây ở phía bắc và nam Thủ đô bắt đầu phản công. Trong khu Ca-li-nin và En-xa, các phương diện quân bạn cũng tiến lên. Cuộc chiến đấu lớn đã triển khai xong. Ngay trong ngày tiến công đầu tiên, các đơn vị thuộc Phương diện quân Ca-li-nin đã thọc sâu vào tiền duyên phòng ngự của địch, nhưng chưa thể đánh quỵ chúng. Phải sau 10 ngày chiến đấu kiên trì quân ta ở đây mới tiến lên được, sau khi cánh phải của Phương diện quân miền Tây đã tiêu diệt được các đơn vị quân Đức ở khu Rô-ga-chê-vô - Xô-nét-nô-goóc-xcơ và tiến vòng qua Clin. Ngày 13-12, tập đoàn quân xung kích 1 và một phần lực lượng của tập đoàn quân 30 thuộc Phương diện quân miền Tây tiến tới Clin. Bao vây thành phố từ khắp các mặt, các đơn vị Quân đội Xô-viết đã đột nhập vào và sau những trận chiến đấu ác liệt trong đêm 14 rạng 15 tháng 12, đã quét sạch quân địch khỏi Clin. Cuộc tiến công của các tập đoàn quân 20 và 16 cũng phát triển có kết quả. Đến hết ngày 9-12, sau khi khắc phục được sự kháng cự quyết liệt của quân địch, tập đoàn quân 20 dã tới Xô-nét-nô-goóc-xcơ và ngày 11-12, đã đuổi quân địch khỏi thành phố. Tập đoàn quân 16, sau khi giải phóng Criu-cô-vô vào ngày 8-12, đã phát triển tiến công đến hồ chứa nước I-xtơ-ra. Các đơn vị cánh phải của tập đoàn quân 5 do tướng L.A. Gô-vô-rốp chỉ huy cũng tiến quân thắng lợi về phía trước. Bước tiến của tập đoàn quân 5 hỗ trợ rất nhiều cho tập đoàn quân 16 tiến công thắng lợi. Một tổn thất lớn đã đến với chúng tôi trong ngày 19-12: thiếu tướng L.M. Đô-va-to chỉ huy quân đoàn kỵ binh cận vệ 2 và trung tá M.P. Ta-vơ-li-ép chỉ huy sư đoàn kỵ binh 20 đã hy sinh ở làng Pa-la-ski-nô (phía tây-bắc Ru-da 12 km). Theo đề nghị của Hội đồng quân sự phương diện quân, Đoàn chủ tịch xô-viết tối cao Liên xô đã truy tặng L.M. Đô-va-to danh hiệu Anh hùng Liên xô. Cuộc phản công ở cánh phải Phương diện quân miền Tây tiếp tục không ngừng, được sự chi viện đắc lực của lực lượng không quân phương diện quân, lực lượng.phòng không Nhà nước và không quân hoạt động tầm xa. Lực lượng không quân đó do tướng A.E. Gô-lô-va-nốp chỉ huy. Không quân đã đánh rất mạnh vào các trận địa pháo, các đơn vị xe tăng, các sở chỉ huy địch và khi quân Hít-le rút lui, đã ném bom và bắn phá vào các đơn vị bộ binh, các đoàn xe tăng và ô-tô vận tải của chúng. Kết quả là các con đường đi về phía tây sau khi địch rút chạy, đã bị những phương tiện kỹ thuật và xe cơ giới địch nằm la liệt chắn ngang ở nhiều chỗ. Bộ tư lệnh phương diện quân đã phái các đơn vị trượt tuyết, kỵ binh và đổ bộ đường không vào sau lưng địch để đánh bọn giặc đang rút chạy. Quân du kích phối hợp hành động với Hội đồng quân sự các phương diện quân đã mở rộng chiến tranh du kích đánh địch. Các hoạt động du kích này đã làm cho tình hình thêm phức tạp đối với bộ tư lệnh Đức. Bên cánh trái của phương diện quân, ngày 3-12, các đơn vị của tập đoàn quân 50 và quân đoàn kỵ binh của tướng P.A. Bê-lốp bắt đầu mở trận đánh tiêu diệt tập đoàn quân xe tăng của Gu-đê-ri-an trong khu Tu-la. Các sư đoàn xe tăng 3, 17, sư đoàn cơ giới 29 của Gu-đê-ri-an đã phải bỏ lại 70 xác xe tăng trên chiến trường và vội vã rút chạy về Vê-nép. Ngày 6-12, tập đoàn quân 10 cũng bước vào chiến đấu ở khu vực Mi-khai-lốp, nơi quân địch mưu toan chốt lại để phòng ngự nhằm che chở cạnh sườn của tập đoàn quân xe tăng 2 đang rút lui. Ngày 8-12, từ khu vực Tu-la các đơn vị còn lại của tập đoàn quân 50 cũng chuyển sang tấn công, uy hiếp cắt đường rút lui của quân địch ra khỏi Vê-nép và Mi-khai-lốp. Lực lượng không quân của phương diện quân và Đại bản doanh liên tục chi viện cho cuộc tấn công của quân đoàn kỵ binh của tướng P.A. Bê-lốp và những trận đánh của tập đoàn quân 50 và 10. Tập đoàn quân Gu-đê-ri-an bị đánh thọc sâu ở bên sườn. Không còn đủ lực lượng đối phó với các đòn phản công của Phương diện quân miền Tây, của cụm chiến dịch thuộc phương diện quân tây-nam, chúng bắt đầu vội vã rút lui về hướng chung tới U-dơ-lô-vai-a, Bô-gô-rô-đít-xcơ và xa hơn nữa tới Xu-khi-ni-chi, bỏ lại cả súng hạng nặng, xe ô-tô, xe kéo và tăng. Trong 10 ngày chiến đấu, các đơn vị cánh trái của Phương diện quân miền Tây đã đánh cho tập đoàn quân xe tăng 2 của Gu-đê-ri-an bị thất bại nặng, và đã tiến được 130 km. Bên trái Phương diện quân miền Tây, các binh đoàn của Phương diện quân Bri-an-xcơ mới thành lập lại cũng tiến quân thắng lợi. Giai đoạn I cuộc phản công của bộ đội Xô-viết gần Mát-xcơ-va đến đây kết thúc; bộ đội ta đã tiến đến tuyến O-re-ski - Xta-rít-xa - sông La-ma và sông Ru-da - Ma-lô-ya-rô-xla-vét - Ti-khô-nô-va Pu-xtư-nhơ - Ca-lu-ga - Mô-xan-xcơ - Xu-khi-ni-chi - Bê-lép - Mơ-xen-xcơ - Nô-vô-xin. Cuối cùng chúng ta đã thủ tiêu được mối uy hiếp đối với Tu-la. Trong cuộc phản công này, sư đoàn xe tăng của A.L. Ghét-man, quân đoàn kỵ binh của P.A. Bê-lốp và cụm chiến dịch của tập đoàn quân 50 do thiếu tướng V.X. Pô-pốp chỉ huy đã giữ vai trò chính. Các tập đoàn quân của Hít-le bị mất sức, tiêu hao trong các trận chiến đấu. Bị thiệt hại nặng và bị quân ta uy hiếp, chúng phải rút lui về phía tây. Đối với mặt trận hướng tây (gồm các Phương diện quân miền Tây, Ca-li-nin và Bri-an-xcơ) theo chúng tôi thì, sau khi được tăng cường những lực lượng và phương tiện cần thiết, giai đoạn tiếp sau của cuộc phản công phải được tiếp tục cho tới lúc đạt được kết quả triệt để, có nghía là khôi phục được hình thái của các phương diện quân trước khi quân phát-xít Đức mở chiến dịch tấn công lấy tên là “Bão táp”. Nếu như lúc đó Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao có thể tăng cường thêm cho 4 tập đoàn quân nữa (cho phương diện quân Ca-li-nin và Bri-an-xcơ mỗi nơi một tập đoàn quân và cho Phương diện quân miền Tây hai tập đoàn quân) thì chúng tôi có khả năng hiện thực làm cho quân địch bị thêm những thất bại mới khác, hất chúng ra khỏi Mát-xcơ-va xa hơn nữa và quân ta có thể tiến tới tuyến Vi-tép-xcơ - Xmô-len-xcơ - Bri-an-xcơ. Trong tất cả các trường hợp, giữa các ủy viên Hội đồng quân sự và trong bộ tham mưu phương diện quân không hề có ý kiến khác nhau về sự cần thiết phải sử dụng tất cả số lượng hiện có ở hướng chiến lược phía tây để gây cho địch những thiệt hại lớn nhất. Thắng lợi của cuộc phản công tháng 12 ở hướng chiến lược phía giữa có ý nghĩa rất lớn. Các tập đoàn đột kích của cụm tập đoàn quân “Trung tâm” quân Đức bị thiệt hại nặng nề đã phải rút lui. Nhưng nói chung, quân giặc ở hướng tây và cả các hướng khác vẫn còn mạnh. Ở vùng giữa của mặt trận, quân địch đã chống cự lại mãnh liệt, vì vậy các cuộc tấn công lúc đầu có kết quả của chúng ta ở gần Rô-xtốp và Ti-khơ-vin đã bị kéo dài mà không đạt được kết quả thỏa đáng. Tuy vậy, Tổng tư lệnh tối cao, trước thắng lợi của trận tiêu diệt quân phát-xít Đức ở gần Mát-xcơ-va và các thắng lợi khác đạt được trong quá trình phản công, đã tỏ ra lạc quan. Tổng tư lệnh tối cao cho rằng, ở các mặt trận khác bọn Đức cũng sẽ không chịu nổi các đòn tấn công của Hồng quân. Từ đó xuất hiện ý định bắt đầu cuộc tổng tiến công trên toàn bộ các mặt trận từ hồ La-đô-ga đến Biển Đen càng nhanh càng tốt. Là một ủy viên của Đại bản doanh, tôi được triệu tập về Bộ vào chiều ngày 5-1 để thảo luận về dự án kế hoạch tổng tiến công của Hồng quân. Sau khi B.M. Sa-pô-sni-cốp thông báo tóm tắt về tinh hình các mặt trận và báo cáo dự án kế hoạch, I.V. Xta-lin nói: - Quân Đức đang lúng túng trước những thất bại gần Mát-xcơ-va, chúng chưa chuẩn bị đầy đủ để bước vào mùa đông. Lúc này là thời cơ thích hợp nhất để chuyển sang tổng tiến công. Ý định của Bộ tổng tư lệnh tối cao như sau. Phát huy kết quả của tiến trình phản công thắng lợi ở các phương diện quân trên mặt trận hướng Tây, mục đích của tổng tiến công là tiêu diệt quân địch ở gần Lê-nin-grát, phía tây Mát-xcơ-va và ở phía nam Liên xô. Đòn tiến công chủ yếu dự định đánh vào cụm tập đoàn quân “Trung tâm” quân Đức. Việc tiêu diệt quân địch ở đây, dự định giao cho các lực lượng cánh trái Phương diện quân Tây-bắc, Phương diện quân Ca-li-nin và Phương diện quân miền Tây; phương pháp đánh là mở hai mũi gọng kìm khép lại, sau đó hợp vây và tiêu diệt những lực lượng chủ yếu của địch trong khu vực Rơ-giép, Vi-a-dơ-ma và Xmô-len-xcơ. Bộ đội của các phương diện quân Lê-nin-grát, Vôn-khốp, cánh phải Phương diện quân Tây-bắc và Hạm đội Ban-tích có nhiệm vụ tiêu diệt cụm tập đoàn quân “Bắc” và phá vây Lê-nin-grát. Phương diện quân Tây-nam và miền Nam phải đánh bại cụm tập đoàn quân “Nam”, giải phóng Đôn-bát, còn Phương diện quân Cáp-ca-dơ và Hạm đội Biển Đen phải đuổi địch khỏi Crưm. Dự kiến sẽ chuyển sang tổng tiến công trong thời gian ngắn nhất. I.V. Xta-lin đề nghị những người có mặt phát biểu ý kiến về dự án kế hoạch đã trình bày. Tôi báo cáo: - Cần tiếp tục tiến công trên hướng tây vì ở đây đã tạo được những điều kiện thuận lợi hơn, quân địch lại chưa kịp khôi phục sức chiến đấu. Nhưng để đạt kết quả, cần phải bổ sung người, phương tiện kỹ thuật cho các đơn vị và phải tăng cường lực lượng dự bị, trước hết là các đơn vị xe tăng. Còn nói về cuộc tiến công của bộ đội ta ở Lê-nin-grát và ở mặt trận hướng tây-nam, thì quân ta ở đó gặp một hệ thống phòng ngự nghiêm mật của địch. Nếu không có phương tiện pháo binh mạnh, bộ đội ta sẽ không thể phá vỡ hệ thống phòng ngự của chúng, mà ta thì sẽ bị tiêu hao, chịu những tổn thất không cần thiết. Tôi tán thành việc tăng cường cho các phương diện quân ở mặt trận hướng tây để ở đây sẽ tiến công mạnh hơn. - Hiện nay chúng ta chưa có phương tiện vật chất đủ bảo đảm tiến công đồng loạt trên tất cả các mặt trận - N.A. Vô-dơ-nê-xen-xki có ý kiến. - Tôi đã nói chuyện với Ti-mô-sen-cô - I.V. Xta-lin nói - Đồng chí ấy chủ trương tiến công. Cần phải nghiền nát quân Đức nhanh hơn nữa, để sang xuân chúng không thể tiến công được. I.V. Xta-lin hỏi: - Còn ai muốn phát biểu ý kiến nữa? Không ai trả lời. - Sao, còn gì nữa không, chúng ta sẽ chấm dứt cuộc thảo luận ở đây được chứ. Ra khỏi buồng họp, B.M. Sa-pô-sni-cốp nói: - Cậu tranh luận vô ích. Vấn đề đó, Tổng tư lệnh tối cao đã quyết định trước rồi. - Thế đồng chí ấy còn hỏi ý kiến tôi để làm gì? - Không biết, không biết, ông bạn thân ạ - Bô-rít Mi-khai-lô-vích Sa-pô-sni-cốp nói và thở dài. Bộ tham mưu phương diện quân nhận được chỉ thị tấn công vào ngày 7-1. Chấp hành chỉ thị đó, Hội đồng quân sự đề ra cho các đơn vị thuộc phương diện quân những nhiệm vụ bổ sung dưới đây: Cánh trái của phương diện quân (gồm tập đoàn quân xung kích 1, các tập đoàn quân 20 và 16) tiếp tục tấn công trên hướng chung tới Xư-chép-ca và hợp đồng với phương diện quân Ca-li-nin tiêu diệt cụm quân địch ở Xư-chép-ca - Rơ-giép. Các đơn vị ở phía giữa (gồm các tập đoàn quân 5 và 33) tấn công trên hướng chung tới Mô-gia-ích - Gơ-giát-xcơ; các tập đoàn quân 43, 49 và 50 đánh về Yu-khơ-nốp, tiêu diệt quân địch ở Yu-khơ-nốp Côn-đơ-rốp và phát triển cuộc tấn công về Vi-a-dơ-ma. Quân đoàn kỵ binh tăng cường của tướng P.A. Bê-lốp có nhiệm vụ tiến vào vùng Vi-a-dơ-ma, bắt liên lạc với quân đoàn kỵ binh của thiếu tướng X.V. Xô-cô-lốp thuộc Phương diện quân Ca-li-nin, để phối hợp tấn công vào phía sau cụm quân địch đóng ở Vi-a-dơ-ma (thời kỳ đó có sự hoạt động tích cực của những đội du kích lớn trong khu Vi-a-dơ-ma). Tập đoàn quân 10 tấn công vào Ki-rốp và yểm hộ sườn trái của phương diện quân. Đơn vị bạn bên phải là phương diện quân Ca-li-nin, có nhiệm vụ tấn công trên hướng chung tới Xư-chép-ca, Vi-a-dơ-ma, dùng một bộ phận lực lượng đánh vòng qua Rơ-giép; tập đoàn quân 22 của Phương diện quân phát triển tấn công về phía Be-lưi. Phương diện quân Tây-bắc tấn công trên hai hướng rẽ đôi. Tập đoàn quân xung kích 3 do trung tướng M.A. Puốc-ca-ép chỉ huy tấn công trên hướng chung về phía Vê-li-ki, Lu-ki; tập đoàn quân xung kích 4 do thượng tướng A.I. Ê-rê-men-cô chỉ huy mở cuộc tấn công vào Tô-rô-pét - Vê-li-giơ. Các tập đoàn quân cánh phải của Phương diện quân Tây-nam và Phương diện quân Bri-an-xcơ được giao nhiệm vụ kiềm chế quân địch ở đằng trước, không cho chúng chuyển lực lượng về hướng giữa và về phía Đôn-bát. Bộ đội thuộc mặt trận hướng tây-nam tiến đánh Khác-cốp và chiếm những căn cứ bàn đạp trong vùng Đơ-ne-prô-pê-tơ-rốp-xcơ và Da-pô-rô-gie. Kế hoạch thì lớn, nhưng trên nhiều hướng, kế hoạch đó không được bảo đảm đủ về lực lượng và phương tiện. Tình hình đó đã ảnh hưởng đến nhịp độ và kết quả cuộc tấn công mùa đông đầu tiên của chúng ta. Riêng có cuộc tiến quân của các đơn vị thuộc Phương diện quân Tây-bắc phát triển thắng lợi, vì ở đó không có tuyến phòng ngự dày đặc của địch. Đến đầu tháng 2, các tập đoàn quân xung kích 3 và 4 của Phương diện quân Tây-bắc đã tới cửa ngõ Vê-li-ki-lu-ki, Đê-mi-đốp và Vê-li-giơ, vượt được khoảng 250 km. Trong lúc đó, tập đoàn quân 22 của Phương diện quân Ca-li-nin tiến đánh thành phố Be-lưi, còn quân đoàn kỵ binh 11 tiến ra khu tây-bắc Vi-a-dơ-ma. Ở phía tây Rơ-giép, các tập đoàn quân 39 và 29 thuộc Phương diện quân Ca-li-nin tiến chậm. Các đơn vị cánh trái của Phương diện quân Ca-li-nin không đạt được thắng lợi, vì phía trước họ, quân địch phòng ngự vững chắc. Tính chất chung những hành động của địch trong thời kỳ đó được quy định trong mệnh lệnh của Hít-le ngày 3-1-1942 như sau: “Bám chặt lấy từng vùng dân cư, không lùi một bước, phòng ngự đến viên đạn cuối cùng, đến quả lựu đạn cuối cùng. Đó là yêu cầu đối với chúng ta trong lúc này”. “Các ngài chỉ huy! - Tư lệnh sư đoàn bộ binh 33 Đức viết trong mệnh lệnh của y. - Tình hình chiến sự chung nghiêm khắc đòi hỏi các đơn vị chúng ta trên tuyến sông La-ma không được rút nữa và sư đoàn có nhiệm vụ phòng ngự cố thủ ở đây. Phải bảo vệ những trận địa trên sông La-ma đến người cuối cùng. Đây là vấn đề sống còn của chúng ta...”. Căn cứ vào đâu mà bộ chỉ huy Hít-le lại yêu cầu các đơn vị của chúng kiên quyết dừng lại trên tuyến La-ma? Vì chúng cho rằng có thể tạm thời trụ lại, dựa vào những trận địa phòng ngự do quân ta xây dựng trong tháng 10, 11. Các trận địa đó nằm ở hai bên sông La-ma, chạy từ phía bắc đến phía nam và, xa hơn nữa, nối liền với những trận địa trên các sông Ru-da và Na-ra. Ngoài ra, đến giữa tháng 12, quân địch đã đưa từ hậu phương đến đây nhiều sư đoàn các loại, từ tinh nhuệ chọn lọc đến hậu bị và cả các sư đoàn rút từ các nước bị chúng chiếm đóng, vì vậy chúng có lực lượng để củng cố thêm các trận địa phòng ngự đó. Và khi các đơn vị địch rút lui từ Mát-xcơ-va về tới tuyến các con sông nói trên thì các tuyến phòng ngự đã được xây dựng xong. Ngày 10-1, sau một tiếng rưỡi pháo bắn chuẩn bị, các đơn vị Phương diện quân miền Tây (tập đoàn quân 20, một bộ phận tập đoàn quân xung kích 1, quân đoàn kỵ binh 2 của I.A. Pơ-li-ép, lữ đoàn xe tăng 22, năm tiểu đoàn trượt tuyết) đã bắt đầu tấn công nhằm chọc thủng mặt trận ở khu Vô-lô-cô-lam-xcơ. Kết quả sau 2 ngày chiến đấu kiên cường đã phá vỡ được phòng ngự địch. Trong trận này quân đoàn kỵ binh của tướng I.A. Pơ-li-ép cùng với 5 tiểu đoàn trượt tuyết và lữ đoàn xe tăng 22 được sử dụng vào mũi đột phá. Ngày 16 và 17 tháng 1-1942, bộ đội cánh phải phương diện quân có các đội du kích hoạt động phối hợp đã chiếm Lô-tô-si-nô, Sa-khốp-xcai-a và cắt đứt đường xe lửa Mát-xcơ-va - Rơ-giép. Lẽ ra cần đưa thêm lực lượng vào để phát triển thắng lợi. Nhưng tình hình xảy ra lại khác hẳn. Ngày 19-1, chúng tôi nhận được mệnh lệnh rút tập đoàn quân xung kích 1 về làm dự bị cửa Đại bản doanh. Cả tôi và V Đ Xô-cô-lốp-xki đều gọi dây nói về Bộ Tổng tham mưu yêu cầu để tập đoàn quân đó lại. Câu trả lời duy nhất nhận được: đây là mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao. Tôi gọi dây nói đến I.V. Xta-lin. Tôi nghe thấy: “Chấp hành đi, không bàn luận gì nữa”. Khi tôi tuyên bố rằng nếu rút tập đoàn quân đó đi thì lực lượng xung kích sẽ trở nên yếu, Tổng tư lệnh tối cao trả lời: “Đồng chí có nhiều quân rồi. Thử tính xem, đồng chí có bao nhiêu tập đoàn quân?” Tôi nói rằng, mặt trận của chúng tôi rất rộng, hiện nay hướng nào cũng đang tác chiến ác liệt, không thể xếp sắp lại đội hình ngay được, vì vậy đề nghị, trước khi kết thúc trận tấn công này, không nên rút tập đoàn quân xung kích 1 ra khỏi đội hình cánh phải của Phương diện quân miền Tây, không nên làm giảm sức ép đối với quân địch ở khu vực đó. I.V Xta-lin đặt máy nói xuống, không trả lời. Cuộc nói chuyện với B.M. Sa-pô-sni-cốp về vấn đề đó cũng không đi đến kết quả gì hơn. - Bạn thân mến, - B.M.Sa-pô-sni-cốp nói - tôi không thể làm gì khác được, đó là quyết định trực tiếp của Tổng tư lệnh tối cao. Chúng tôi buộc phải rải tập đoàn quân 20 trên một chính diện rộng. Lực lượng bên cánh phải bị yếu đi, cho nên cuộc tấn công ở đây chỉ tới Gơ-giát-xcơ thì bị hệ thống phòng ngự có tổ chức của quân địch chặn lại và quân ta không thể tiến lên được nữa. Các tập đoàn quân 5 và 33 tấn công ở khu giữa của phương diện quân đến ngày 20-1 giải phóng được Ru-da, Đô-rô-khô-vô Mô-gia-ích, Vê-rê-i-a. Các tập đoàn quân 43 và 49 tới vùng Đô-ma-nốp và tác chiến với các đơn vị địch ở Yu-khơ-nốp. Ở đây tôi muốn nói tỉ mỉ về hành động của các đơn vị Quân đội Xô-viết ở Vi-a-dơ-ma. Từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1, trong khu Giê-la-nhe, phía nam Vi-a-dơ-ma 40 km, chúng ta đã thả 2 tiểu đoàn của lữ đoàn dù 201 và trung đoàn đổ bộ đường không 250 xuống chiếm giữ các đường tiếp tế của địch. Tập đoàn quân 33 của trung tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp được lệnh mở cửa đột phá và, hiệp đồng với quân đoàn kỵ binh 1 của P.A. Bê-lốp, quân đổ bộ đường không, các đội du kích và quân đoàn kỵ binh 11 của Phương diện quân Ca-li-nin, đánh chiếm Vi-a-dơ-ma. Ngày 27-1, quân đoàn kỵ binh của tướng P.A. Bê-lốp đã vượt qua đường cái Vác-xô-vi ở phía tây-nam Yu-khơ-nốp 35 km và ba ngày sau đã bắt liên lạc được với bộ đội đổ bộ đường không và các đội du kích ở phía nam Vi-a-dơ-ma. Ngày 1-2, 3 sư đoàn bộ binh (113, 338 và 160) thuộc tập đoàn quân 33 do trung tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp trực tiếp chỉ huy cũng tới vùng này và đánh địch ở vùng ven Vi-a-dơ-ma. Để tăng cường cho quân đoàn kỵ binh 1 của tướng P.A. Bê-lốp và thực hiện hiệp đồng tác chiến với quân đoàn kỵ binh 11 của Phương diện quân Ca-li-nin, Đại bản doanh ra lệnh thả xuống khu Ô-đê-rê-chi quân đoàn đổ bộ đường không 4 nhưng vì thiếu máy bay vận tải nên thực tế chỉ thả được lữ đoàn 8 với quân số 2.000 người. Phát triển tấn công từ khu Na-rô Phô-min-xcơ theo hướng chung về Vi-a-dơ-ma, tập đoàn quân 33 trong ngày cuối cùng của tháng Giêng đã nhanh chóng tới khu San-xki Da-vốt và Đô-ma-nốp, là một khu phòng ngự rất rộng mà địch bỏ trống. Nhận thấy hệ thống phòng ngự của địch không dày đặc và liên tục, chúng tôi cho rằng địch ở hướng này không đủ lực lượng giữ Vi-a-dơ-ma, do đó chúng tôi hạ quyết tâm: trong lúc quân địch chưa kịp đưa lực lượng dự bị tới phải chiếm lại Vi-a-dơ-ma trong hành tiến, và mất Vi-a-dơ-ma, bọn địch ở đây sẽ rơi vào tình trạng hết sức khó khăn. Trung tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp quyết định trực tiếp dẫn đầu đoàn xung kích của tập đoàn quân tiến thật nhanh vào Vi-a-dơ-ma. Ngày 3 và 4 tháng 2, khi bộ phận chủ lực gồm 2 sư đoàn của đoàn xung kích đột phá tới gần Vi-a-dơ-ma thì bị quân địch đánh vào phía sau mũi đột phá, cắt đôi đội hình ra và địch khôi phục lại trận địa phòng ngự dọc theo sông U-gơ-ra. Thê đội 2 của tập đoàn quân lúc đó đành phải dừng lại ở khu San-xki Da-vốt còn quân bạn bên trái, tập đoàn quân 43 - ở khu Mê-đư-nhơ. Tập đoàn quân 43 không thể chi viện kịp thời cho đoàn xung kích của tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp theo như mệnh lệnh của Bộ tham mưu phương diện quân. Quân đoàn kỵ binh của P.A. Bê-lốp bước vào chiến đấu ở hướng Vi-a-dơ-ma, tiến ra khu Vi-a-dơ-ma và sau khi bắt được liên lạc ở đó với các đơn vị của M.G. Ê-phơ-rê-mốp, thì bản thân cũng bị cắt đứt đường tiếp tế. Vào khoảng thời gian đó, bộ tư lệnh Đức đã rút quân từ Pháp và các mặt trận khác ném vào Vi-a-dơ-ma những lực lượng dự bị rất lớn và đã ổn định lại được phòng ngự của chúng, nên chúng ta không sao chọc thủng được. Kết quả là, chúng ta phải để tất cả các đơn vị đó ở lại vùng sau lưng địch, trong vùng rừng phía tây-nam Vi-a-dơ-ma, nơi có rất nhiều đơn vị du kích. Trong thời gian suốt hai tháng trời ở lại vùng sau lưng địch, quân đoàn của P.A. Bê-lốp, các đơn vị của M.G. Ê-phơ-rê-mốp, các đơn vị đổ bộ đường không, cùng với du kích, đã đánh cho địch những đòn đau, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện của chúng. Ngày 10-2, lữ đoàn 8 quân đổ bộ đường không và các đội du kích đã chiếm khu Moóc-sa-nô-vô - Đi-a-ghi-lê-vô, ở đó họ đã diệt được cơ quan tham mưu sư đoàn xe tăng 5 Đức và thu được nhiều chiến lợi phẩm. Cùng trong ngày đó, chúng tôi đã báo cho tướng P.A. Bê-lốp và tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp biết tin trên. Chúng tôi cũng lệnh cho các đồng chí đó phối hợp hành động với chỉ huy lữ đoàn 8 quân đổ bộ đường không, cơ quan tham mưu của lữ đoàn đóng ở Đi-a-ghi-lê-vô. Sau khi bắt được liên lạc vô tuyến với P.A. Bê-lốp và M.G. Ê-phơ-rê-mốp, bộ tư lệnh phương diện quân đã cố gắng đến mức cao nhất tổ chức việc tiếp tế đạn dược, thuốc men và lương thực bằng đường không cho các đơn vị đó. Một số lớn thương binh được chuyển vận bằng máy bay. Thiếu tướng V.X. Gô-lút-kê-vích, trưởng phòng tác chiến bộ tham mưu phương diện quân và các đồng chí cán bộ thông tin vẫn đáp máy bay nhiều lần vào đó công tác. Đầu tháng Tư, tình hình khu Vi-a-dơ-ma trở nên khó khăn phức tạp hơn nhiều. Quân địch, sau khi tập trung được những lực lượng lớn, bắt đầu dồn quân ta lại, muốn trong mùa xuân thủ tiêu “cái dằm” nguy hiểm đối với chúng. Cuối tháng Tư, trời bắt đầu hửng nắng làm tan băng tuyết đồng thời làm giảm sút khả năng vận động và gây khó khăn cho việc giao thông liên lạc với các khu du kích - nguồn cung cấp lương thực cho bộ đội và thức ăn cho ngựa. Theo đề nghị của tướng P.A. Bê-lốp và tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp, bộ tư lệnh phương diện quân cho phép rút bộ đội ra để trở về với những lực lượng chủ yếu của ta. Thực hiện việc rút quân ấy, chúng tôi đã quy định dứt khoát là phải rút bằng đường rừng qua các khu du kích, theo hướng chung về Ki-rốp, ở đó tập đoàn quân 10 sẽ chuẩn bị đột phá, làm yếu hệ thống phòng ngự của địch và mở cửa phối hợp. Quân đoàn kỵ binh của tướng P.A. Bê-lốp và các đơn vị đổ bộ đường không đã thi hành mệnh lệnh rất chính xác. Theo đường vành móng ngựa, khoảng cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 1942, các đơn vị đó đã tới khu vực của tập đoàn quân 10. Khéo tránh những đơn vị lớn quân địch và kiên quyết tiêu diệt những đơn vị nhỏ của chúng trên đường rút, anh em đã vượt qua cửa đột phá của tập đoàn quân 10 và ra tới vùng đóng quân của phương diện quân. Trong thời gian hoạt động ở sau lưng địch và lui quân, đã bị mất một số lớn vũ khí nặng và phương tiện kỹ thuật. Nhưng phần lớn người đã ra được và về tới đơn vị. Cuộc gặp gỡ giữa những người rút từ phía sau quân địch ra và những người bảo đảm đường rút cho họ thật vui mừng biết bao? Chiến sĩ và cán bộ khôn cầm được nước mắt: đó là những giọt nước mắt sung sướng và của tình bạn chiến đấu. Trung tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp thấy con đường rút nói trên đối với đơn vị mình đã mệt mỏi là dài quá, nên đã liên lạc thẳng với Bộ Tổng tham mưu đề nghị cho phép vượt khỏi vòng vây bằng con đường ngắn nhất - qua sông U-gơ-ra. Lúc đó I.V. Xta-lin cũng gọi dây nói hỏi tôi, có đồng ý với đề nghị của Ê-phơ-rê-mốp không. Tôi kiên quyết tỏ ý không tán thành. Nhưng Tổng tư lệnh tối cao nói rằng, nên đồng ý với Ê-phơ-rê-mốp, vì đó là một tư lệnh tập đoàn quân có kinh nghiệm. Đại bản doanh lệnh cho phương diện quân tổ chức trận đánh để đón đoàn quân của Ê-phơ-rê-mốp. Trận đánh đó do tập đoàn quân 43 chuẩn bị và thực hiện, song không thấy phía đơn vị của tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp đánh phối hợp ra. Sau này mới được biết là quân Đức đã phát hiện thấy và vây đánh đơn vị của ta trên đường đi về phía sông U-gơ-ra. Tư lệnh tập đoàn quân M.G. Ê-phơ-rê-mốp chiến đấu như một người anh hùng chân chính. Bị thương nặng và không muốn rơi vào tay địch, đồng chí đã tự sát. Cuộc đời của một người chỉ huy quân sự có tài và vô cùng dũng cảm, cùng với một phần lớn chiến sĩ anh hùng của đơn vị đã hy sinh đau đớn như thế đấy. Trung tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp bắt đầu chỉ huy tập đoàn quân từ ngày 25-10-1941, khi quân Đức tiến đến Mát-xcơ-va. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Mát-xcơ-va, cán bộ và chiến sĩ thuộc tập đoàn quân của đồng chí đã chiến đấu dũng cảm, không cho địch vượt qua tuyến phòng ngự của mình. Tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ vì đã dũng cảm chiến đấu trong chiến dịch lịch sử bảo vệ Mát-xcơ-va. Hy sinh trong trận này còn có cả thiếu tướng P.N. A-phơ-rô-xi-mốp, tư lệnh pháo binh của tập đoàn quân, một cán bộ pháo binh rất có năng lực, một người có tâm hồn cao cả, và nhiều đồng chí cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị rất xuất sắc trong các trận đánh bảo vệ Mát-xcơ-va. Ngày nay nghiêm khắc kiểm điểm lại những sự kiện năm 1942, tôi thấy rằng, chúng tôi có khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình trong khu Vi-a-dơ-ma. Chúng tôi đã đánh giá khả năng của ta quá cao và đánh giá địch thấp. “Quả hồ đào” ở đó còn vững chắc hơn những điều ta dự kiến... Vào tháng 2 và 3, Bộ tổng tư lệnh yêu cầu đẩy mạnh tấn công trên mặt trận hướng tây, nhưng lúc này ở các phương diện quân lực lượng và phương tiện đã cạn. Nói chung, những nguồn dự trữ của nước ta hồi đó còn bị hạn chế nhiều. Nhu cầu của các đơn vị chưa được thỏa mãn đúng theo yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ. Mỗi khi được gọi về Đại bản doanh, chúng tôi phải hỏi xin Tổng tư lệnh tối cao từ khẩu súng chống tăng cá nhân, tiểu liên, mươi, mười lăm đại bác chống tăng, đến những đạn pháo và cối cần thiết tối thiểu. Tất cả những thứ nhận được đều đứa ngay lên ô-tô và chuyển đến những tập đoàn quân nào cần nhất. Đạn dược được cung cấp rất ít. Ví như trong 10 ngày đầu của tháng Giêng, so với số lượng đề nghị thì phương diện quân chỉ nhận được 1% đạn cối 82 mm, 20-30% đạn pháo. Còn cả tháng Giêng thì chúng tôi nhận được 2,7% đạn cối 50 mm, 36% đạn cối 120 mm, 55% đạn cối 82 mm, 44% đạn pháo. Kế hoạch đạn dược trong tháng 2 hoàn toàn không thực hiện được. Trong 10 ngày đầu tháng, chúng tôi không nhận được một toa xe nào trong số 316 toa dự trù theo kế hoạch. Vì không có đạn nên đã phải đưa một bộ phận pháo phản lực về hậu phương. Nói ra thì khó ai tin được, nhưng đúng là chúng tôi đã phải quy định mỗi khẩu pháo trong một ngày chỉ được bắn 1-2 quả đạn. Các đồng chí thấy không, đó là trong lúc tấn công đấy! Báo cáo của phương diện quân lên Tổng tư lệnh tối cao ngày 14-2-1942 có nói: “Theo kinh nghiệm các trận đánh, tình trạng thiếu đạn dược không cho phép chúng ta đùng pháo binh trong tấn công. Kết quả là hệ thống hỏa lực địch không bị tiêu diệt và các đơn vị của chúng ta đánh vào quân địch phòng ngự ít bị chế áp, đã bị thiệt hại lớn mà không đạt được kết quả mong muốn”. Vào cuối tháng 2 đến tháng 3 năm 1942, Đại bản doanh quyết định tăng cường và củng cố các phương diện quân hoạt động trên hướng tây về người và phương tiện, nhưng lúc đó thì đã chậm rồi. Quân địch rất chú ý đến sự phát triển của tình hình, đã tăng cường nhiều cho quân của chúng ở Vi-a-dơ-ma, và dựa vào những trận tuyến được xây dựng kiên cố từ trước, chúng bắt đầu hoạt động tích cực chống lại bộ đội thuộc các Phương diện quân miền Tây và Ca-li-nin. Các đơn vị ta đã thấm mệt và suy yếu, nên vượt qua sự kháng cự của quân giặc ngày càng trở nên khó khăn. Chúng tôi đã báo cáo và đề nghị nhiều lần cho quân ta dừng và trụ lại trên những tuyến đã chiếm được nhưng đều bị Đại bản doanh bác bỏ. Trái lại, trong chỉ thị ngày 20-3-1942, Tổng tư lệnh tối cao lại đòi hỏi phải kiên quyết hơn nữa để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ đã đề ra trước đây. Cuối tháng 3 - đầu tháng 4, các phương diện quân ở mặt trận hướng tây cố gắng thực hiện chỉ thị tiêu diệt cả cụm địch ở Rơ-giép, Vi-a-dơ-ma, song những cố gắng đó không đem lại kết quả. Cuối cùng, Đại bản doanh buộc phải chấp nhận đề nghị của chúng tôi, chuyển sang phòng ngự trên tuyến Vê-li-ki-lu-ki - Vê-li-giơ - Pô-gô-rê-lôi-ê Gô-rô-đi-sê - Gơ-giát-xcơ - sông U-gơ-ra – Xát-đê-men-xcơ - Ki-rốp - Liu-đi-nô-vô - Khôn-mi-si - sông Ô-ca. Các đơn vị của Phương diện quân miền Tây trong thời kỳ tiến công mùa đông, đã tiến được 70 đến 100 km và đã cải thiện được một phần tình hình chung về mặt chiến dịch và chiến lược trên hướng tây. Những kết quả chung đạt được trong chiến dịch lịch sử vĩ đại gần Mát-xcơ-va là một nguồn cổ vũ đối với chúng ta và là một đòn nặng đánh vào quân địch. Tướng Đức Vét-phan mô tả trận đánh gần Mát-xcơ-va, đã phải thú nhận rằng: “Quân đội Đức trước đây được coi là không thể bị đánh bại, nay sắp bị tiêu diệt”. Các tướng khác của quân Đức như K. Ti-pen-xkiếc, G. Bliu-men-tơ-rít, Ph. Bai-éc-bê-in, Ph. Man-tây-phen và v..v... đều tuyên bố như vậy. Cái gì đúng thì vẫn đúng. Trong cuộc chiến đấu ở Mát-xcơ-va, bọn Hít-le đã mất tổng cộng hơn nửa triệu tên, 1.300 xe tăng, 2.500 đại bác, trên 15.000 ô-tô và nhiều phương tiện kỹ thuật khác. Quân của chúng bị đánh bật khỏi Mát-xcơ-va từ 150 đến 300 km về phía tây. Cuộc phản công mùa đông năm 1941-1942 đã diễn ra trong điều kiện thời tiết phức tạp mùa đông, nhưng chủ yếu nhất là nó được tiến hành trong khi chúng ta không có ưu thế về quân số so với địch. Cũng trong thời kỳ đó, các phương diện quân không có đủ những binh đoàn xe tăng và cơ giới thật mạnh, và nếu không có nó, theo kinh nghiệm thực tế của chiến tranh, thì không thể tiến hành những chiến dịch tấn công quy mô lớn nhằm thực hiện những mục đích kiên quyết. Vượt quân địch đang vận động, nhanh chóng vu hồi đánh vào sườn chúng, cắt đứt đường liên lạc với hậu phương, bao vây và chia cắt các đơn vị lớn của địch, tất cả những nhiệm vụ đó chỉ có thể thực hiện được, nếu có sự trợ lực của những binh đoàn xe tăng và cơ giới mạnh. Trong cuộc chiến đấu ở Mát-xcơ-va, lần đầu tiên trong 6 tháng chiến tranh, Hồng quân đã làm cho các đơn vị chủ lực của Hít-le phải chịu những thiệt hại lớn nhất. Trước đó, lực lượng vũ trang Xô-viết đã mở nhiều chiến dịch quan trọng làm chậm bước tiến của quân đội Đức trên cả 3 hướng tấn công chủ yếu của chúng. Nhưng về quy mô và kết quả, các chiến dịch đó vẫn chưa bằng cuộc chiến đấu ở ngay chân tường Thủ đô Xô-viết này. Giỏi đánh phòng ngự, phản kích thắng lợi và chuyển nhanh sang phản công, đó là những nét đã làm giàu thêm nghệ thuật quân sự Xô-viết đánh dấu sự trưởng thành về chỉ đạo chiến lược và chiến dịch, chiến thuật của những người chỉ huy quân sự Xô-viết, sự tiến bộ về bản lĩnh chiến đấu của các chiến sĩ trong tất cả các binh chủng. Việc tiêu diệt các đơn vị của Hít-le gần Mát-xcơ-va có ý nghĩa quốc tế lớn. Quần chúng nhân dân các nước liên minh chống phát-xít đã vô cùng hào hứng khi nhận được tin chiến thắng lừng lẫy của lực lượng vũ trang Xô-viết. Với những thắng lợi đó nhân loại tiến bộ lại có thêm căn cứ để tin sẽ được giải phóng khỏi ách nô dịch phát-xít. Thất bại của quân Đức ở Lê-nin-grát, Rô-xtốp, trong khu Ti-khơ-vin và cuộc chiến đấu ở Mát-xcơ-va đã làm chấn động các giới phản động Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ, buộc chúng phải có chính sách thận trọng hơn đối với Liên Xô. Quân phát-xít Đức chuyển sang phòng ngự. Để khôi phục lại sức chiến đấu, giới lãnh đạo quân sự, chính trị nước Đức bắt buộc phải thi hành một loạt biện pháp tổng hợp và chuyển sang mặt trận Xô - Đức một số lượng đáng kể những đơn vị lấy ở Pháp và ở các nước bị chúng chiếm đóng. Đã đến lúc Đức phải dùng thủ đoạn gây sức ép đối với chính phủ các nước chư hầu của chúng, bắt họ phải gửi sang mặt trận Liên Xô những binh đoàn mới và những nguồn vật chất bổ sung, làm cho tình hình chính trị bên trong các nước đó thêm xấu đi. Sau trận tiêu diệt quân Hít-le ở Mát-xcơ-va, không những bọn binh lính, mà cả nhiều tên sĩ quan và tướng đã thấy rõ sức mạnh của nhà nước Xô-viết, thấy rõ lực lượng vũ trang Xô-viết là vật chướng ngại không thể vượt qua trên con đường thực hiện những mục đích do chính phủ Hít-le đề ra. Nhiều lần người ta hỏi tôi về vai trò của I.V. Xta-lin trong cuộc chiến đấu ở Mát-xcơ-va. I.V. Xta-lin ở Mát-xcơ-va trong suốt thời gian đó để tổ chức lực lượng và phương tiện tiêu diệt quân giặc. Cần thấy vị trí xứng đáng của Xta-lin. Đứng đầu Hội đồng quốc phòng Nhà nước và dựa vào bộ máy lãnh đạo của các Bộ ủy viên nhân dân, Xta-lin đã làm một khối lượng công việc khổng lồ để tổ chức các lực lượng dự bị chiến lược và những phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết. Có thể nói là bằng tính nghiêm khắc triệt để của mình, Xta-lin đã đạt được những kết quả hầu như không thể đạt được. Nếu có ai hỏi tôi: điều gì nhớ nhất trong cuộc chiến tranh vừa qua, tôi luôn luôn trả lời, đó là cuộc chiến đấu ở Mát-xcơ-va. Trong những điều kiện khắc nghiệt, thường hết sức phức tạp và khó khăn, quân đội ta đã được tôi luyện, thêm can trường, tích lũy được kinh nghiệm và sau khi có được một số lượng phương tiện kỹ thuật cần thiết tối thiểu, đã chuyển từ một lực lượng đang rút lui, phòng ngự, thành lực lượng tiến công rất mạnh. Con cháu chúng ta được hường nhiều thuận lợi, may mắn sẽ không bao giờ quên công tác tổ chức lớn lao của Đảng, sự nghiệp lao động anh hùng của nhân dân Xô-viết và những chiến công của các chiến sĩ trong thời kỳ đó. Bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những người tham gia chiến đấu còn sống, tôi cúi đầu trước kỷ niệm chói lọi của những người đã hy sinh thân mình, chiến đấu không cho quân địch lọt vào Thủ đô, trái tim của Tổ quốc, thành phố anh hùng Mát-xcơ-va. Chúng ta còn chịu những người đó món nợ không bao giờ trả được.
--- [1] Ngày 30-6-1941, thành lập Hội đồng quốc phòng Nhà nước đứng đầu là I.V. Xta-lin. Ngày 10-7-1941, Hội đồng quốc phòng quyết đinh thành lập 3 Bộ tổng tư lệnh trên các hướng mặt trận: Mặt trận hướng tây-bắc do K.E. Vô-rô-si-lốp làm Tổng tư lệnh, mặt trận hướng tây do S.M. Ti-mô-sen-cô, mặt trận hướng tây-nam do Bu-di-on-nưi. Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh chuyển thành Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao và ngày 8-8, I.V. Xta-lin làm Tổng tư lệnh tối cao trong Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao - ND. [2] Trong tháng 8 - 9 năm 1941, lại cải tổ việc chỉ huy quân đội và bãi bỏ việc thành lập Bộ Tổng tư lệnh trên các hướng mặt trận. Nguyên soái X.M. Bu-di-on-nưi rút về làm tư lệnh Phương diện quân Dự bị, bố trí ở phía sau Phương diện quân miền Tây để tăng thêm chiều sâu phòng ngự trên hướng Mát-xcơ-va – ND. [3] ngày nay đồng chí Ghét-man đã là đại tướng - TG [4] tư lệnh tập đoàn quân 16 ở hướng Vô-lô-cô-lam-xcơ – ND. [5] tức Gô-vô- rốp – ND. [6] đòn đánh vào Mát-xcơ-va – ND. [7] Ph. Mê-len-tin: Những trận đánh xe tăng năm 1939-1945