Cùng với sự thức tỉnh giới tính, việc tránh thụ thai trở thành vấn đề quan trọng ở tuổi vị thành niên. Những nghiên cứu mới đây cho thấy: thiếu niên, mặc dù đôi khi cũng có những hiểu biết về lý thuyết, đã biểu lộ sự thờ ơ hay thậm chí “từ chối” không sử dụng những biện pháp tránh thai.
Quan hệ tình dục đặc biệt là quan hệ lần đầu, 80% đều không được chuẩn bị trước. Sự không chuẩn bị trước này cùng với sự đánh giá sai về nguy cơ mang thai có thể là những lý do chính của việc không sử dụng bất cứ một biện pháp tránh thai nào. Luật về tự do phòng tránh và phá thai của Pháp cho phép cung cấp thuốc tránh thai cho trẻ em không cần đến sự đồng ý của cha mẹ lẫn sự kiểm soát tên tuổi. Việc này đã loại bỏ được những trở ngại bên ngoài lớn nhất, tức là yêu cầu của các cô, cậu thiếu niên đã được chấp nhận bởi các bác sĩ. Hiện nay ở châu Âu cũng như ở Mỹ, các nhà chức trách y tế, mặc cho những thay đổi về pháp chế, họ có xu hướng và thái độ ủng hộ việc bảo vệ thiếu niên có quan hệ tình dục chống lại nguy cơ mang thai. Thiếu niên và cha mẹ chúng phải biết điều này.
- Mọi quan hệ tình dục ngay cả chỉ một lần duy nhất đều có thể dẫn tới việc mang thai ngoài ý muốn.
- 1/3 số những cô gái trẻ có quan hệ tình dục đã mang thai bắt buộc phải tiến hành phá thai lén lút.
- Dưới 1/4 các cô gái ngày nay sử dụng một biện pháp tránh thai hiệu quả ngay lần quan hệ đầu tiên.
Ngày nay, vai trò của bác sĩ và của nhà giáo dục không chỉ sẵn sàng cung cấp những thông tin khách quan về việc tránh thai mà cần phải thông qua những cuộc gặp gỡ, khuyến khích nhu cầu tránh thai và chuẩn bị cho giới trẻ đảm nhận nó ngay cả khi thình lình xảy đến những lần quan hệ tình dục chưa được chuẩn bị trước, cũng như chính cấu trúc vẫn còn chưa định hình nhân cách cá nhân của lứa tuổi thiếu niên.
Tránh thai ở thiếu niên
Trong vài thập kỷ trở lại đây, mức độ thường xuyên của quan hệ tình dục ở thiếu niên ngày một tăng. Có 3 yếu tố tác động vào trạng thái này:
- Tuổi dậy thì sớm hơn 3 năm kể từ đầu thế kỷ.
- Quan hệ tình dục ngày càng diễn ra sớm hơn. Ở một số nơi như Mỹ 30% số các cô gái trẻ có quan hệ tình dục trước 15,5 tuổi.
- Số những thiếu niên có quan hệ tình dục đi theo một đường cong đi lên, trong khi việc sử dụng các biện pháp tránh thai lại không đi theo đường cong song song với đường cong đi lên của việc quan hệ tình dục sớm. Giáo dục giới tính ở nhà trường phải được coi như một mục tiêu. Đặc biệt, chú trọng khuyến khích áp dụng biện pháp tránh thai trong lần quan hệ tình dục. Thiết lập sớm việc tránh thai thực sự hiệu quả khẩn thiết hơn nhiều so với những chỉ dẫn cảnh báo về tăng trưởng thụ thai ở thiếu niên.
Vậy mang thai ở tuổi thiếu niên đã trở thành một vấn đề mang tính xã hội học với những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về mặt y tế sức khỏe (tỷ lệ lớn của thai non, của thai suy dinh dưỡng, của tỉ lệ thai nhi chết khi sinh) và cả về mặt tâm lý - xã hội.
Việc sinh ra một đứa trẻ mà mẹ nó không thể đảm nhận về tài chính cũng như tình cảm sẽ đẩy người mẹ trẻ này ra khỏi lề xã hội đầy rẫy những khinh miệt và thường xuyên gặp khó khăn lớn về kinh tế. Sự non nớt về mặt trí tuệ và tình cảm; xã hội, nghề nghiệp và tương lai gia đình của cô có nguy cơ sụp đổ.
Điều đó muốn nói rằng giải pháp tốt nhất vẫn là sự chủ động. Phá thai có chủ ý đặc biệt có hại vào độ tuổi này. Trong bất cứ trường hợp này, người thiếu niên phải được thuyết phục rằng phá thai có chủ ý chỉ là một biện pháp cứu cánh trong trường hợp sơ xuất hay thất bại vì không làm chủ được trong cuộc tình. Không được coi phá thai như một biện pháp tránh thai. Những tác động cục bộ lên bộ phận sinh dục còn quá non nớt và những ấn tượng thô bạo về tình dục không phải là những điều có thể dễ dàng bỏ qua được, đó là điều chúng ta muốn nói.
Tính 2 mặt đối với việc tránh thai:
Tất cả các cuộc điều tra đều khẳng định: thiếu niên phát triển tính kháng cự đối với việc tránh thai trong ý nghĩa của nó cũng như trong việc sử dụng nó. Có đến 80% trường hợp quan hệ lần đầu không có sự chuẩn bị. Việc thiếu sự tránh thai có thể lý giải bởi những nguyên nhân khác nhau: thiếu thông tin, thiếu giáo dục, nhất là một sự kích thích nào đó của chức năng làm mẹ đã đẩy bé gái lo lắng về khả năng thử sức sinh sản của mình.
Sự từ bỏ không đúng lúc một biện pháp tránh thai có nhiều nguyên nhân: hầu như quan hệ tình dục lần đầu chỉ là thoảng qua và ít khi dẫn tới mối quan hệ tình cảm lâu dài. Vì vậy các cô gái không nên từ bỏ các biện pháp tránh thai. Nếu các biện pháp tránh thai có phản ứng đối với cơ thể, bác sĩ cho ngừng dùng song có thể tìm biện pháp nào khác thay thế, khắc phục.
Rõ ràng nhiều người không biết rằng tránh thai là một phương tiện tốt nhất để bảo vệ bộ máy sinh dục chống lại chứng bệnh truyền nhiễm (MST). Thật vậy, nhờ hoạt động của nó trên dịch nhầy cổ tử cung mà nó ức chế sự tiết dịch, thuốc tránh thai chống lại tác động gây hư hỏng cho cơ quan sinh dục, vậy không thụ thai sẽ tạo thuận lợi an toàn cho nó. Đó là lý do vì sao nên sử dụng các hình thức tránh thai, nhất là ở những thời điểm có nguy cơ thụ thai cao.
Ngày nay, thuốc tránh thai vẫn luôn là một trong những biện pháp tốt nhất mặt dù giờ đây ta đã có loại RU486. Loại này được uống quá ngày thứ 28, dễ dàng dẫn đến sự phá hủy thai sớm, không hề có một ảnh hưởng nào ngoài một vài sự băng huyết. Nhưng người ta phải tin chắc bằng liệu pháp échographie, sự tiết dịch của cổ tử cung là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên rất nhiều nữ thiếu niên do thiếu thông tin cho rằng: thuốc tránh thai là nguyên nhân dẫn đến một số bệnh như vô sinh, ung thư và cả sự tăng cân. Nỗi sợ hãi thiếu căn cứ này có vẻ không làm giảm đi sự lựa chọn việc tránh thai của nữ thiếu niên.
Thực tế chỉ tồn tại duy nhất một nguy cơ sau khi dùng thuốc tránh thai đó là chứng tim mạch. Nguy cơ này tăng lên cùng với việc sử dụng thuốc, nhưng vấn đề này không đặt ra ở độ tuổi thiếu niên.
“Thuốc tránh thai của ngày mai” luôn là sự trợ giúp hoàn toàn phù hợp với thiếu niên trong trường hợp nghi ngờ tác dụng của nó. Thuốc này có tác dụng sau nhiều nhất là 72 giờ.
Uống 2 viên estroprogestatives định lượng 50mg Ethinyl - estradiol, uống thêm lần nữa trong khoảng 12 giờ đủ làm ngừng sự tiến hóa của trứng tình cờ được thụ tinh.
Việc ngừa thai âm đạo ở nữ thiếu niên cũng đặt ra những vấn đề đặc biệt.
Việc ngừa thai âm đạo ban đầu thường ít hấp dẫn (spermicides được kết hợp hoặc không với một rào chắn) có nhiều điểm thuận lợi và không cần phải có chỉ dẫn sử dụng. Nó phù hợp một cách hoàn hảo với việc tránh thai ngoài miệng giống như phương pháp vùng đệm.
Bao cao su hay viên nén âm đạo được phủ clorure de benzalkonium tỏ ra không chỉ là một phương pháp tránh thai tuyệt vời mà còn là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu chống lại phần lớn những chứng bệnh truyền nhiễm (MST) và chống lại virus HIV. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau.
Thuốc phòng ngừa dành cho cậu con trai
Nó đã trở thành sự quan tâm mang tính thời sự từ khi bệnh dịch AIDS hoành hành. Nó tỏ ra là một liệu pháp vaccin tốt nhất chống lại căn bệnh này. Việc phòng ngừa chứng tỏ tính hiệu quả khi dùng nó chống lại bệnh lậu và hàng loạt thứ bệnh tình dục khác như chlamydiaes, trichômnases, mycose và herp erts và hiển nhiên là cả chứng “dịch hạch” toàn cầu HIV/AIDS. Cuộc điều tra của các gia đình nạn nhân AIDS cho thấy người bệnh đa phần không hề sử dụng biện pháp phòng ngừa nào. Trong khi đó ở gia đình có sử dụng biện pháp tránh thai thì không hề có một sự lây lan truyền nhiễm AIDS nào theo đường tình dục.
Tuy nhiên ở Pháp, những biện pháp phòng ngừa vẫn chưa trở thành một phương tiện phòng ngừa và tránh thai chủ yếu. Trong khi ở Nhật Bản có tới 70% số nam giới nhờ cậy đến bao cao su thì ở Pháp chỉ có 6-7% nam giới sử dụng. Và đặc biệt các biện pháp phòng ngừa thai vẫn chưa thuyết phục được các lứa tuổi tận dụng, nhất là giới trẻ.
Vậy đâu là nguyên nhân gây trở ngại trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai?
1. Giới trẻ nhìn nhận nó như một sự cản trở thoải mái, nhanh nhẹn. Thực sự nỗi xúc động mạnh của lần quan hệ đầu gây rất nhiều khó khăn cho việc sử dụng một biện pháp phòng ngừa.
2. Chúng sợ người khác sẽ nghĩ xấu về ý nghĩa và hành động của chúng, rằng chúng sẽ bị nghi ngờ bị nhiễm một căn bệnh nào đó.
3. Sự thiếu kinh nghiệm kiến chúng sợ hãi trong việc sử dụng đúng biện pháp phòng ngừa.
Và cuối cùng ít nhất là 90% các cậu vẫn tiếp tục nghĩ rằng trách nhiệm tránh thai là thuộc về các cô. Cái đó có thể giải thích, nhưng không thể tha thứ cho việc 90% các cậu bỏ rơi bạn gái sau khi mang thai. Tuy nhiên, tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn chắc chắn sẽ giảm đi đáng kể nếu các cậu chấp nhận hợp tác cả đôi bên để dùng các biện pháp tránh thai.
Kết luận:
Việc tham vấn biện pháp tránh thai cho thiếu niên bao hàm cả tính tâm sinh lý đặc biệt. Nó cần phải lưu ý tới một vấn đề cốt yếu. Tỷ lệ thất bại của các biện pháp tránh thai ở thiếu niên cao hơn những tuổi khác.
Việc tham vấn này có thể là cơ hội cho một khởi đầu đối thoại về những vấn đề luôn bận tâm của độ tuổi thiếu niên. Chứng bệnh truyền nhiễm, nỗi sợ hãi về sự dị thường của các cơ quan sinh dục, những vấn đề về quan hệ tình dục. Vì thế mà vai trò của bác sĩ và các nhà giáo dục không phải chỉ cung cấp những thông tin khách quan về các biện pháp tránh thai mà cả những thông tin chuẩn bị cho bọn trẻ sẵn sàng đón nhận sự phát triển giới tính của chúng bằng cách khuyên bọn trẻ luôn để tâm tới sự phát triển đó để phát hiện những bất thường và sự không định trước của quan hệ tình dục.