Cao Ngạn mở mắt nhìn thấy Yến Phi ngồi ở đầu giường, hớn hở nói: “Cho đến lúc này trông thấy tiểu tử ngươi, ta mới dám tin ngươi không vỡ đi nửa cái đầu lâu, ha! Ngươi vốn không mất võ công, không thì sao mà chịu nổi, ít nhất cũng như ta còn phải nằm liệt không bò dậy nổi”.
Yến Phi cười khổ: “Nếu nội công của ta vẫn còn, ngươi nói đám thỏ đế đó có còn mạng sống hay không? Tuy nhiên tình trạng ta đúng là rất cổ quái, hoặc giả sau này có ngày sẽ hồi phục”.
Cao Ngạn quên mất thống khổ của mình, hoan hỉ nói: “Thế là được cứu rồi! Chúng mình lại có thể tung hoành đắc ý ở Biên Hoang Tập rồi, nói thật đấy, không có tay kiếm của Yến Phi ngươi, đêm đêm ở Biên Hoang Tập ta với Bàng Nghĩa ngủ cũng không yên giấc”.
Yến Phi mỉm cười nói: “Hơi kiên nhẫn đấy! Thương thế của ngươi thế nào rồi?”. Cao Ngạn song mục lóe lên căm hận sâu sắc, nói: “Chỉ cần không đánh chết ta, thì chẳng có gì đáng lo, nằm chơi thêm hai ngày là có thể trở dậy rồi. Có biết ai làm không?”. Yến Phi không nhẫn tâm dối hắn, nói: “Chuyện này đã do Tống Bi Phong xử lý, nơi này là Kiến Khang chứ không phải là Biên Hoang Tập, không đến lượt chúng ta sính cường đâu”.
Cao Ngạn ngơ ngác một lúc, gật đầu nói: “Ngươi nói đúng! Nếu Tạ gia mà đã không giải quyết được, chúng ta lại càng chẳng làm gì nổi. Tống Bi Phong là người được lắm, ngày nào cũng đến coi thương thế cho ta, lại còn không tiếc dùng chân khí trị thương cho ta, hiện giờ nội thương của ta đã tốt đến bảy tám phần rồi, chỉ có tay trái và chân phải còn hơi đau”.
Lại không nhẫn nại được nói: “Ai dám trêu vào Tạ An?”.
Yến Phi nói: “Tốt nhất ngươi đừng biết, xuất đầu động thủ là trách nhiệm của ta”.
Để phân tán sự chú ý của hắn, Yến Phi nói tiếp: “Còn muốn gặp Kỷ Thiên Thiên không?”.
Cao Ngạn lập tức tinh thần cực phấn khởi, gật đầu lia lịa nói: “Đương nhiên muốn gặp nàng, còn muốn đến chết nữa”.
Yến Phi mừng rỡ nói: “Ta đã đề xuất yêu cầu với lão Tống, hắn sẽ đại diện cho chúng ta nói chuyện với An công, hiện tại còn phải xem ý tứ của lão nhân gia”.
Lúc này Tống Bi Phong tiến vào, trước tiên sờ trán Cao Ngạn, cười nhẹ: “Hạ sốt rồi! Căn cơ của Cao huynh đệ tốt lắm!” Rồi quay sang Yến Phi nói: “An gia muốn gặp ngươi”. Yến Phi đưa mắt nhìn Cao Ngạn, theo Tống Bi Phong rời khỏi phòng.
Lần trước đi gặp Tạ An, chàng cảm thấy uy thế như vừng dương giữa trời của Tạ gia, trong phủ có một luồng sinh khí, từ trên xuống dưới an nhàn thư thái, nhưng lần này người người sắc mặt trầm trọng, nhà cửa lầu các hoành tráng bên trong phủ đã mất đi ấn tượng chắc chắn và bền vững trước đây, đỉnh đỉnh đại gia họ Tạ đã đến lúc cực thịnh tất suy.
Tạ An nếu như ra đi, phủ đệ Tạ gia hiển hách nhất hẻm Ô Y hạng tựa như chỉ còn lại cái xác không hồn.
Yến Phi thuận miệng hỏi: “Vì sao không thấy Tiểu Kỳ?”.
Tống Bi Phong nói: “Tiểu Kỳ mấy ngày qua phục thị ngươi liên miên không nghỉ, sợ khi ngươi có tình hình đột biến không kịp thông báo cho ta, đêm qua thực sự không chống nổi, ta bèn nói ả đi nghỉ, hiện tại chắc còn ngủ. Con nhỏ này quả là một tiểu cô nương lòng dạ rất tốt”.
Yến Phi trong lòng rất cảm động, chàng cố nhiên rất cảm kích Tiểu Kỳ, lại càng xúc động vì sự quan tâm của Tống Bi Phong. Chàng đã là một kẻ tàn phế không còn giá trị gì, Tống Bi Phong vẫn suốt đêm trông coi bên gối, bất luận thế nào đi nữa, cho dù phải chịu toàn thể những người còn lại trong Tạ gia coi rẻ, chỉ bằng vào Tạ An, Tống Bi Phong và Tiểu Kỳ ba người cũng đủ khiến chàng hết lòng cảm kích.
Tống Bi Phong dẫn chàng vào trung viện thuộc Tứ Quý viên, Vong Quan hiên nằm ở trung tâm, so với những lầu các khác xung quanh giống như hạc giữa bày gà. Một trung niên mỹ phụ phong tư ưu nhã, cặp mắt sâu thẳm từ cửa lớn Vong Quan hiên đang theo các bậc đá đi xuống, hẳn là vừa từ chỗ Tạ An đi ra.
Tuy là lần đầu tiên gặp gỡ, nhưng Yến Phi lại có một cảm giác kỳ lạ tựa như đã từng quen biết.
Tống Bi Phong lộ vẻ tôn kính tự đáy lòng, cùng Yến Phi tránh qua một bên, kính cẩn thi lễ.
Mỹ phụ gượng cười nói: “Tống thúc người khỏe chứ, vị công tử này là...”. Tống Bi Phong nói: “Là Yến Phi Yến công tử”.
Quay lại Yến Phi giới thiệu: “Vương phu nhân là thư thư của Huyền thiếu gia”.
Yến Phi thấy nàng không hề kiêu kỳ, thái độ lại khiêm hòa thân thiết, bất giác có hảo cảm, vội vã thi lễ.
Tạ Đạo Uẩn buồn bã thở nhẹ một hơi, dịu dàng nói: “Thì ra là Yến công tử, chuyện của nhà ta lại làm lụy đến công tử chịu khổ, chúng ta cảm thấy thật có lỗi, may mà Yến công tử người lành trời giúp, quý thể đã mạnh khỏe như trước, chúng ta cũng bớt phần lo lắng”.
Yến Phi không biết phải đáp lời thế nào, chàng xưa nay không quen nói lời ngọt ngào an ủi người khác, hiện tại lại càng không biết ứng đối ra sao.
Tạ Đạo Uẩn nói với Tống Bi Phong: “Tống thúc xin tiếp đãi Yến công tử cho tốt”. Nói rồi thi lễ mà đi.
Tống Bi Phong nói: “Lão đệ, mời!”.
Yến Phi thu ánh mắt đang nhìn theo bóng Tạ Đạo Uẩn, hỏi: “Vương gia có phải là nhà họ Vương của Vương quốc Bảo?”.
Tống Bi Phong đáp: “Phải. Cao môn đối cao môn, cho dù là An gia cũng không thể cải biến thói quen đó. Đạo Uẩn đại tiểu thư gả cho Vương Ngưng Chi, là con thứ Vương Hy Chi, chú họ Vương quốc Bảo, ài!”.
Yến Phi ngạc nhiên: “Hôn nhân của họ không tốt đẹp sao? Ôi! ta không nên hỏi tới chuyện này mới phải!”.
Tống Bi Phong nói: “Không quan hệ gì, trừ An gia ra, ai ai cũng biết rõ chuyện này, Tạ gia ta bất luận nam nữ đều phong lưu khoáng đạt, Vương gia lại toàn loại người khác hẳn, Vương Quốc Bảo và đệ đệ hắn là Vương Tự thì tối mắt vì lợi, Vương Ngưng Chi thì lại mê đắm Thiên Sư đạo, ngươi bảo đại tiểu thư sẽ thoải mái được sao?”.
Tâm tình Yến Phi càng thêm nặng nề, cao môn đại tộc tuyệt không như vẻ huy hoàng bề ngoài. Sinh ra trong nhà hào môn hạng nhất hẻm Ô Y là Tạ gia, coi như đối mặt với những lo âu triền miên trong ngoài, sự kiện ở quán ăn chỉ là chuyện bắt đầu.
Bỗng nhiên chàng tỉnh ngộ vì sao có cảm giác từng gặp gỡ Tạ Đạo Uẩn. Mẫu thân sinh thời thường một mình lén ở trong lều buồn bã khóc thầm, cũng có thần thái giống như Tạ Đạo Uẩn.
Tạ An một mình ngồi trong một góc hiên, đốt một lư đàn hương, bố cục cao nhã, hương sắc cổ kính càng tăng thêm ý vị thư hương.
Tạ An tay cầm một tờ giấy hoa tiên, đang xem đến nhập thần.
Tống Bi Phong nói: “An gia! Yến công tử đến!”.
Nói xong yên lặng đi ra ngoài.
Tạ An đặt tờ hoa tiên lên mặt ghế, tay kia cầm một cuốn sách cẩn thận ép lên trên, mỉm cười nhìn chàng nói: “Tiểu Phi, ngươi luôn làm người ta kinh dị, ngồi lại đây để ta coi ngươi cho kỹ”.
Yến Phi chợt thấy ấm lòng, với thân phận địa vị Tạ An, giao cho Tống Bi Phong lo mọi chuyện của chàng đã là hết sức thân thiết quan hoài chàng, vậy mà mỗi lần chàng vừa tỉnh lại đều bỏ đi mọi sự vụ bề bộn lập tức gặp chàng, có thể biết đối với mình rất thương yêu, đâu phải chỉ là thực hành lời hứa với Tạ Huyền, mà là phát xuất từ sự quan tâm chân thành đến bản thân mình.
Yến Phi tới bên ông thi lễ ngồi xuống, ngước nhìn thẳng vào mắt Tạ An, Tạ An vẫn tiêu dao tự tại như thế, ung dung nhàn hạ, nhưng Yến Phi đã phát hiện trong mớ tóc mai hàng chục sợi bạc mới xuất hiện.
Tạ An vui mừng nói: “Mỗi lần ta gặp tiểu Phi, đều sinh lòng hoan hỉ, vì nhân vật như tiểu Phi trên đời ít gặp, đừng cho là ta định cho ngươi ăn thịt hươu, cái đó gọi là đạo tuy nhỏ nhưng tiền đồ rộng lớn, thuật xem tướng có tự xa xưa, là một nghệ thuật chuyên môn, thánh nhân thì nói biến hóa theo nghệ, ha! Tạ An ta xưa nay không chịu khuất phục định kiến. Kỹ nghệ bản thân không khác nhau bao nhiêu, dùng vào việc lớn thì như long hổ phong vân, việc nhỏ thì ích lợi đối nhân xử thế, mở rộng thêm có thể đạt được thời thế thịnh suy, thiên đạo khí hậu, nhân tình xã hội, thuật đơn giản mà ý nghĩa thâm thúy, không thể khinh thị”.
Đối diện với người được coi là đệ nhất cao thủ hùng biện Tạ An, cảm giác không sao ứng đối kịp, gượng cười nói: “An công xin đừng khen tiểu nhân như thế, tiểu nhân chỉ là kẻ tầm thường, từ nhỏ không hề có chí lớn”.
Tạ An thốt: “Người tướng như ngươi, tự sẽ có tao ngộ không tầm thường. Tiểu Phi có thể giải thích ta nghe, làm sao sau khi mất vũ công, chịu côn đánh bổng đả vẫn có thể vô sự? Thiên mệnh khó dò, ngươi không có chí lớn cũng chẳng có gì quan trọng, giống như Tạ An ta từ trước đâu phải là người chí lớn, coi xem ta hiện tại ngồi ở vị trí nào, làm chuyện gì?”.
Yến Phi ngượng ngùng nói: “Tiểu nhân sao có thể so với An công?”.
Tạ An quay lại nhìn vào mặt chàng, mắt lấp lánh, mỉm cười nói: “Rồi có ngày ngươi sẽ hiểu rõ nhãn lực và những lời này của ta”.
Một tay nhấc cuốn sách, cầm tờ giấy hoa tiên lên đưa qua cho Yến Phi, nói: “Đây là do điệt nữ của ta Tạ Đạo Uẩn đêm qua làm một khổ thơ, muốn ta phẩm bình, ngươi cũng coi đi”.
Yến Phi có một thứ tình cảm đối với Tạ Đạo Uẩn mà bản thân cũng khó hiểu rõ, nghe nói đưa hai tay tiếp lấy.
Bên trên là đề mục Nghĩ kê trung tán vịnh tùng thi . Nét chữ đẹp đẽ thanh thoát. (Phỏng theoKê trung tán vịnhcây tùng).
Tạ An nói: “Kê Khang từng làm Trung tán đại phu, vì vậy mới xưng là Kê trung tán, Đạo Uẩn phỏng theo tác phẩm Du tiên thi của Kê Khang, nguyên tác mong cầu phục dược thành tiên, siêu thoát bể khổ trầm luân của đời người”.
Yến Phi chợt động tâm, cúi đầu xem kỹ, bài thơ gồm tám câu như sau:
“Dao vọng sơn thượng tùng
Long đôngbất năng điêu
Nguyên tưởng du hạ tức
Chiêm bỉ vạn nhậnđiều
Đằng dược vịnăng thăng
Đốn thủ dĩvương kiều
thờitaibất dữngã
Đại vận sở phiêu phiêu”.
(Tạm dịch:
Xa nhìn cây tùng trên đỉnh núi,
Mùa đông rét buốt chẳng héo tàn,
Ước ao nhẹ gót qua bên ấy,
Lặng ngắm xuyên mây cành lá xanh
Mới biết thân phàm khó phi thăng,
Cúi đầu mong đợi Vương Kiều đến,
Chỉ e nguyện ước chẳng gặp thời,
Vận may lãng đãng đâu là bến).
Yến Phi nhíu mày nói: “Vương Kiều là ai?”.
Tạ An đáp: “Vương Kiều là chỉ tiên nhân Vương Tử Kiều, bài thơ này của Đạo Uẩn không giống như nguyên tác ca tụng Vương Tử Kiều thành tiên, chỉ muốn nhờ sự giúp đỡ của
thuật bạch nhật phi thăng của ông ta để thân tiếp cận với thanh tùng sừng sững trên đỉnh núi cao vợi, chỉ có thể ngắm mà không thể tới gần. Nhưng phàm nhân đương nhiên không thể có biện pháp của Vương Tử Kiều, cho nên đành ngậm ngùi cúi đầu không biết làm gì”.
Yến Phi buông tờ hoa tiên, hạ giọng nói: “Vương phu nhân chính là muốn An công lui về”.
Tạ An vui vẻ nói: “Về chuyện này tâm ý ta đã quyết, Đạo Uẩn cũng biết rõ tâm ý của ta, bài thơ này chỉ là để biểu thị đồng ý với quyết định của ta. Nhưng ở Kiến Khang ta còn một việc chưa xong, ngày nào việc này kết thúc sẽ là ngày ta từ quan về ở ẩn”.
Yến Phi rất muốn hỏi ông đó là chuyện gì? Nhưng biết là tự mình không nên hỏi, nếu có thể nói được, Tạ An sẽ tự nói ra cho mình.
Tạ An trầm ngâm một chút, nói: “Trong khi tiểu Phi hôn mê, Chi Độn đại sư đã hai lần đến thăm ngươi, đối với ngươi bỗng quan tâm rất nhiều. Chi Độn không những tinh thông đạo Phật, mà còn là Phật môn cao tăng đã nghiên cứu kỹ về Đan đạo, người như thế ở Kiến Khang chỉ duy nhất có ông ấy, nếu ông ấy nghĩ không thông thì người khác lại càng thúc thủ vô sách”.
Yến Phi bị đụng đến tâm sự, nói: “Tiểu nhân muốn một mình ra ngoài một chuyến, xin An công đừng phái người đi theo”.
Tạ An chăm chú nhìn chàng, một lúc lâu không nói gì, chợt mỉm cười nói: “Chi Độn rất muốn đàm đạo với ngươi, ta đoán ông ta muốn tự thân hiểu rõ một vài chuyện về ngươi, ta vẫn chưa đáp ứng ông ấy, ngươi bảo tại sao?”.
Yến Phi ngạc nhiên.
Tạ An điềm đạm nói: “Vì ta biết tính cách ngươi, không thích nói chuyện riêng của mình, Hoang nhân đều là người không có quá khứ, bọn ta ngoài việc biết Thác Bạt Khuê cùng ngươi thân như huynh đệ, ngoài ra không biết gì thêm, ngươi ở Biên Hoang Tập ngoài việc cùng người đánh nhau thì là uống rượu, nghĩ lại hẳn phải có một chuyện cũ đau lòng! Thậm chí có thể quan hệ đến nguyên nhân thương thế kỳ dị của ngươi hiện tại nữa, ngươi lại một chữ cũng không đề cập đến, ta để tránh cho ngươi khó xử, lại tránh để Chi Độn mất công vô ích, cho nên trừ phi ngươi gật đầu ta sẽ không để các người gặp nhau”.
Yến Phi bối rối nói: “Sự thực không có chuyện giấu giếm gì ở đây, chỉ vì nghĩ rằng nói ra cũng không tác dụng gì, mà sự tình lại ly kỳ khúc chiết, tiểu nhân lại chẳng qua là một kẻ lười biếng không hơn không kém, cho nên không muốn An công người bỏ phí tinh thần mà thôi! Ài!”.
Tạ An mỉm cười: “Ta cũng là kẻ đại lãn, đáng tiếc là thân bất do kỷ, ngươi hiện tại không đủ năng lực tự vệ, lại có địch nhân đáng sợ như Nhậm Dao, một mình xuất ngoại không nghĩ là quá mạo hiểm sao? Ngươi phải chăng còn muốn gặp gỡ Thiên Thiên?”.
Yến Phi càng lúng túng, mặt đỏ bừng nói: “Tật cũ khó sửa. Nhiều năm nay tiểu nhân độc lai độc vãng, cũng quen thói tự mình chịu đựng khó khăn, giải quyết khó khăn, An công xin đừng hao phí tâm lực vì tiểu nhân. Còn về Thiên Thiên tiểu thư, ài!”.
Tạ An nói như không có chuyện gì: “Muốn gặp Thiên Thiên là Cao Ngạn chứ không phải ngươi, đúng không?”.
Yến Phi ngơ ngác nói: “Là Tống đại ca nói với người sao?”.
Tạ An bật cười: “Đâu cần Bi Phong nói ra, nghe nói ở Biên Hoang Tập, ngươi xưa nay không đặt chân tới thanh lâu, lần này không phải muốn một mình gặp Kỷ Thiên Thiên mà lại nói rõ mang theo Cao Ngạn, mà Cao Ngạn thì tối ngày không thanh lâu thì hoa thuyền, Tạ An ta là người từng trải, làm gì không đoán ra”.
Yến Phi cười khổ nói: “Tiểu tử Cao Ngạn uy hiếp tiểu nhân, phải gặp được Thiên Thiên tiểu thư rồi mới chịu an tâm trở về Biên Hoang Tập, tiểu nhân thấy hắn thụ thương, đành muối mặt đề xuất yêu cầu vô lễ này. Được rồi! An công đã biết rõ...”.
Tạ An ngắt lời: “Ngươi định thoát thân khỏi chuyện này sao? Chuyện này ta không đồng ý. Ta có thể an bài cho Cao Ngạn gặp Thiên Thiên, nhưng ngươi cũng phải làm khách đi theo. Ngươi muốn ra ngoài cũng được, nhưng Bi Phong phải đồng hành với ngươi, ngươi cũng không muốn Cao Ngạn bỏ lỡ cơ hội gặp Thiên Thiên chứ!”.
Yến Phi không làm gì được ông, đành gật đầu đáp ứng.
Tạ An nói: “Tiểu Huyền đã có hồi âm, trong vòng năm ngày y với Lưu Dụ sẽ phản hồi Kiến Khang, hy vọng về đến nơi có thể gặp ngươi”. Tiếp đó lại mỉm cười nói: “Bất luận ngươi đi làm chuyện gì, hay là đi gặp bất kỳ ai, Bi Phong sẽ bảo vệ ngươi cẩn mật, nếu có nguy hiểm, hắn càng có thể bên cạnh chống đỡ cho ngươi”.
Yến Phi nói: “Đa tạ An công quan tâm”.
Vừa lúc này Tống Bi Phong tiến vào nói: “Vương Cung đại nhân cầu kiến”.
Tạ An hướng về Yến Phi nói: “Chuyện Thiên Thiên, ta tự sẽ có an bài, nhất thiết chờ Cao Ngạn hồi phục mới nói” rồi quay sang nói với Tống Bi Phong: “Tiểu Phi có việc ra ngoài, ngươi bồi tiếp tiểu Phi đi một chuyến”.
Yến Phi biết ông bận nhiều việc, liền thi lễ cáo lui.
o0o
Thác Bạt Khuê và Mộ Dung Lân cưỡi ngựa sóng vai đứng trên đỉnh đồi, mặt đất mênh mang tuyết trắng, trên trời bụi tuyết bay đầy, trời không lạnh. Trận mưa tuyết nhỏ này nhiều khả năng là trận cuối cùng báo mùa xuân đến.
Cũng cùng ở nơi này, đêm qua với ngày hôm nay đã là chuyện khác hẳn, kết quả thắng lợi đã nằm gọn trong tay Thác Bạt Khuê.
Lực lượng duy nhất có tư cách phản đối hắn trong Thác Bạt bộ đã bị hắn đánh bại hoàn toàn, còn lại đều không đáng kể, con đường lập quốc thì vẫn còn xa tít tắp, trong hoàn cảnh bốn bên láng giềng đều là cường địch, hắn vẫn phải yên lặng canh tác, chờ đợi thời cơ thích đáng.
Đêm qua hắn cùng thủ hạ tướng sĩ chia binh tam lộ, đột kích Quật Đốt ở doanh trại phía nam cốc khẩu, Quật Đốt khi đó bên trong cốc trúng kế toan phản kích, liền điều binh khiển tướng từ phía bắc qua tham chiến, Mộ Dung Lân theo ước hẹn từ phía bắc giáp kích Quật Đốt, lập tức khiến quân đội của Quật Đốt tan vỡ tán loạn chạy trốn, Thác Bạt Khuê dẫn quân đánh mạnh vào cốc, lại để Quật Đốt theo mặt bắc đào tẩu, tuy nhiên Thác Bạt Khuê biết với người ngựa tan rã như thế, Quật Đốt sẽ không chạy được bao xa.
Hiện tại nhân mã hai bên hội sư ở ngọn đồi phía bắc, triển khai cuộc lùng sục toàn bộ trên đồng hoang mênh mông tuyết trắng, bọn họ chính đang chờ tin tức tốt lành bắt sống Quật Đốt.
Thác Bạt Khuê đã ngầm hạ mệnh lệnh, nếu do quân mình tìm thấy Quật Đốt, cứ việc tiền trảm hậu tấu, trừ đi hậu họa, chỉ cần mang thi thể ông ta về.
Vô độc bất trượng phu, Thác Bạt Khuê hiểu đạo lý này hơn bất kỳ ai. Mộ Dung Lân thần thái ngạo mạn, cứ như toàn bộ công lao chiến thắng thuộc về gã, vung roi ngựa chỉ về xa xa phía trước nói: “Coi, tóm được Quật Đốt rồi!”.
Liên quân hai bên nghe thế đồng thanh hoan hô.
Thác Bạt Khuê định thần nhìn kỹ, Quật Đốt ở trên lưng ngựa bị trói quặt tay ra sau lưng bị một tên lính Mộ Dung tộc vênh vang áp tải phóng về phía bọn họ, trái tim chợt trầm xuống.
Hiện tại hắn cần nhờ vả Mộ Dung Thùy, muốn giết Quật Đốt, cần phải được Mộ Dung Lân gật đầu mới được.
Người lính áp giải Quật Đốt đã phóng ngựa lên đỉnh đồi.
“Uỵch!”.
Quật Đốt sắc mặt tái mét như người chết được tháo dây da trâu trói vào lưng ngựa, lăn xuống mặt đất tuyết phía trước Mộ Dung Lân và Thác Bạt Khuê.
Bình thường vốn cao lớn uy võ huênh hoang, Quật Đốt lúc này huyết tích đầy người, chòm râu bết máu, toàn thân bám đầy bụi tuyết, lạnh run cầm cập, vì song thủ vẫn còn bị trói quặt ra đằng sau, lăn lộn mấy vòng vẫn không tự mình đứng lên được.
Hai binh sĩ đỡ lão dậy, để hắn quỳ trên mặt đất, một người túm tóc kéo ngược để lão ngước lên nhìn Thác Bạt Khuê và Mộ Dung Lân ngồi trên lưng ngựa.
Mộ Dung Lân cười lớn: “Quật Đốt a! Ngươi rồi cũng có ngày hôm nay!”.
Chỉ bằng một câu nói này Thác Bạt Khuê đã đoán biết Mộ Dung Thùy từng có liên hệ riêng với Quật Đốt, đương nhiên song phương không thỏa thuận được, nếu không Thác Bạt Khuê hôm nay chắc đã thay đổi vị trí với Quật Đốt rồi.
Quật Đốt hướng mục quang đầy thù hận về phía Thác Bạt Khuê, mắng lớn: “Thác Bạt Khuê ngươi chớ đắc ý, rồi cũng có ngày ngươi có kết cục như ta thôi”.
Thác Bạt Khuê nhạt giọng nói: “Kết cục của ta thế nào, sợ ngươi không còn mệnh để thấy!”, rồi thò tay ra sau nắm lấy chuôi kích.
Mộ Dung Lân vung tay hét: “Chậm đã! Vương phụ đã phân phó, nếu bắt sống được người này, phải mang lão về!”.
Thác Bạt Khuê nét mặt không thay đổi, nhưng trong lòng nộ hỏa ngút trời, thầm nghĩ, sẽ có ngày Thác Bạt Khuê ta sẽ không cần phải coi sắc mặt của họ Mộ Dung các người nữa, gật đầu nói: “Đã có lệnh của Yên vương, Thác Bạt Khuê ta đương nhiên tuân mệnh”.
Tuyết rơi mỗi lúc một dày đặc.