Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Cuộc Chiến VN >> NAVARRE Với Điện Biên Phủ

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 10800 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

NAVARRE Với Điện Biên Phủ
Jean Pouget

Chương 6

Dĩ nhiên, Việt Minh chưa có những xe bọc thép, nhưng rõ ràng là nếu có thì cuộc hoảng loạn càng tăng lên gấp bội. Trong khi thảo luận các biện pháp đề phòng, có người nào đó đã ra lệnh phá hủy chiếc cầu chủ yếu trên con đường từ Thà Khẹt đi Sênô, nằm trên sông Sêbang Phai. Ở mặt Bắc đoạn cắt này có một đơn vị nhỏ công binh chốt giữa chúng tôi không biết điều gì sẽ xảy ra.
        Tiếp theo lời phát biểu của Berteil, đại úy Graillat cũng tham gia ý kiến. Ông vốn là một đại úy kỵ binh chắc nịch, nặng tới 95 kilô, hiện nay đang chỉ huy một đại đội xe bọc thép ở Lào. Đại đội này do ông tự thành lập, bằng cách thu thập hai mươi xe bọc thép có vũ trang cũ kỹ của Mỹ, một trăm năm mươi lính Lào hay cười, thông minh, nhẫn nại. Ông đã tổ chức được một đơn vị nghiêm chỉnh, vượt sự mong đợi. Một trung đội của ông đã được biệt phái tới Thà Khẹt, nhưng vẫn còn ở đâu đó trên đường đi và đang gọi điện về xin chi thị.
        Theo báo cáo của trung đội trưởng, thị xã nhỏ bé này vẫn rất yên tĩnh kể từ khi các cơ quan quân sự hấp tấp di tản. Dọc đường đi, trung đội phát hiện thấy có nhiều kho đạn hình như bị bỏ lại. Những tin tức do đại úy Graillat thông báo làm mọi người xôn xao bàn tán. Tướng Navarre hỏi:
        - Trong trường hợp trung đội xe thiết giáp của anh cũng phải rút về Sênô thì liệu có thể vượt qua sông Sêbang Phai được không?
        - Báo cáo Đại tướng, không thể được. Tôi biết rất rõ đây là một nhánh của sông Mêkông. Đoàn xe của chúng tôi không thể nào vượt qua được nếu không có cầu.
        Tướng Bourgund ngồi trên chiếc ghế gỗ mà như sụt xuống đất. Đây là một trường hợp thường thấy trong văn học nhưng hiếm thấy trong cuộc sổng đời thường. Tuy nhiên, khi gặp phải thì người ta vẫn cứ phải chấp nhận và hiểu ra ngay. Tướng Bourgund như một vị anh hùng trong truyện cổ tích bị các thế lực dưới âm ty đánh quỵ. Đám ma quỷ bé nhỏ trong rừng đã “ăn hết óc” của ông.
        Tướng Navarre kéo riêng tôi ra một nơi, nói với tôi bằng một giọng trầm tĩnh, chính xác như thói quen vốn có:
        - Mình hơi lo ngại về tình hình sức khỏe của tướng Bourgund. Cậu có thể dùng máy bay của tôi đưa ông ấy về Huế được không?
        Thế là tướng Bourgund bị cách chức tư lệnh miền Trung Đông Dương một cách bí mật. Tướng Franqui được cử tới thay thế. Thật là bất hạnh.
        Đây là một người bạn nữa cùng khoá với tướng Navarre.
        Sư đoàn 325 Việt Minh hoàn toàn không biết câu chuyện này vì không có một nhà báo nào được chứng kiến để sau đó tiết lộ. Mãi bốn mươi tám giờ sau các nhà báo mới tới Thà Khẹt. Đó là thời gian vừa đủ để chúng tôi bắc lại cây cầu qua sông Sêbang Phai gọi các đoàn xe bọc thép quay trở lại đưa máy bay đi đón nhưng tiểu đoàn dù đã di tản về đồng bằng quay trở lại Sênô. Trong khi đó Bréchignac và Bigeard hoạt động rất khôn khéo trong rừng để nhử quân Việt tiến vào tầm pháo của Pháp. Mũi nhọn đã bị đánh tòe, cuộc tiến công của Việt Minh vào Trung Lào cùng giảm bớt sức thâm nhập. Ngày 20 tháng 1 Thà Khẹt được chiếm lại. Nhưng từ ngày 11, một vài dòng tít nổi bật trên báo chí “Đông Dương đã bị cắt đôi” đã gây xúc động trong công chúng Pháp.
        Tướng Navarre mở cuộc họp báo. Ông vẫn còn có vẻ hơi lạnh nhạt với giới báo chí, nhưng bản thuyết trình của ông rất rõ ràng và có tính thuyết phục. Buổi họp báo kết thúc với quang cảnh mọi người đều cầm cốc rượu trong tay. Nhưng khi viết sách, Bodard đã ghi lại câu nói của hai nhà báo mà ông nghe được khi ra khỏi Tổng hành dinh: “Bây giờ thì có vẻ như ông ấy thắng. Nhưng ta hãy chờ xem…” và “tình hình Đông Dương vẫn còn những nhằng như thếđó”..
        Tướng Navarre đã tỏ ra thắng thắn, cởi mở.
        Ông không hề nói với các nhà báo trong cuộc họp ngày 2 tháng 1 là ông chờ đợi Việt Minh tiến đánh Điện Biên Phủ. Và ông đã quyết định mở cuộc tiến công giành lại Liên khu 5 trong vòng chín ngày.
        Đinh Văn Sung
        Chiến dịch Atlante, nhằm đánh chiếm Liên khu 5 là vùng tự do của Việt Minh từ ngày bắt đầu cuộc chiến tranh Việt-Pháp đã được ghi trong kế hoạch Navarre cũng như trong tất cả các phương án tiến công từ bay năm nay.
        Trong khoảng thời gian đó, khu vực được coi là cái chốt của Việt Minh kéo dài từ nam Đà Nẵng đến tận sát Nha Trang đã được tổ chức lại: vùng đồng bằng ven biên tương đối trù phú; những ruộng lúa nước sản xuất hai vụ một năm, khá đủ để cùng với nguồn hải sản nuôi sống hai triệu dân. Những thuyền buồm viễn dương từ đảo Hải Nam của Trung Quốc thường chọc thủng vòng vây phong toả của hải quân và không quân Pháp, mang đến cho Việt Minh những vũ khí đạn dược viện trợ. Trên lãnh thổ Liên khu 5 mà không một địa điểm nào có thể thoát khỏi tầm pháo từ tàu chiến bắn lên, Việt Minh vẫn thành lập, trang bị, huấn luyện được bốn trung đoàn chủ lực, mỗi trung đoàn có một đại đội pháo đi kèm.
        Liên khu 5, bị lãng quên hoặc được thoát khỏi một cách kỳ lạ khi Pháp quay trở lại Đông Dương năm 1945, nay trở thành một đầu cầu chiến lược rất có giá trị của tướng Giáp. Từ căn cứ này tướng Giáp đã cổ vũ cuộc kháng chiến Nam Bộ và tuần tự đưa cán bộ và vũ khí tới miền Nam. Đoạn đường xe lửa từ Nha Trang đi Sài Gòn, nằm một phần trong hệ thống đường sắt xuyên Đông Dương, được coi như ống kim tiêm bơm thuốc trợ lực. Từng đoàn xe lửa gồm ba hoặc bốn toa, tùng đợt ra vào, được Pháp kiểm soát rất kỹ và Việt Minh bảo vệ rất đều. Các lực lượng vũ trang Liên khu 5 dĩ nhiên, giữ một vị trí trong các kế hoạch tổng phản công của tướng Giáp. Từ cuối tháng 1 năm 1954, lực lượng này đã tiến theo hướng Bắc đánh lên Tây Nguyên, tiêu diệt hệ thống phòng thủ yếu ớt bằng các đồn bốt nhỏ của chúng ta. Cùng phối hợp với cuộc tiến công ở Trung Lào, những lực lượng này có thể đánh chiếm vùng Ba biên giới chỉ trong vòng vài tuần. Từ đó, sẽ uy hiếp Hạ Lào, Đông Campuchia, cũng như Nam Kỳ và Sài Gòn.
        Bộ Tổng tham mưu của tướng Navarre hiểu rõ các ý đồ của Việt Minh và đã chuẩn bị các phương tiện cần thiết để đối phó. Nếu tôi không nhầm thì các lực lượng được bố trí để phòng thủ Tây Nguyên còn ngang bằng hoặc lớn hơn lực lượng sử dụng trong chiến dịch Atlante. Những kết quả dự tính sẽ đạt được trong phòng ngự cũng như trong tiến công đều giống nhau. Những lực lượng dự tính huy động trong chiến dịch Atlante sẽ có thể tiến công trước nhằm dập tắt hoặc vô hiệu hoá cuộc tiến công của Việt Minh, hoặc có thể chờ Việt Minh đánh lên Tây Nguyên sẽ chống lại bằng chiến thuật phòng ngự. Tướng Navarre chọn chiến thuật phòng ngự vì có nhiều lợi thế hơn.
        Trong văn bản ngày 25 tháng 1 năm 1954 liên quan đến vấn đề này có ghi rõ: “Những hoạt động quân sự này được tiến hành dưới hình thức tiến quân theo hướng Nam-Bắc bằng các lực lượng phối hợp giữa cánh quân từ nam Đà Nẵng tiến xuống và cánh quân tham gia chiến dịch Atlante từ Bình Định tiến lên. Cuộc hành quân phối hợp tác chiến sẽ phải kết thúc trong tháng 7 năm 1954.
        Giai đoạn đầu, cuộc hành quân Arethuse gồm hai mươi nhăm tiểu đoàn, trong đó có hai tiểu đoàn dù, ba cụm pháo, hai đại đội xe bọc thép, bốn đại đội công binh. Mục đích là đánh chiếm Phú Yên, giao tỉnh lỵ cho chính quyền Bảo Đại cai trị…”
        Căn cứ vào số lượng binh lực tham gia chiến dịch Atlante thì đây không phải là một cuộc hành quân qui mô lớn. Những cuộc hành quân càn quét ở Bắc kỳ, như chiến dịch Brochet còn có nhiều phương tiện hơn, có chất lượng hơn và thường cũng chỉ thu được những kết quả rất mỏng manh. Tầm quan trọng của Atlante nằm trong giá trị của mục tiêu. Nếu hủy bỏ được cái lò lửa nuôi dưỡng cuộc kháng chiến toàn miền Nam và giao cho chính quyền Bảo Đại quản lý, thì có thể coi như đẩy lùi được cuộc chiến tranh ra tận cửa ngõ Quảng Bình.
        Sự thất bại của chiến dịch Atlante bắt nguồn từ một công thức cổ điển đối lập với chiến dịch Điện Biên Phủ. Như tờ Nước Pháp buổi chiều bình luận: “Tướng Navarre lao vào phía Nam, tướng Giáp tiến công ở mặt Bắc”. Phải chăng Atlante là một sai lầm về chiến lược?
        Tướng Giáp đã tập trung chung quanh Điện Biên Phủ bộ phận thiện chiến nhất, đông đảo nhất của lực lượng chủ lực tác chiến và định mở cuộc tiến công vào ngày 25 tháng 1 năm 1954. Tướng Navarre biết rõ điều đó nhưng lại lơ đễnh tới mức, năm ngày trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ có thể xảy ra, lại điều động một bộ phận lực lượng của mình tới một nơi cách xa mặt trận chính hàng ngàn kilômét. Chỉ cần nêu lên con số các tiểu đoàn đã tham gia chiến dịch Atlante, bất cứ một học viên năm thứ nhất nào của trường Cao đẳng quân sự cũng có thể đễ dàng chứng minh Tổng tư lệnh của mình đã vi phạm nguyên tắc tiết kiệm lực lượng. Sự chứng minh này không cần một chứng cứ nào bởi vì sự thật là các nguyên tắc đã bị vi phạm rất rõ ràng. Chỉ cần không kể đến các nguyên tắc đó, như người ta vẫn thường lý giải một cách trừu tượng khi bàn đến vấn đề chiến lược, rồi vin vào các điều kiện đặc biệt của cuộc chiến tranh Đông Dương.
        Mục tiêu đánh chiếm của chiến dịch Atlante là quan trọng. Nhưng rõ ràng không phải đây là chuyện hy sinh để giữ Hà Nội hoặc Điện Biên Phủ. Càng không phải là chuyện hy sinh toàn bộ lãnh thổ Đông Dương để cứu Hà Nội. Bộ chỉ huy Pháp đã quyết định mở chiến dịch Atlante ngày 20 tháng 1 trong khi đang chờ Việt Minh đánh Điện Biên Phủ ngày 25 tháng 1. Chính vì lẽ đó, các tiểu đoàn tham gia chiến dịch ở miền Nam đã không thể có mặt ở Bắc kỳ và càng không thể tới được Điện Biên Phủ nếu Việt Minh tiến đánh.
        Những đơn vị đặt dưới quyền chỉ huy của Tổng tư lệnh Navarre trên toàn cõi Đông Dương không thể thay đổi dễ dàng được như các quân cờ trên bản đồ diễn tập của Học viện chiến tranh. Các lực lượng vũ trang của tướng Navarre như những mảnh vải không đều nhau, chắp vá cho vừa khít với nhau trong bộ quần áo của vai hề. Còn quân đội của các quốc gia liên kết ở Đông Dương thì như những mảnh sành mảnh sứ gắn chặt vào nhau như bộ đồ trang trí ghép mảnh cổ truyền. Các tiểu đoàn của Campuchia đã không thể điều động ứng cứu cho Trung Kỳ hoặc Bắc Lào. Nhưng, việc các đơn vị của Nam Việt nam không thể ứng cứu cho vùng đồng bằng Bắc bộ người Nam Kỳ không muốn đi chiến đấu ở tận Bắc kỳ, đó không phải là điều đáng lo nhất. Ngay trong cuộc tiếp xúc đầu tiên với tướng Navarre, tướng Nguyễn Văn Hinh đã trình bày:
        - Khi tôi điều động một số tiểu đoàn của tôi ở miền Nam Việt nam lên Tây Nguyên cách Sài Gòn 200 kilômét, binh lính của tôi đã nghĩ rằng tôi lưu đày họ biệt xứ, mặc dù hồi đó chưa có địch để đánh trên cao nguyên người Thượng. Đối với họ, cao nguyên Trung phần là vùng lãnh thổ bên ngoài, chẳng khác gì điều động một trung đoàn lính Pháp ở thành phố Lille của Pháp đi sang tận Tombouctou ở Châu Phi.
        Những đơn vị truyền thống của lực lượng viễn chinh Pháp, tức là những đơn vị duy nhất được thành lập ở Pháp, mang các phù hiệu cổ truyền của quân đội Pháp như tiểu đoàn xung kích kỵ binh số 1, trung đoàn bộ binh thuộc địa số 22, tiểu đoàn xung kích bộ binh số 10.., không phải là những đơn vị cơ động lắm. Trên thực tế những đơn vị địa phương này thiếu cán bộ và phương tiện thích ứng với nhiệm vụ. Đó là những đơn vị tuyển quân tại chỗ, trang bị những phương tiện phù hợp nhất với hoàn cảnh địa phương, không giống nhau thay đổi rất rõ ràng về mặt này, mặt khác. Tuy vậy cũng không có trở ngại gì lớn. Trong khi thích ứng với hoàn cảnh địa phương, các tiểu đoàn đạt được sự mềm dẻo vì chiến thuật lại bỏ mất tính cơ động chiến lược. Binh đoàn cơ động số 100 được thành lập trên cơ sở một tiểu đoàn ở Triều Tiên trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) nhưng rồi được bổ sung thêm bằng các binh lính người Nam Kỳ và người Thượng, đã phình to lên gấp đôi, rồi gấp mười tiểu đoàn. Giá trị của mỗi tiểu đoàn cơ sở, bắt nguồn từ một tiểu đoàn gốc, cũng được tăng lên gấp mười, nhưng các binh đoàn 100 gồm mười tiểu đoàn đó vẫn không thể sử dụng hữu ích bên ngoài lãnh thổ Nam Đông Dương. Các đơn vị thuộc lực lượng dự trữ của Pháp cũng đã “vàng hoá”, tức là bổ sung thêm nhiều binh lính da vàng. Những tiểu đoàn dù của Pháp, có thể nhảy từ trên máy bay đang bay xuống một điểm đã định ở bất cứ nơi nào trên chiến trường dưới đất, nay có tới 50 phần trăm quân số là lính Việt nam. Mặc dù việc chọn lọc khắt khe được coi là nguyên tắc trong các đơn vị xung kích này khiến cho binh chủng dù được hưởng một quyền tự trị nào đó về mặt địa lý, những tiểu đoàn dù vẫn chỉ hoạt động có hiệu quả ở khu vực có lính Việt nam được tuyển chọn, tức là ở đồng bằng Bắc bộ.
        Tính chất khác nhau về hình thức và giá trị sử dụng đã khiến cho việc lắp ráp để tiến hành một hoạt động quân sự qui mô lớn trở thành khó khăn, phức tạp. Việc tiêu chuẩn hoá từng người lính là điều cần thiết cho việc tiến hành chiến dịch. Trong một đội quân cổ điển, các đơn vị trong cùng một binh chủng có khả năng thay thế lẫn nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Nhưng trong các đội quân do tướng Navarre chỉ huy ở Đông Dương, khả năng này không có. Ngoài lực lượng tổng dự bị gồm khoảng ba mươi tiểu đoàn, các đơn vị khác đều chỉ hoạt động có hiệu quả ở nơi đóng quân trong các tỉnh.
        Những lực lượng tham gia chiến dịch Atlante được huy động từ ba vùng lãnh thổ khác nhau thuộc Liên khu 5, tức là vùng Trung Kỳ, Nam Kỳ, Tây Nguyên, trừ một tiểu đoàn dù. Tất cả gồm khoảng hai mươi nhăm tiểu đoàn bộ binh, ba cụm pháo binh, hai tiểu đoàn công binh. Thuộc cao nguyên Trung phần có hai binh đoàn cơ động một tiểu đoàn cơ động, một đại đội xe thiết giáp, một tiểu đoàn công binh (nhưng chỉ có hai đại đội).
        Thuộc các lực lượng lục quân Nam Việt nam có binh đoàn cơ động số 100 (gồm bốn tiểu đoàn), một tiểu đoàn dù lính Việt, một tiểu đoàn công binh (hai đại đội), sáu tiểu đoàn hành quân lính Bảo An. Thuộc các lực lượng miền Trung Việt nam có binh đoàn cơ động 21 (gồm ba tiểu đoàn) hai tiểu đoàn cơ động, một đại đội xe thiết giáp. Thuộc lực lượng tổng dự bị có một tiểu đoàn dù.
        Như vậy là không có một đơn vị nào của Bắc kỳ và các tiểu đoàn dù đang chờ đợi tham gia vào trận đánh ở Điện Biên Phủ.
        Trong tâm trí Bộ chỉ huy quân đội Pháp cuộc hành quân Atlante nhằm một mục tiêu chính trị không thể tuyên bố công khai được.
        Đã có thoả thuận là những vùng đất do quân đội Pháp đánh chiếm được sẽ giao lại cho quân đội bản xứ và chính quyền Bảo Đại quản lý. Tháng 9 vừa qua, việc trao vùng Bùi Chu và Phát Diệm cho Bảo Đại là thử nghiệm đầu tiên. Tuy nhiên trong số những người bi quan, nhiều người cho rằng một mình chính quyền Bảo Đại không thể chống lại nổi Việt Minh. Mặc dù vậy, tướng Navarre vẫn kiên quyết giữ vững quyết định cũ, thậm chí ông còn mời Bảo Đại tham gia Ban chỉ huy tối cao cuộc hành quân Atlante. Quốc trưởng nhận lời, nhưng lại cử dược sĩ Giao làm đại diện cho mình. Tướng Hinh là người đang ôm ấp tham vọng lại không được uỷ nhiệm. Việt đầu tiên của ngài đại diện Quốc trưởng, dược sĩ Giao, ngay sau khi được cử vào ban điều hành chiến dịch là nắm luôn trong tay việc kiểm soát ngân quỹ dành cho việc chi tiêu về hành chính dân sự, gồm một khoản tiền lớn.
        Tổng cao uỷ Dejean và Tổng tư lệnh Navarre cố giữ ý, không can thiệp vào chuyện này. Chính quyền Bảo Đại đã được Pháp công nhận là đại diện cho một quốc gia độc lập. Nếu Pháp lại nắm giữ những lãnh thổ, dù là do quân đội Pháp đánh chiếm được, vẫn sẽ bị coi là bước đầu tiên phản lại lời cam kết. Atlante có giá trị lớn về sự thử nghiệm: nếu chính quyền Bảo Đại hoàn thành nhiệm vụ tiếp quản lãnh thổ Pháp sẽ tiếp tục đẩy mạnh nỗ lực nếu Bảo Đại thất bại thì Pháp sẽ chẳng cần giữ lời cam kết một cách vô ích.
        Trong tình thế tan rã nói chung trên toàn cõi Đông Dương vào cuối mùa hè 1953, Atlante cũng sẽ gặp những may rủi khác nhau. Hội nghị Geneve sắp họp. Kết quả mà Pháp đạt được tại hội nghị này có thể biết trước là sẽ nghèo nàn và phụ thuộc vào con bài chiến tranh duy nhất của chúng ta, “một con số 2 rô hoặc 3 nhép” như Ngoại trưởng Bidault hồi đó đã nhận xét. Nhưng cũng có thể, nếu Atlante thắng lợi, điều đó sẽ giải thích, có lẽ Hồ Chí Minh sẽ chấp nhận rút quân khỏi các lãnh thổ phía Nam vĩ tuyến 17. Nhưng sự thắng lợi ở Điện Biên Phủ chi được giải thích trên nguyên tắc tiết kiệm lực lượng. Atlante không có một chút ảnh hưởng nào tới Điện Biên Phủ cũng như tới sự một ruỗng trong vùng đồng bằng Bắc bộ.
        Nếu thất bại ở Điện Biên Phủ đánh dấu một thời điểm trong lịch sử của Pháp - và có thể cả lịch sử thế giới và những hậu quả của nó hầu như vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt - thất bại này cũng ghi nhận một thời điểm trong những quan điểm và lý thuyết quân sự của chúng ta. Nếu muốn giải thích chiến tranh chỉ dưới ánh sáng duy nhất của những nguyên tắc cổ điển đã phủ đầy bụi, có nghĩa là chẳng hiểu gì về cuộc chiến tranh này cả, chẳng khác gì đem những nguyên tắc đánh bài Bridge để chơi bài Belotte, cũng là chơi bài lá nhưng kiểu cách rất khác nhau. “Đối với một người theo chủ nghĩa Mác-xít, chiến lược quân sự trước hết là chính trị”. Lịch sử cuộc chiến tranh Điện Biên Phủ gắn liền một cách rõ rệt với hai sự kiện chính trị trọng đại, đánh dấu bằng hai thời điểm của các hội nghị quốc tế họp ở Berlin và ở Geneve, trải dài trên ba giải đoạn khác nhau.
        Trong ba giải đoạn này, thái độ của tướng Giáp trước tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, những tư tưởng, quyết định và hành động của ông có thay đổi đột ngột, nhằm thích ứng chặt chẽ với những hoàn cảnh chính trị quốc tế.
        Trong hai tháng đầu sau khi Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ, Giáp chỉ coi hành động này như một sự “cản phá” của Navarre, một phản ứng trước những kế hoạch tiến công của Việt Minh, một sự “luật nút chai” trước khi tiến hành tổng phản công(1). Vị trí của Pháp tại Điện Biên Phủ cản trở kế hoạch của tướng Giáp tiến quân sang Thượng Lào và khuấy động xứ Thái ở một chừng mực nào đó. Chỉ với những lý do đó cũng đủ để tướng Giáp tiến hành một cuộc tiến công chớp nhoáng nhằm giành được những thắng lợi nhanh chóng. Ông chưa nghĩ đó là một thắng lợi quyết định và hồi đó, cũng không có một tài liệu nào của Việt Minh coi đó là thắng lợi quyết định.
        Đầu tháng 12 năm 1953, tức là vào thời điểm mà cả hai phía, tướng Navarre cũng như tuồng Giáp, đều chấp nhận cùng giao chiến tại thung lũng lòng chảo, cùng chấp nhận những rủi ro đã tính kỹ. Ngày 25 tháng 1 năm 1954, bộ đội của tướng Giáp đã sẵn sàng tiến công. Nhưng, cũng trong ngày hôm đó, Hội nghị Tứ cường sau nhiều lần tuyên bố họp rồi lại hoãn do Liên xô muốn bàn chung nhiều vấn đề và do Pháp muốn mở rộng thành năm cường quốc có cả Pháp tham gia, cuối cùng đã khai mạc tại Berlin. Tối ngày 25 tháng 1, tướng Giáp ra lệnh hoãn cuộc tiến công để chờ đợi tròn vẹn một tháng những kết quả của hội nghị quốc tế tại Berlin(2), phần lớn các lực lượng bộ đội Việt Minh vẫn đóng quân ngay trước tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
        Riêng sư đoàn 308 được trao nhiệm vụ tiến hành một hoạt động thứ yếu, tức là tiến sang Lào đẩy lùi các đơn vị Pháp-Lào trên đường tiến về kinh đô Luang Prabang.
        Ngày 18 tháng 2, sư đoàn 308, được mệnh danh là sư đoàn thép, bao vây năm tiểu đoàn Pháp tại Mường Sài. Việc chuẩn bị tiến công đã hoàn tất. Những khẩu sơn pháo 75, đạn dược, lương thực đều được chuyển tới Điện Biên Phủ bằng sức người. Chi cần vài tiếng đồng hồ bộ đội Việt Minh đã chiếm gọn Mường Sài. Thắng lợi đã rõ ràng về phía tướng Giáp. Sự sụp đổ cũng rõ ràng về phía Pháp, Bộ chỉ huy quân sự ở Sài Gòn đã tuyên bố như vậy. Cũng ngay trong ngày hôm đó, thông cáo cuối cùng của Hội nghị Berlin tuyên bố sẽ họp tiếp Hội nghị quốc tế tại Geneve. Bốn mươi tám giờ sau, sư đoàn 308 rời Mường Sài, cấp tốc hành quân trở lại Điện Biên Phủ, lại chiếm lĩnh vị trí cũ để sau đó tham gia trận tiến công vào những ngày đầu tháng 3. Từ những ngày này, tướng Giáp quyết định tập trung lực lượng, giành chiến thắng bằng mọi giá.
        Công trạng của tướng Giáp là đã biết điều hành mềm dẻo hoạt động của mình. Như nhà báo Pháp Jean Ferran đã nhận xét: “Chiến lược của một người Mác-xít là không tách rời chính trị với quân sự nhu người Pháp chúng ta. Nếu chúng ta biết mở rộng như vậy thì sẽ có nhiều khả năng lớn hơn”. Navarre và Cogny không có những khả năng đó. Bị thua trận ở Điện Biên Phủ vào tháng 5, Navarre và Cogny đã tranh thủ được thời gian mùa khô ở đồng bằng và cuối cùng đã thất bại toàn bộ cuộc chiến tranh mà không biết gì đến Hội nghị Geneve. Nếu bị thua ngay tại Điện Biên Phủ từ hồi tháng 1, có lẽ họ chỉ bị thua một trận đánh và vẫn còn tranh thủ được thời gian.
        Đến tháng 1 năm 1954, tập đoàn cứ điểm đầy ắp các tiểu đoàn đã hoàn thành mọi việc chuẩn bị một cách tin tưởng. Bản báo cáo tình hình từ 26 tháng 12 năm 1953 đến 25 tháng 1 năm 1954 gửi về Tổng hành dinh cho biết: “Tại vùng thượng du, trung tâm đề kháng Điện Biên Phủ hiện chỉ còn lại một số công việc chi tiết để củng cố việc tổ chức phòng ngự đang sắp hoàn thành”.
        Trong khì chờ đợi cuộc tiến công, cả Cogny lẫn De Castries đều tránh đưa quân đi xa tới những mỏm đồi bao quanh thung lũng Điện Biên Phủ. Va lại, Việt Minh cũng đã tiến xuống lòng chảo, chỉ cần đi khỏi trung tâm vài kilômét đã có thể bắt gặp.
        Ngày 28 tháng 12 năm 1953 trung tá Guth là tham mưu trưởng của Castries đã bị bắn chết khi ông đang dẫn quân sục sạo mặt phía Bắc chuẩn bị đặt sở chỉ huy của cứ điểm mang tên Gabrielle. Ngày 30 tháng 1 2 lính Tabor đụng độ với Việt Minh ở phía Nam cứ điểm Isabelle. Ngày 8 tháng năm 1954, tại phía Đông Bắc cứ điểm Béatrice 8 kilômét, tiểu đoàn dù lê dương phát hiện thấy một vị trí của Việt Minh ngụy trang rất kỹ. Ngày 12 tháng 1, một cuộc đụng độ nữa lại xảy ra cách trung tâm 8 klômét về phía Tây Nam và đến ngày 13 thì phát hiện địch chỉ cách trung tâm có 3 kilômét. Tuy nhiên, cuộc bao vây vẫn chưa thật sự tiến hành. Nhờ có cầu hàng không, Điện Biên Phủ chỉ cách Hà Nội một giờ bay. Buổi sáng có thể từ Điện Biên Phủ đáp máy bay về Hà Nội chữa răng, ăn cơm trưa tại khách sạn Métropole rồi quay trở lại vị trí bằng chuyến Dakota cuối cùng. Khách tham quan thì ngược lại. Họ tới Điện Biên Phủ sau khi thung lũng tan sương mù rồi trở về Hà Nội vào buổi chiều. Rất nhiều người đã tới thăm Điện Biên Phủ từ cấp bộ trưởng đến cấp trưởng ban thấp nhất.
        Cứ điểm phòng ngự cuối cùng được đặt tên là Gabrielle (nằm trên đỉnh đồi Độc lập, vì chỉ có một mình điểm cao này đột khởi trên cánh đồng trong khu vực) được hoàn tất vào đúng ngày 1 tháng 1 năm 1954. Cho tới lúc này đã rải xong hàng ngàn kilômét dây kẽm gai chôn hàng vạn cạm bẫy các loại: mìn phát sáng, mìn sát thương, mìn cóc nhảy, mìn chứa xăng khô napalm để thiêu cháy. Các binh sĩ trấn giữ Điện Biên Phủ đã nhận được đầy đủ kính hồng ngoại để có thể nhìn trong đêm tối, súng phun lửa để phát quang bụi rậm, nước uống tươi mát đóng chai, thuốc viên giúp lính gác đêm tỉnh táo, áo nịt chống đạn, súng phóng lựu đạn loại hiện đại nhất do tướng Blanc mang đến làm quà trong chuyến thăm, và những huy chương đạo Cơ Đốc do Đức cha Badre, Tổng tuyên úy, trao tặng.
        Mỗi vị khách tới thăm Điện Biên Phủ đều đắp thêm một viên đá cho pháo đài và tặng các chiến sĩ phòng ngự mỗi người một cốc rượu.
        Trong khi đó, về phía tướng Giáp, bầu không khí chung quanh Tổng hành dinh ít rầm rộ hơn. Công cuộc chuẩn bị tiến công chưa hoàn tất, nhưng Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân vẫn quyết định nổ súng vào ngày 25 tháng 1 năm 1954. Những tiểu đoàn cuối cùng tham chiến đã tiến về Điện Biên Phủ.
        Nhưng trước ngày đó một hôm, có một người lính Việt Minh tên là Đinh Vàn Sung đã chạy sang hàng ngũ quân đội Pháp, đóng tại Điện Biên Phủ.
        Chính Sung sau đó đã nói với tôi, hắn thuộc đại đội 18, tiểu đoàn 16, trung đoàn 141 sư đoàn 312.
        Sung là tên khai sinh, còn khi chạy sang phía Pháp, hắn gọi tên là Đồng.
        Sung sinh ra tại một làng nhỏ theo đạo Cơ Đốc ở vùng đồng bằng. Từ thủa nhỏ, Sung đã được một linh mục cho đi học tại trường dòng Phát Diệm và đã biết đọc kinh lễ bằng tiếng La-tinh.
        Lớn lên, Sung yêu một cô gái tên là Tuyết, cũng là một nữ thanh niên theo đạo Thiên Chúa.
        Giám mục Phát Diệm Lê Hữu Từ với cặp mắt soi mới, mặt dài thuỗn, là người không bao giờ khoan dung cho tư cách kém cỏi của những thầy dòng đi chệch khỏi quy tắc, dù đã tin cậy trao cho họ khẩu súng. Sung bị buộc phải rời khỏi trường dòng vì tội yêu đương trai gái. Sung rất lấy làm tiếc vì hắn là người hiếu học.
        Lúc đó Sung mới 19 tuổi, người mảnh dẻ nhưng có sức chịu đựng dẻo dai, có sức sống hấp thụ được từ truyền thống lâu đời của những người “nhà quê” thiếu đói. Hắn là sản phẩm của một sự di truyền khắc khổ theo một quy luật tự nhiên. Trong khu vực đồng bằng này, mật độ dân số lên tới tám trăm người trên một kilômét vuông, những người hèn người kém đều bị loại trừ không thương tiếc.
        Sau khi bị đuổi khỏi trường dòng, Sung không muốn quay về quê làm ruộng, cũng không có đủ tiền để tiếp tục theo học tại Hà Nội. Là một người theo chủ nghĩa dân tộc, Sung sôi sục trong lòng ngọn lửa khát khao trở thành những bậc anh hùng. Trong con người Sung có một lý tưởng yêu nước, một tín ngưỡng tôn giáo, một tình yêu say mê quyện chặt vào nhau. Hắn có ý đồ theo đuổi một cuộc sống nguy hiểm, liều thân và cống hiến cuộc đời mình cho Tuyết, cho Đức Chúa Giêsu, cho nước Việt nam. Hắn đã xin gia nhập một đại đội thuộc lực lượng bộ đội địa phương Việt Minh.
        Trong khi kể lại chuyện về cuộc đời mình, Sung đã rất ít tiết lộ về khoảng thời gian này.
        Sung đã được nhanh chóng chú ý đặc biệt, được thăng cấp hoặc ít nhất cũng được giao đảm nhiệm một số chức vụ nào đó. Nhiệm vụ mà Sung được giao phó tạo cho hắn được tự do hoạt động và Sung đã lợi dụng luôn để bí mật về thăm Tuyết. Dưới cặp mắt của người yêu, Sung vừa được thương mến, vừa được kính phục. Sung rất sung sướng. Hắn được chiến đấu, được yêu thương và vẫn thường thú tội như một con chiến ngoan đạo.
        Trong một buổi học tập kiểm điểm mùa thu 1953 một đồng đội đã tố giác Sung. Đơn vị kết tội hắn “có quan hệ tội lỗi với một người con gái mờ ám”. Sự việc trở nên nghiêm trọng. Thái độ thành khẩn và khôn khéo của Sung trong buổi tối tự kiểm điểm giúp hắn thoát khỏi đi lao động cải tạo, nhưng chuyển sang sư đoàn 312 làm lính chiến đấu.
        Tháng 11 năm 1953 Sung tới đơn vị mới tại nơi đóng quân gần Phủ Thọ. Ngày 25, trung đoàn của Sung được lệnh lên đường đi Mường Thanh.
        Ngay hôm đó, đơn vị lên đường sau khi đã náo nức chờ đợi một tháng. Đại tá Nam Long(3) và chính uỷ Mạc Ninh cưỡi ngựa dẫn đầu hàng quân. Cuộc hành trình kéo dài và rất vất vả. Trung đoàn phải hành quân suốt nhiều đêm liền, ngày 7 tháng 1 tới Sơn La ngày 14 tới Tuần Giáo.
        Ngày 17 tháng 1, trung đoàn dừng chân tại cây số 55 đường 41 cách Điện Biên Phủ khoảng hai mười kilômét. Chính đây là nơi cất giấu hai mươi bốn khẩu pháo 105 và mười sáu khẩu 75 được ngụy trang rất kỹ bằng cành lá ngay sát đường cái.
        Tất cả binh lính thuộc sư đoàn 312 đều được giao nhiệm vụ kéo pháo suốt tám ngày liền. Họ đã lôi những khẩu pháo này trên những đường hẻm bên sườn núi, trên những độ dốc mà ôtô không thể nào đi được. Khoảng một trăm bộ đội xúm vào kéo một khẩu pháo bằng những chiếc dây chão. Thỉnh thoảng, bánh pháo lại sa lầy trong đám đất mới tạo thành đường. Nhiều đêm, pháo chỉ nhích được vài trăm mét. Những khúc đường nguy hiểm đều có nhiều người kéo đằng trước, đẩy đằng sau.
        Trong đêm 23 tháng 1, những người lính kéo pháo đã vượt qua được đỉnh núi cao nhất trong cuộc hành trình. Đây là lần đầu tiên Sung và đồng đội nhìn thấy những ánh đèn hắt ra từ những đồn bốt của bọn đế quốc ở xa xa dưới chân, về phía Nam. Trước khi trời sáng, họ đã đặt được những khẩu pháo vào trong hầm sâu khoét lõm bên sườn núi. Nòng pháo chĩa thẳng qua một cửa sổ hẹp, nhằm vào phía cứ điểm của Pháp dưới thung lũng.
        Đêm hôm sau, toàn tiểu đoàn tập trung trong một thung lũng sâu như một cái mồ. Chung quanh là những cây cao, gỗ lim, gỗ tếch có tán lá rộng tới tận đỉnh ngọn, đan xen với nhau, tạo thành một vòm lá cây mà máy bay trinh sát quan sát không thể nào nhìn thấy ở bên dưới. Hai bên bờ dòng suối chảy vào đầm lầy, những khóm tre và cây rừng từ mặt đất vọt lên như bùng nổ. Các vách thung đều được khoét hầm trú ẩn. Đây là những hầm sâu có thể chống lại được bom. Nhưng thật ra thì các phi công cũng chăng để ý đến khu vực này. Chỉ riêng trong một thung lũng nhỏ này trung đoàn kéo tới đóng quân và còn có tới hàng chục thung lũng khác đầy ắp bộ đội các binh chủng đang sẵn sàng chảy vào lòng chảo, mà nơi hội tụ của các lực lượng vũ trang nhân dân là cánh đồng Mường Thanh.
        Mạc Linh(4) và Nam Long tới gặp các binh lính trong đơn vị. Đại tá Nam Long nói: “Đêm mai sẽ bắt đầu”(5).
        Những người lính được cổ vũ đã sử dụng thời gian còn lại trong đêm để lau chùi vũ khí. Vào lúc rạng đông, cơm nóng đựng trong giỏ mây được mang đến, có nước mắm, rau đậu, thịt mỡ cát thành từng miếng nhỏ. Sau đó, họ nằm ngủ một lát. Đến giữa trưa, trung đoàn lại hành quân theo hàng một, từ đáy sâu trong thung lũng họ đã tới những ruộng nước trong lòng chảo. Những chiếc máy bay đen, sơn cờ hiệu hải quân, từ tàu sân bay của Pháp đậu trong vịnh Hạ Long bay tới, tiến công họ nhiều lần. Mỗi khi có báo động, họ lại nằm im dưới những lá cây ngụy trang đeo trên người.
        Hơn nữa suốt dọc đường tiến quân đều có đào sẵn hố cá nhân hoặc hầm trú ẩn để kịp lánh mình khi cần thiết. Cho tới lúc chiều tà họ vẫn còn tiếp tục hành quân trong những giao thông hào ngoằn ngoèo, phủ gỗ và đất. Họ cúi khom lưng tiến bước dưới ánh sáng lọt qua từ những lỗ châu mai thỉnh thoảng lại được khoét ở vách hào.
        Đêm đã tới nhưng bộ đội Việt Minh hãy còn cách xa các vị trí của Pháp. Đại đội của Sung bước ra khỏi chiến hào. Vầng trăng chiếu sáng thung lũng lòng chảo. Mọi người được lệnh tuyệt đối giữ im lặng. Mệnh lệnh được truyền đi từ người này đến người khác bằng cách ra hiệu bằng tay. Trung đội của Sung đi đầu, được lệnh triển khai. Phía trước là mục tiêu đang hiện lờ mờ sau làn sương bạc. Đây là một quả đồi hình lưỡi liềm có hai đại đội dùng cùi tay từ từ trườn lên phía trước để tới vị trí xung phong sát gần đồn địch tới mức có thể nghe rõ tiếng lính canh đổi gác. Với các động tác lặng lẽ, trung đội của Sung đã tháo bộc phá và lựu đạn khỏi hành trang. Trong đêm đen, úp mặt lên manh đất nóng của đám ruộng khô, Sung cảm thấy rất lo sợ. Hắn chợt nghĩ tới Tuyết. Hắn sờ vào ngực, nơi có giữ chiếc túi nhỏ bằng ni-lông trong đựng tấm ảnh Tuyết, cùng với những lá thư gia đình và những huy hiệu Đức Mẹ đồng trinh và Chúa cứu thế. Theo qui định, sau một loạt pháo bắn sẽ là tín hiệu xung phong. Nhưng các khẩu pháo vẫn im bặt. Chỉ thỉnh thoảng nghe thấy vài tiếng súng trường bắn vu vơ từ các cứ điểm của Pháp.
        Vào khoảng nửa đêm, người lính bên cạnh dùng cử chỉ ra hiệu cho Sung biết có lệnh rút lui.
        Từng người một lặng lẽ quay trở lại rồi đi rất nhanh, thẳng người, trên cánh đồng. Trước khi trời sáng, toàn đơn vị đã tới nơi trú ẩn trong thung lũng. Sung và đồng đội chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì chính uỷ Mạc Ninh đã nói:
        - Bộ tổng tư lệnh chỉ ra lệnh tiến công khi chắc thắng.
        Buổi chiều hôm đó họ lại được lệnh đi kéo pháo trở lại đường cái. Kéo pháo xuống cũng khó khăn như lôi pháo lên núi. Phải mất nhiều ngày họ mới đưa được pháo ra đường cái để ôtô kéo về Tuần Giáo.
        Sáng 26 tháng 1, đại úy Désiré chỉ huy tiểu đoàn Thái số 3 đóng trên cứ điểm Anne Marie 4, dẫn một đơn vị đi lùng sục về phía Tây. Cách hàng rào kẽm gai chưa đầy 80 mét ông đã phát hiện thấy dấu vết có nhiều người đi lại và nằm phục chung quanh vị trí. Ông thu lượm vài quả lựu đạn bị bỏ rơi và báo cáo cấp trên. Trong bản báo cáo tình hình từ 23 đến 25 tháng 1, 1953 Castries viết: “Đã thấy rõ Việt Minh đang thắt chặt vòng vây. Nhiều cuộc đụng độ giữa đơn vị tuần tra với Việt Minh đã xảy ra trong những đêm 21 và 23, những cuộc chạm trán gần hơn trong các ngày 24, 25… Trong đêm 25 và 26 nhiều tiền đồn báo động đã bị Việt Minh tiến công”.
        Sáng 26 tháng 1, mọi người ở Hà Nội vẫn chưa biết gì hơn. Các vị Jacquet, Blanc, Dejean đã từ Viêng Chăn tới đây từ hôm trước. Tướng Navarre đến Hà Nội trước họ hai mươi bốn giờ. Tất cả ngồi chung quanh ngài Bộ trưởng cùng ăn cơm tại Đại sứ quán Pháp, còn gọi là “Ngôi nhà của nước Pháp”. Ngài Jacquet có vẻ rất háo hức được tham dự cuộc chiến thật sự tại Điện Biên Phủ, nâng cốc hỏi Cogny:
        - Thế nào, đêm nay chứ?
        Người “chịu trách nhiệm về cuộc chiến” trả lời răn rỏi:
        - Thưa ngài Bộ trưởng, tôi hy vọng như vậy.
        Tuy nhiên, tướng Navarre vẫn bảo tôi lên lịch công tác cho ngày mai. Riêng chuyến đi Điện Biên Phủ sẽ lùi lại vào lúc 11 giờ 45 phút chứ không bay sớm như cũ. Tôi vẫn được đi cùng. Đây là lần cuối cùng tôi đi theo Tổng tư lệnh. Cuộc họp hôm trước đã quyết định tôi được cử về công tác tại căn cứ hậu cần của tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 sẽ hoạt động ở Trung Lào. Tôi sẽ đi ngay Sênô khi có dịp.
        Tôi đã từng bão hoà về những chuyến đi và những cuộc thị sát tập đoàn cứ điểm này rồi. Đây là lần thứ năm tôi theo Tổng chỉ huy lên Điện Biên Phủ. Nghi thức vẫn không thay đổi: lễ đón chào, báo cáo tình hình, hỏi và đáp, thăm các cứ điểm có thể tới thăm thuận lợi nhất, nhìn bao quát phía chân trời, gió bụi, rượu sâm-banh hâm nóng, những lời chúc tụng, chào tạm biệt, cất cánh trở về máy bay nghiêng cánh trái lượn một vòng như gửi lời chào trân trọng thung lũng Điện Biên Phủ.
        Tướng Navarre ngồi bên cạnh tướng Blanc, Tổng tham mưu trưởng quân đội. Tướng Blanc chăm chú nhìn qua kính cửa sổ máy bay khung cảnh hùng vĩ của tập đoàn Việt Minh. Trước hết là cao điểm Gabrielle trên đồi Độc lập nhô lên ở phía trước toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Rồi đến đường băng hạ cánh được bảo vệ bởi những cứ điểm phòng ngự ở phía Tây, rồi đến ngôi sao ba cánh của cứ điểm Anne Marie, tiếp đó là dãy đồi có cứ điểm Claudine, phía trước là những vòng tròn đặt pháo màu đỏ quạch, từ trên cao nhìn xuống như những nốt mụn đậu mùa. Phía tả ngạn sông Nậm Rốm là một chuỗi dài các cứ điểm Béatrice, Dominique, Eliane đặt trên dãy đồi từ Him Lam đến C1, A1. Toàn bộ cây cỏ đã bị phát quang, hoàn toàn lộ hình là những đồi trọc. Cuối cùng là địa hình bằng phẳng của cứ điểm Isabelle đặt tại Hồng Cúm ở phía Nam, trên đầu đường băng xuôi về phía Nam.
        Máy bay bắt đầu lấy độ cao trước khi quay mũi hướng về phía Hà Nội:
        - Ngài nghĩ thế nào?
        Tướng Navarre cất tiếng hỏi Tổng tham mưu trưởng Blanc. Máy bay đang kêu ầm ỹ khi bốc cao.
        Tướng Blanc không nghe rõ, chỉ hất hàm tỏ vẻ muốn hỏi lại. Tướng Navarre gào to, nhấn mạnh từng câu:
        - Ngài nghĩ thế nào về cái vị trí phòng ngự này?
        Tướng Blanc mở to mắt, trề môi dưới, suy nghĩ trong giây lát để chọn một câu trả lời thật đích đáng đúng nhử đang suy nghĩ
        - Ồ! Quả là một trận địa Verdun (trận địa đã đập nát quân Đức trong chiến tranh thế giới thứ nhất). Đúng hệt như vậy?
        Tôi đảo mắt nhìn lại Điện Biên Phủ một lần cuối cùng. Đúng là một trận địa Điện Biên Phủ thực sự gây ấn tượng về sức mạnh. Ngay đến cả vành đai núi cao vây bọc chung quanh cũng như không thể nào đè bẹp được thung lũng. Dãy đồi có đặt các cứ điểm mang tên Dominique cách vị trí trung tâm 3000 mét về phía Đông. Muốn đánh chiếm dãy đồi A có đặt các cứ điểm mang tên Eliane, Việt Minh phải vượt qua một cánh đồng địa hình bằng phăng và tiến ngược từ phía dưới lên trên đỉnh cao.
        Tướng Blanc xuất thân từ một sĩ quan pháo binh đã quan sát kỹ những vị trí có thể đặt pháo Việt Minh, và thấy đó là những địa điểm có ưu thế.
        Ông đã gọi Piroth và Cogny ra một chỗ vắng, cùng bàn bạc với nhau trên tinh thần của những chuyên viên kỹ thuật. Trung tá Piroth với tư cách là chỉ huy trưởng các cụm pháo binh ở Điện Biên Phủ đã trình bày kế hoạch phản pháo địch kèm theo cả bản đồ, thước đo và com-pa. Đây là lần thứ mười Piroth trình bày bản kế hoạch của mình. Tất cả các vị trí mà Việt Minh có thể đặt pháo 105 đều đã được tính toán kỹ. Nói một cách cụ thể, để có thể bắn phá được các cứ điểm phòng ngự trong lòng thung lũng Việt Minh chỉ có thể bố trí pháo ở những sườn núi phía trong hoặc ở dưới cánh đồng.
        Như vậy là, chỉ cần bốn khẩu 155 mm đã bố trí sẵn tại các vị trí ngụy trang kỹ về phía Pháp có thể dễ dàng phản pháo.
        Lời trình bày quả là có tính thuyết phục. Hơn nữa lại còn có đội xe tăng của đại úy Hervouet đang nằm kín dưới hầm như những con ngựa thuần chủng sẵn sàng phi nước đại dẫn đầu các tiểu đoàn dù của Langlais phản kích Việt Minh.
        Đã hơn hai tháng nay, các binh sĩ trấn giữ Điện Biên Phủ với chiếc xẻng cầm tay đã đào hàng tấn đất để xây dựng chiến hào, căng hàng trăm kilômét dây kẽm gai, làm toàn những công việc lam lũ, bẩn thỉu đáng buồn chán thế mà bây giờ nếu Việt Minh không tiến đánh thì thật là những công trình lao động vô ích, làm phí cả những ưu thế là pháo binh, xe tăng, máy bay của Pháp. Mọi người chỉ mong đợi Việt Minh kéo đến và đến thật nhanh để mắc vào hàng rào kẽm gai, rơi vào mìn cạm bẫy và tan xác dưới hoả lực pháo binh? “Đến đây?” Đó là tiếng gọi của hơn một vạn binh sĩ phòng ngự, thốt ra liên tiếp bằng mười ngôn ngữ khác nhau của các dân tộc thuộc địa Pháp.
        Nhưng, cũng có một người nào đó đã nói riêng với tôi:
        - Này! Tại sao không có ai phát hiện là vị trí phòng ngự mà lại đặt trong thung lúng lòng chảo, có nghĩa là đã cầm chắc thất bại rồi hay sao? Đây là một việc mà người nào cũng biết, thời nào cũng có. Có một viên tướng Tàu từ bốn ngàn năm trước công nguyên đã viết: “Người khôn chiếm núi kẻ dại giữ thung”…
        - Vậy thì phải làm gì trong cái thung lũng lòng chảo này?
        - Ai phải làm gì? Chúng tôi à?
        - Tất nhiên không phải các anh. Các anh chỉ là những người phải phục tùng mệnh lệnh. Đây là tôi muốn nói đến tướng Navarre và Cogny. Các vị đó sẽ làm gì?
        Mãi mười năm sau, tức ngày 10 tháng 1 năm 1964, giữa thủ đô Paris lạnh lẽo, trong khi lục tìm những tập hồ sơ tài liệu về Điện Biên Phủ, tôi đã thống kê được tới hàng chục nhân vật tai to mặt lớn tới thăm trận địa phòng ngự này trong khoảng thời gian từ ngày 20 tháng 11 năm 1953 ngay sau khi quân ta bắt đầu chiếm đóng đến ngày 13 tháng 3 năm 1954 là khi Việt Minh bắt đầu mở chiến dịch tiến công, trong đó có các vị:
        - Dejean, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương.
        - Jacquet, Quốc vụ khanh phụ trách các nước liên kết.
        - Pleven, Bộ trưởng Quốc phòng.
        - Chevigné, Quốc vụ khanh phụ trách vấn đề chiến tranh.
        - Griotteray, Chánh văn phòng, trợ lý Bộ trưởng các nước liên kết.
        - Tướng Ely, Tổng thanh tra quân đội.
        - Tướng Blanc, Tổng tham mưu trưởng.
        - Đô đốc Auboyneau, Tư lệnh hải quân Viễn Đông.
        - Tướng Fay, Tham mưu trưởng không quân.
        Tướng Nguyễn Văn Hình, Tham mưu trưởng quân đội Bảo Đại.
        - Tướng Trapnell Trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ.
        - Tướng Spear, Tùy viên quân sự Anh tại Sài Gòn.
        - Tướng O Daniel, Tư lệnh các lực lượng lục quân Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương.
        - Ngài Stewart, cố vấn Bộ ngoại giao Anh..
        - Ngài Malcolm Mac Donald, Cao uỷ Anh ở Đông Nam Á.
        - Ngài Charles Loewen, Tư lệnh lực lượng Anh ở Viễn Đông.
        Nếu kể cả những tư lệnh các cấp cục trong guồng máy quân sự ở Đông Dương và các tướng lĩnh từ Pháp đến Điện Biên Phủ công tác thì có tới năm mươi vị tất cả, gồm đủ các cấp dân sự, quân sự, ngoại giao, chuyên viên Pháp, Việt, Mỹ, Anh.
        Tôi đã tận mắt nhìn thấy các vị len lỏi giữa các lớp rào kẽm gai, dùng gậy chọc xuống nắp hầm để đo độ dày. Tôi cũng được nghe các vị trao đổi ý kiến riêng với nhau, khi vắng mặt những quan chức thừa hành, bộc lộ tất cả những suy nghĩ từ đáy lòng mình. Tôi không thấy một lời chỉ trích nào.
        Lúc đó, tôi nghĩ rằng, chỉ có một người bi quan duy nhất là Tổng chỉ huy Navarre. Nếu tôi nghĩ nhầm, thì tại sao hồi đó không một ai trong số các nhân vật có thẩm quyền lên tiếng một cách công khai, rõ rệt? Riêng tôi, tôi vẫn có thể khẳng định là, không một ai trong số các bộ trưởng các nhà ngoại giao, các tướng lĩnh đã tới thăm Điện Biên Phủ, phát hiện được cái thế thua đã phơi bày sẵn vì chúng ta đóng quân trong một thung lũng lòng chảo.
        Ngày 26 tháng 1, khi trở lại Hà Nội chỉ còn một câu hỏi lấn bấn trong đầu các tướng chỉ huy và các sĩ quan tham mưu: Tại sao tướng Giáp từ chối tiến công? Ngay hôm sau, cơ quan tình báo quân sự Pháp xem lại các tin tức tài liệu thu lượm được trong những ngày gần đây, liệu người ta có bỏ quên một dấu hiệu, để lọt một phần lệnh trong hồ sơ nghe trộm điện thoại của Việt Minh? Để giải thích rõ sự việc chỉ còn cách đặt ra các giả thuyết.
        Đại úy Ferrandi trưởng cơ quan tình báo quân sự đặt tại Sài Gòn đã tìm thấy trong tập hồ sơ nghe trộm một bức điện của hậu cần Việt Minh chỉ thị cho căn cứ Tuần Giáo chuẩn bị những “khẩu phần đặc biệt” trong ngày 20 tháng 1. Thông thường, những tin tức loại này báo hiệu có cố vấn quân sự Trung Quốc tới. Người ta đặt giả thuyết là có thể chuyên gia Trung Quốc Liên xô đã kiến nghị hoãn tiến công. Nhưng vì những lý do gì? Thiếu lương thực, hay do các kế hoạch tiến công quá mạo hiểm?
        Tướng Navarre đã đọc hồ sơ này với một vẻ khá hoài nghi và không buồn chú ý đến câu chuyện đoán mò mà không ai có thể khẳng định. Ông, quay ra nói chuyện với các ông Dejean và Jacquet về Hội nghị Berlin mà sáng nay hãng AFP vừa đưa tin đã khai mạc buổi đầu tiên. Ngài Bộ trưởng bình luận:
        - Sẽ chẳng đi tới đâu cả. Ngoại trưởng Liên xô Molotov sẽ không nhượng bộ một chút nào trong vấn đề Berlin.
        Tướng Giáp có thể biết nhiều hơn Bộ trưởng Jacquet về những ý đồ của phe cộng sản và cả của Pháp trong Hội nghị Berlin. Theo nhà báo Jean Lacouture và nhà sử học Philippe Devillers thì:
        “Khi bước vào kinh đô cũ của Đế chế Đức, Bộ trưởng Ngoại giao Xô viết biết rằng cuộc họp Tứ cường này sẽ bàn cả về vẩn đề Đông Dương theo đề nghị của Pháp. Ông Molotov biết chắc chắn khi chìa cái sào cho Pháp bám lấy sẽ có nhiều may mắn mở rộng thành cuộc họp giữa năm cường quốc như Pháp mong muốn được tham dự”.
        Ván bài Berlin ảnh hưởng trực tiếp đến nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà.
        Nhưng Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles không muốn hội nghị này bàn đến các vấn đề Viễn Đông.
        Ông đến Berlin với tư thế so vai như một võ sĩ đấu quyền, quán quân về học thuyết “ngăn chặn”: không nhường một tấc đất nào, một người dân nào cho thế giới cộng sản. Khi cần thiết ông sẽ không từ chối đưa “các chàng trai nước Mỹ” tham chiến như đã làm ở Triều Tiên. Nhưng hiện nay, đúng là tướng Mỹ Eisenhower vừa được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ vì đã hứa hẹn sẽ rút lính Mỹ từ Triều Tiên về nước. Liên xô không tán thành “Triều Tiên hoá” cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
        Cuộc tiến công Séoul năm 1950 được coi như một sai lầm kép về chiến lược. Để chống lại lá cờ Liên hợp quốc, phe cộng sản giữ một vai trò không đáng kể và Mao Trạch Đông đã đưa quân Chí nguyện can thiệp vào tình hình bán đảo Triều Tiên.
        Hẳn là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp cũng nghĩ như người Nga. Họ không muốn quốc tế hoá cuộc chiến tranh Đông Dương. Mỹ đưa lính thủy đánh bộ vào Hải Phòng thì quân Trung Quốc có thể cũng sẽ kéo vào Việt Bắc và nền độc lập của Việt nam sẽ bị đe doạ trên hai mặt trận. Phải xử sự một cách khéo léo và tướng Giáp là người không thiếu sự tinh khôn. Tại Berlin, ba cường quốc phương Tây đang tham dự cuộc họp quốc tế. Đánh Điện Biên Phủ lúc này, liệu có khiêu khích họ không? Phải chăng nên chờ một cơ hội mở rộng thành hội nghị năm nước, trong đó Việt nam Dân chủ Cộng hoà sẽ cùng ngồi với Pháp chung quanh chiếc bàn tròn. Chờ đến cuộc họp này vẫn hơn.
        Giữa lệnh hoãn được truyền tới các đơn vị đã đứng ở vị trí xuất phát tiến công với buổi khai mạc Hội nghị Berlin, không phải chỉ có sự trùng hợp về thời điểm.
        Từ Berlin đến Geneve
        Trong thời gian Điện Biên Phủ bị lực lượng cơ động tác chiến Việt Minh vây chặt, đại tá Crèvecour, Tư lệnh chiến trường Lào lặng lẽ khôi phục lại hệ thống lá chắn bảo vệ Luang Prabang của bị đối phương phá hủy từ mùa xuân năm trước. Trong thung lũng lòng chảo bé nhỏ ở Mường Sài, công binh đã xây dựng xong một đường băng cất cánh và hạ cánh cho máy bay Dakota. Nhờ đó, năm tiểu đoàn từ đồng bằng đã được đưa tới Mường Sài vào tháng 11. Vaudrey được cử làm Tư lệnh binh đoàn cơ động Mường Khoa. Hành động đầu tiên của ông là bắt liên lạc với Langlais tại Sốp Nạo vào dịp trước lễ Noel. Sau đó, ông đặt sở chỉ huy tại Mường Khoa và liên tục cho các tiểu đoàn hoạt động lùng sục trong vùng. Những kết quả nhỏ bé thu được đã được cán bộ Việt Minh liên tỉnh Phông Salỳ theo dõi. Trong bức điện nghe trộm được của Việt Minh có đoạn viết: “Hàng ngày giặc Pháp đều phát hiện và phá hủy được một số kho lương thực dọc theo sông Nậm Rốm tới Luang Prabang”.
        Việc hoãn tiến công Điện Biên Phủ tạo điều kiện cho Việt Minh rảnh tay hoạt động hỗ trợ Pathet Lào. Sư đoàn 308 đã quen thuộc đường lối có thể quét sạch Thượng Lào. Những khó khăn về vận chuyển lương thực buộc sư đoàn này phải dừng lại trước cửa ngõ Luang Prabang. Tuy nhiên, mục tiêu của đơn vị này hình như chỉ đơn giản là giành lại những tấm thảm rừng rú là nơi gieo hạt mầm chính trị của Pathet Lào.
        Ngày 26 tháng 1, tướng Giáp hạ lệnh tiến quân. Ngay trong buổi tối 27 sư đoàn thép lập tức rời vị trí đóng quân ở sát Điện Biên Phủ, thọc sang Lào trên những đường hẻm mà chính các đơn vị dù của Langlais đã hành quân trong dịp lễ Noel. Chỉ bốn mươi tám giờ sau, đơn vị đi đầu của sư đoàn 308 đã tới đông-nam Mường Khoan đẩy lùi các tiền đồn của Pháp. Bản thông báo tình hình từ 26 tháng 1 đến 10 tháng 2 của Pháp gửi về Tổng hành dinh ghi nhận: “Trong vòng sáu ngày sư đoàn 308 đã hủy diệt hệ thông bảo vệ an ninh cho Thượng Lào mà quân ta phải mất năm tháng mới xây dựng được”.
        Vaudrey không còn vị trí nào để giữ nữa.
        Không chậm một giây không ngừng, không nghỉ, Tư lệnh binh đoàn vội vã rút về Mường Sài theo những con đường hem vượt qua những đinh núi cao và phải mất ba mươi tám giờ chạy bộ mới tới nơi.
        Trong khi rút chạy, Vaudrey đã bố trí ở phía sau một lực lượng hậu bị gồm một tiểu đoàn xung kích Lào số 2 nhằm ngăn chặn Việt Minh đuổi theo.
        Cả hai đơn vị này đều bị một số thiệt hại. Tuy nhiên ngày 5 tháng 2 khi sư đoàn 308 tới gần Mường Sài và có thể nhìn thấy cứ điểm bằng mắt thường, các tiểu đoàn của Vaudrey cũng đã được bố trí sẵn sàng trong các chiến hào trên các điểm cao vây quanh sân bay. Không thể đánh chiếm Mường Sài theo kiểu tiến công ồ ạt, Việt Minh chuyển sang bao vây. Sơn pháo 75 và súng cối được đặt trên các mỏm núi, lương thực được chuyển vận trên lưng dân công tới các vị trí đóng quân. Trong khi đó Mường Sài cũng đã trở thành một Điện Biên Phủ nhỏ bé, một cứ điểm phòng ngủ không nổi tiếng, không có phóng viên báo chí tới thăm, không có trọng pháo và hệ thống hoả lực chống trả, chung quanh là các tiểu đoàn thuộc sư đoàn 308 dang tập trung vây hãm trước khi xung phong đánh chiếm.
        Chú thích:
        (1) Tác giả Jean Pouget hoàn toàn suy diễn. Những tài liệu của ta không xác nhận việc này - ND
        (2) Như mọi người đều biết: ta chuyển phương châm tốc chiến công phải vì Hội nghị Berlin - ND
        (3) Jean Puget viết sai, Hồi đó chưa có chế độ quân hàm. Quân đội ta chưa có cấp hiệu - ND
        (4) Nguyên văn tiếng Pháp là Mạc Linh. Có lẽ do Nguyễn Văn Sung nói ngọng, nên trong toàn bộ cuốn sách Jean Pouget đều viết tên chính uỷ Mạc Ninh là Mạc Linh. Người dịch sửa lại đã bạn đọc tiện theo dõi chính xác - ND.
        (5) Jean Pouget viết sai. Thời gian tấn công không bao giờ báo trước cho cấp chiến sĩ biết trước hai mươi bốn giờ, mà thường chỉ phổ biến tới cấp tiểu đoàn- ND

<< Chương 5 | Chương 7 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 941

Return to top