Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy rất sớm. Chúng tôi xem lại để biết chắc rằng Bố đang ngủ say.
Chúng tôi chuẩn bị bốn tấm ván.
Chúng tôi đào kho báu của Bà Ngoại lên: những thỏi vàng và bạc, rất nhiều món châu ngọc. Chúng tôi đặt hầu hết những thứ ấy vào một túi vải. Mỗi đứa chúng tôi cũng mang theo một quả lựu đạn, phòng trường hợp bất ngờ gặp phải bọn lính tuần tiễu. Dẹp được bọn lính tuần tiễu, chúng tôi có nhiều thì giờ hơn.
Chúng tôi đi do thám một vòng gần biên giới để xác định vị trí tốt nhất: một góc khuất giữa hai chòi canh. Nơi đó, dưới một gốc cây to, chúng tôi giấu cái túi vải và hai tấm ván.
Chúng tôi trở về, chúng tôi ăn uống. Sau đó, chúng tôi mang thức ăn điểm tâm đến cho Bố. Chúng tôi phải lay ông để đánh thức ông. Ông dụi mắt và nói:
— Đã lâu rồi bố mới được ngủ ngon như thế.
Chúng tôi đặt khay thức ăn lên hai đầu gối của ông. Ông nói:
— Thật là một bữa tiệc! Sữa, cà-phê, trứng, dăm-bông, bơ, mứt! Những thứ này không thể tìm thấy ở Phố Lớn. Làm cách nào các con có được?
— Chúng con làm việc. Ăn đi, Bố. Chúng con không có thì giờ để mời bố ăn một bữa nữa trước khi bố lên đường.
Ông hỏi:
— Tối nay đi hả?
Chúng tôi nói:
— Đi ngay bây giờ. Bố ăn xong thì đi ngay.
Ông nói:
— Các con điên rồi hả? Bố từ chối vượt qua cái biên giới chó đẻ đó vào giữa ban ngày! Bọn chúng sẽ thấy.
Chúng tôi nói:
— Chúng ta cũng cần phải thấy đường, Bố ạ. Chỉ có những người ngu mới cố vượt biên giới vào ban đêm. Ban đêm, mật độ tuần tiễu tăng gấp bốn lần và cả khu vực đó thường xuyên bị quét đèn pha. Ngược lại, sự canh gác trở nên lỏng lẻo vào khoảng mười một giờ sáng. Bọn lính biên phòng nghĩ rằng chẳng có ai điên mà vượt biên giới vào giờ đó.
Bố nói:
— Các con tuyệt đối hữu lý. Bố trông cậy vào các con.
Chúng tôi hỏi:
— Bố cho phép chúng con lục soát các túi quần túi áo của bố trong lúc bố ăn chứ?
— Các túi của bố? Tại sao?
— Bố không được để lộ danh tính. Nếu có điều gì xảy ra và bọn chúng biết bố là bố của chúng con, thì chúng con sẽ bị kết tội tòng phạm.
Bố nói:
— Các con nghĩ đủ hết mọi chuyện.
Chúng tôi nói:
— Chúng con phải nghĩ đến sự an toàn cho bản thân.
Chúng tôi lục soát quần áo của bố. Chúng tôi lấy những thứ giấy tờ, thẻ căn cước của Bố, sổ địa chỉ, một chiếc vé xe lửa, mấy cái biên lai và một tấm ảnh của Mẹ. Chúng tôi đốt tất cả trong lò bếp, trừ tấm ảnh.
Lúc mười một giờ, chúng tôi lên đường. Mỗi đứa chúng tôi mang một tấm ván.
Bố không mang gì cả. Chúng tôi bảo ông chỉ đi theo chúng tôi và gây ít tiếng động chừng nào tốt chừng ấy.
Chúng tôi đến gần biên giới. Chúng tôi bảo Bố nằm xuống sau một cây to và đừng nhúc nhích.
Chẳng mấy chốc, cách chúng tôi vài mét, có hai tên lính tuần tiễu đi ngang qua. Chúng tôi có thể nghe bọn chúng nói:
— Tao tự hỏi sẽ được ăn món gì.
— Thì cũng thứ cứt ấy như thường lệ.
— Hết thứ cứt này đến thứ cứt khác. Hôm qua, đồ ăn rất ghê tởm, nhưng đôi khi cũng có bữa ngon.
— Ngon? Mày sẽ không nói như vậy nếu mày đã ăn món xúp mẹ tao nấu.
— Tao chưa bao giờ ăn món xúp mẹ mày nấu. Mẹ hả, tao, tao cũng chẳng có mẹ. Tao chưa bao giờ được ăn gì ngoài cứt đái. Trong quân đội, ít ra, tao cũng có lúc được ăn ngon.
Bọn tuần tiễu đi xa. Chúng tôi nói:
— Đi, Bố. Chúng ta có hai mươi phút trước khi đám lính tuần tiễu khác lại đến.
Bố kẹp hai tấm ván dưới nách, bước tới, đặt một tấm ván dựa vào hàng rào, trèo lên.
Chúng tôi nằm úp mặt dưới gốc cây to, chúng tôi bịt hai tai, chúng tôi hả miệng.
Có một tiếng nổ.
Chúng tôi chạy đến hàng rào kẽm gai với hai tấm ván và cái túi vải.
Bố nằm gần hàng rào thứ nhì.
Đúng, có một cách để vượt qua biên giới: đó là cho một người nào đó đi trước.
Nhặt cái túi vải, bước theo dấu chân, rồi dậm lên cái xác cứng đờ của Bố, một đứa chúng tôi đi vào đất nước khác.
Đứa ở lại trở về nhà Bà Ngoại.
HẾT