Trên đây là lý do làm cuộc đảo chánh được các Tướng lãnh công bố, sau khi tổ chức thành công cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Xin được nhắc lại, ngày 11.11.1963 Tướng Tôn Thất Đính gọi tôi vào trình diện ông tại Tổng Bộ An Ninh. Tại văn phòng Tổng Trưởng, ông đã chỉ cho tôi một đống giấy tờ để đầy dưới sàn nhà trước bàn giấy của ông, và nói đó là tài liệu các ông (Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu) liên lạc với Bắc Việt. Vì các ông mưu tính Trung Lập hóa miền Nam, nên anh em Tướng lãnh phải tổ chức đảo chánh các ông.
Một số người không hiểu biết gì hơn ngoài lời buộc tội của các Tướng đảo chánh, cũng đã vội vã kết tội việc liên lạc với Bắc Việt của ông Ngô Đình Nhu là hành động "đâm sau lưng chiến sĩ".
Và cho đến ngày nay, nhiều người vẫn còn thắc mắc, tin nói ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã gặp đại diện Bắc Việt có thật hay không?
Những người hiểu biết ít nhiều về tình hình Việt Nam trong những năm 1962-1963 đều thắc mắc, không hiểu tại sao các Tướng đảo chánh lại có thể đưa ra một lời buộc tội Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu một cách thiếu suy nghĩ như vậy. Vì chuyện ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu gặp một số cán bộ cao cấp của Hà Nội, không những ông đã nói với các Tướng lãnh trong một buổi họp hàng tuần tại Bộ Tổng Tham Mưu, (theo Đại Úy Nguyễn Ngọc Hạp, Sĩ Quan Tùy Viên của ông Cố Vấn Nhu) ông còn công khai nói tại các khóa huấn luyện Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược. Xin trích lược một vào đoạn sau đây.
Trong lễ bế giảng khóa XII/3 Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược tại suối Lồ Ô ngày 22. 6. 1963, Ban Phụ Trách khóa học đã yêu cầu ông Ngô Đình Nhu: Xin ông Cố Vấn giúp cho anh em khóa sinh có đủ lý lẽ, lập luận, hầu có thể giải thích cho dân chúng về một dư luận nói rằng: "Việt Nam chỉ là con chốt trên bàn cờ quốc tế. Thế giới tự do và Cộng Sản tuy chống đối nhau về ý thức hệ, nhưng họ có thể đi đến hòa giải với nhau khi đã tạo được thế quân bình. Do đó có người cho rằng, cố gắng của Việt Nam, cộng với sự trợ giúp của các bạn Mỹ, chỉ là để tăng thêm áp lực trên khối Cộng Sản. Nhưng khi đã tạo được thế quân bình, họ có thể hòa giải với nhau. Vì thế, ngày chiến thắng và con đường thoát ly của chúng ta còn xa".
Họ đã được ông Ngô Đình Nhu trả lời:
"Câu hỏi được anh em đặt ra cũng chính là câu hỏi mà cán bộ cao cấp Cộng Sản trong mật khu đã đặt ra với tôi dưới một hình thức khác. Họ hỏi tôi: Ngày mai của Việt Nam chúng ta sẽ ra thế nào?"
Chúng ta là một nước bé nhỏ đứng giữa hai khối, chúng ta là thụ động. Nếu bên thế giới tự do tăng cường viện trợ cho ta, thì thế giới Cộng Sản cũng sẽ tăng cường viện trợ cho phía họ, hai bên cứ tăng cường như vậy sẽ đưa cái mức chiến tranh càng ngày càng lên cao, và số phận chúng ta rồi mai đây sẽ ra sao?
Quốc Sách Ấp Chiến Lược được hình thành và đang được áp dụng biến một số lực lượng của chúng ta qua thế du kích. Chúng ta cũng đang học tập để soát xét lại vấn đề ngoại viện, chính là nhằm để hạ cái mức độ chiến tranh xuống.
Tôi xin nhắc lại: Cả chính sách, cả đường lối của chúng ta là đưa ra một "binh thư binh pháp mới". Binh thư binh pháp đó là mình buộc địch phải đánh trong điều kiện chiến tranh của mình. Tức là không để cho cường độ chiến tranh tăng lên vì ngoại viện, theo mức độ viện trợ từ bên ngoài.
Về vấn đề Trung Lập, trong thông điệp đọc trước Quốc Hội ngày 1. 10. 1962, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khẳng định:
"Chúng ta đã cương quyết bác bỏ mọi đề nghị trung lập hóa Việt Nam do Cộng Sản trực tiếp hay gián tiếp chủ mưu".
Với ông Ngô Đình Nhu, cuối năm đó, đúng vào thời kỳ vừa xảy ra các biến cố tại Algeria, Cuba, Pháp và đặc biệt là vụ Ấn Độ bị Trung cộng tấn công, khóa VI Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược được khai giảng. Đến dự lễ khai giảng ông Ngô Đình Nhu, trong bài hiểu thị, sau khi phân tách những yếu tố (Cảm Tình-Triết Lý-Chính Trị) đã được một số Quốc Gia dựa vào đó mà thực hiện Trung Lập Chế cho đất nước họ. Ông đã đặc biệt nói về chế độ Trung Lập như sau:
"Ngày nay, biến cố ở Ấn giúp chúng ta càng thấy rõ ràng hơn nữa là, đối với Cộng Sản không thể có Trung Lập được tại sao?
Tại vì người Cộng Sản tin tưởng rằng, họ đã đạt được chân lý tuyệt đối về chính trị, mà chỉ có họ thôi, đã đạt được chân lý đó và họ có nhiệm vụ phải phát huy chân lý đó ra bằng mọi cách, nhất là bằng bạo lực. Tôi muốn nói qua về chế độ trung lập nhân dịp Trung cộng xâm lược Ấn Độ để cho anh em nhận định lại về thuyết trung lập và việc thực hành trung lập. Đó là điểm chúng ta cần học tập trong khóa VI này để cùng hiểu rằng tại sao chúng ta không theo thuyết trung lập. Không phải vì chúng ta ngoan cố, mà vì xét theo 3 phương diện đó (Cảm Tình-Triết Lý-Chính Trị) và xét về thực tại của đời sống trong thế giới hiện nay, không có thể gì mà trung lập được, nhất là đối với Cộng Sản, không có thể trung lập, vì chẳng những họ không trung lập mà chỉ chủ trương trung lập để làm suy yếu các quốc gia khác để dễ bề thôn tính".
Và trong lễ bế giảng khóa XII/3 Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược vừa nói trên, ngày 22. 6. 1963 ông đã nói về việc gặp một số cán bộ cao cấp Việt Cộng và nói thêm về thuyết trung lập như sau:
"Một số cán bộ cao cấp hiện còn đang ở trong hàng ngũ Việt Cộng, đang sống trong mật khu, khi gặp tôi họ đã hỏi: "Ngày mai của Việt Nam chúng ta sẽ ra thế nào?" Chúng tôi đã trả lời họ rằng, chúng ta sẽ không theo khối Cộng Sản, cũng không theo khối tư bản.
Họ nhìn nhận Quốc Sách Ấp Chiến Lược là một chính sách đúng. Họ phục đường lồi của Chính Sách Ấp Chiến Lược là chủ trương xây dựng từ hạ tầng rồi lần lần chuyển biến lên thượng tầng. Nhưng rồi họ lại thắc mắc:
Như vậy thì triển vọng ngày mai của chúng ta, ý nghĩa của chúng ta trong lãnh vực quốc tế sẽ thế nào? Và nếu họ chuyển ra ngoài này với chúng ta rồi thì sẽ cùng nhau đi về đâu?
Vì những người đã gặp tôi đều là những cán bộ cao cấp, người thì đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu tại Điện Biên Phủ, người thì đã từng đi học ở Prague, ở Moscow, ở một số các nước Cộng Sản khác. Họ là những người có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về chế độ Cộng Sản, nên tôi hỏi họ: Anh em nghĩ thế nào về trung lập chế? Họ trả lời:
"Trung lập chế chúng tôi đã nghĩ tất (cả), chúng tôi thấy đó chỉ là chiêu bài Cộng Sản đưa ra để nuốt sống các nước nhẹ dạ, các nước nhu nhược".
Còn về câu hỏi họ hỏi "Ngày mai của Việt Nam chúng ta sẽ ra thế nào?" Câu hỏi này cho ta thấy mối ưu tư của họ, và cũng chính là mối ưu tư của chúng ta đối với ngày mai của nước Việt Nam. Tôi đã nói với họ:
Ngày mai của nước Việt Nam là do tất cả thanh niên trong cả nước tự đứng lên làm, chứ không phải do những lực lượng hiện nay. Các lực lượng chúng ta thấy bây giờ, dù ở bên Cộng Sản hay ở bên chống cộng, đều đã đi về già, là những lực lượng lạc hậu, chỉ có sức mạnh về hình thức thôi, chứ nội dung không có gì. Cho nên ngày mai của nước Việt Nam sẽ do các thế hệ thanh niên và những người có tâm hồn thanh niên tạo dựng".
Chính từ ý niệm này mà ông Ngô Đình Nhu đã thành lập Đoàn Thanh Niên, Thanh Nữ Cộng Hòa.
Hơn nữa, tiến trình đi đến những cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và một số cán bộ cao cấp của Cộng Sản như vừa được trích lược trên đây là do yêu cầu của Hà Nội, không phải do Sài Gòn đề xuất.
Tôi được Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận kể lại, hồi đầu thập niên 90, trong một dịp đến Bỉ ngài đã đến thăm một vị công cán ủy viên của Nhà Vua (xin được tạm dấu tên vị này) một người trước kia rất thân thiết với Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi ông lưu trú tại nước này, trong thời kỳ bôn ba hải ngoại. Sau khi mời khách ngồi, vị công cán ủy viên hỏi:
- Ngài có biết trước đây ai đã ngồi trên ghế ấy không?
- Thưa, chắc là Tổng Thống Diệm.
- Không phải. Đó là ghế mà cán bộ Cộng Sản Hà Nội đã ngồi để bàn tính chuyện liên lạc với Nam Việt Nam đấy.
Rõ ràng hơn nữa, vào hạ tuần tháng 9. 1963, ký giả Joseph Alsop viết một bài đăng trên hai tờ báo New York Herald Tribune tại Mỹ và Le Figaro tại Pháp, tường thuật lại hai cuộc diện kiến giữa ông với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu.
Về cuộc diện kiến Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ký giả Alsop ghi lại:
". . . Tổng Thống Diệm tiết lộ cho tôi biết, ông Jacques de Buzon, Tổng Lãnh Sự Pháp tại Hà Nội đã xin phép Tổng Thống được vào Sài Gòn để thay đổi không khí đôi chút. Tôi tự hỏi, ông Diệm nói với tôi, liệu ông ta có thể đến Sài Gòn được không, một chuyến đi mà những người Cộng Sản luôn chống đối. Nhưng một điều rất lạ là, lần này họ đã để cho ông ta đi. Khi Đại Sứ Lalouette dẫn ông ta đến gặp tôi, tôi thấy ông này đã không nói với tôi chuyện gì quan trọng, ngoại trừ chuyện ông Hồ chí Minh hiện nay nói về tôi bằng một giọng điệu khác hẳn trước kia. Ông ta không còn gọi tôi là tên phản động, là con rối trong tay người Mỹ, ông de Buzon quả quyết, ngày nay ông ta gọi tôi là ‘ông Diệm tử tế, ông Diệm là người Việt Nam tốt, chung quy là một người yêu nước’. Phải nói rằng tôi hết sức ngạc nhiên khi được biết điều này".
Tiếp theo là cuộc diện kiến ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu được ký giả Alsop kể lại:
"Sau lời tuyên bố của Tướng de Gaulle (đề nghị Trung lập hóa Đông Dương), Đại Sứ Pháp đã đến thăm xã giao Tổng Thống Diệm, sau đó ông đã gặp ông Cố Vấn Nhu lâu hơn, yêu cầu ông đừng bỏ qua thời cơ do tuyên bố của Tướng de Gaulle đưa lại. . . Sau đó, do yêu cầu của Đại Sứ Lalouette, Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến, Tiến Sĩ Maneli, đã đến gặp ông Cố Vấn của Tổng Thống Diệm. Ông này không chỉ đưa ra những vấn đề và những lý lẽ như Đại Sứ Lalouette, mà còn chuyển đạt một thông điệp do đích thân thủ tướng Bắc Việt Nam, ông Phạm văn Đồng gửi".
Ông Nhu cho biết: Thông điệp yêu cầu tôi mở thương nghị trên căn bản đề nghị ngưng bắn của ông Hồ chí Minh (sự viện trợ từ bên ngoài phải được chấm dứt). Đó là một đề nghị hấp dẫn, nhưng tôi đành phải trả lời ông bạn Ba Lan rằng, tôi không thể mở thương nghị sau lưng người Mỹ được. Điều đó không thể đặt thành vấn đề.
Dẫu sao, ông Nhu tiếp, chúng tôi cũng đã có được một cuộc đối thoại hữu ích. Với tư cách người Cộng Sản, ông ta nhìn nhận tôi là một lý thuyết gia thực sự về du kích chiến trong thế giới không Cộng Sản. Và cho tôi biết, ông ta chờ đợi ở tôi một câu trả lời khác với câu tôi đã nói với ông ta. Ngay khi có được câu trả lời đó, ông ta sẽ gặp lại tôi và lấy máy bay đi Hà Nội ngay.
Sau đó ký giả Alsop viết:
Việc tiết lộ những sự giao dịch này đưa đến kết quả là cả hai phía cùng sẽ cực lực cải chính. Nhưng tôi đã kể lại một cách rất chính xác những điều đã được hai người trong cuộc: Tổng Thống Diệm và em ông, tự thuật. (Les Relations Americano-Vietnamiennes. Tome I. Trang 130)
Sự kiện cán bộ Cộng Sản gặp vị công cán ủy viên Bỉ, chính là đầu mối đưa đến những sự kiện vừa được lược thuật trên đây? Những sự kiện mà một số trong đó, ông Ngô Đình Nhu đã công khai nói với Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược và đã cho các Tướng lãnh biết. Vậy tại sao họ lại cố tình như không biết để đưa ra lời kết tội Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu mưu tính trung lập hóa miền Nam? Để làm gì?
Thắc mắc trên đây được tác giả cuốn The Year Of The Hare, in tạp dịch: Năm Con Thỏ Rừng, (Năm con mèo 1963) ông Francis X. Winters, Giáo Sư môn Đạo Đức và Các vấn đề quốc tế tại Trường Đại Học Georgetow, Washington D. C, thành viên Viện Quốc Tế Về Chiến Lược Học, (Internatinal Institute for Strategic Studies) trụ sở tại Luân Đôn Anh Quốc, giải đáp:
Ngay khi được tin ông Diệm đã chịu đầu hàng các Tướng đảo chánh, Ngoại Trưởng Dean Rusk gửi ngay một điện văn dài nồng nhiệt chúc mừng ông Lodge và hối thúc ông này công bố việc ông Diệm đã tham gia bàn chuyện trung lập với ông Hồ chí Minh. (The Year Of The Hare. Trang 106)
Dĩ nhiên, ông Lodge làm sao nói được với dân Việt Nam, nên ông đã chuyển lệnh "cấp trên" cho nhóm Tướng đảo chánh. Nhận được "lệnh trên" các ông Tướng này lập tức thi hành, vội vàng tuyên bố lý do làm đảo chánh là vì:
"Các ông Tổng Thống Diệm và ông Nhu liên lạc với Bắc Việt mưu toan trung lập hóa miền Nam".
Mặc dù họ đã biết rõ lập trường đối với vấn đề trung lập của anh em ông Diệm từng được Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu khẳng định như vừa được trích thuật ở trên.
Điều mỉa mai là, sau khi nhóm đảo chánh nắm quyền, họ tưởng rằng, họ đã thiết lập được một chế độ vững chắc và có tính cách đại diện cho một miền Nam hơn, họ có thể trở thành một đối lực với mặt trận giải phóng và chính phủ Hà Nội. Và khi ấy họ sẽ nhờ vào sự hợp tác tích cực của nước Pháp để thực hiện việc trung lập hóa Việt Nam. Khi kế hoạch này tiết lộ đến tai người Mỹ và Hà Nội thì phản ứng của hai phía đều là: Không thỏa hiệp, không trung lập, chiến đấu đến cùng. Tại Hà Nội, thành phần chủ chiến, vì đã nắm được con bài tẩy, họ đều ngã về giải pháp tiếp tục cuộc chiến không do dự, không hạn chế, không thỏa hiệp. . . Họ nói rõ:
"Tính cách đại diện của chế độ miền Nam hiện nay còn thua thời ông Diệm, vì không có người nào trong chính phủ có được một chút kính trọng nào của dân chúng" (The War of the Vanquished. Trang 163)
Việc ông Rusk hối thúc ông Lodge công khai tiết lộ việc liên lạc với Bắc Việt của Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu kèm theo chiến dịch "bôi bẩn" hai ông bắt nguồn từ những sai lầm vô cùng nghiêm trọng ông Rusk và nhóm của ông đã phạm phải.
Là những người làm ra chính sách Việt Nam của chính phủ Kennedy mà họ không có chút hiểu biết nào về Dân Tộc và Đất Nước Việt Nam. Họ không tìm hiểu lịch sử, văn hóa, chính trị, tánh tình và thói quen của người dân và các nhà lãnh đạo bản xứ. Quá ỷ vào sức mạnh cơ giới và kỹ thuật tân kỳ, không đếm xỉa gì đến sức mạnh của tinh thần dân tộc, động cơ thúc đẩy người dân Việt Nam sẵn sàng hy sinh chống lại mọi hình thức ngoại xâm. Và vì chỉ biết nhìn mọi người theo lối nhìn của mình, nên ông Rusk và nhóm của ông đã nhìn Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu như là những trở ngại cần phải loại trừ, để chiến thắng Cộng Sản tại Việt Nam theo sự điều khiển của các ông.
Sau khi đã loại trừ được hai ông Diệm và Nhu, cần phải có lý do để chính đáng hóa hành động sát nhân, xóa mờ tinh thần "tự lực tự cường" mà hai ông đang cổ võ và xây dựng. Đồng thời khích động tinh thần quyết chiến của quân dân miền Nam, và nói lên quyết tâm của Hoa Kỳ hỗ trợ họ đánh Cộng Sản cho đến toàn thắng. Kế hoạch này tạo ra cho quân dân miền Nam tâm lý trông chờ và tất nhiên, sẽ rất vui mừng đón nhận sự tiếp sức của những người bạn đồng minh đến để giúp mình giải phóng đất nước khỏi ách Cộng Sản bạo tàn.
Điều đáng tiếc là, có lẽ khi ấy quân dân cả hai miền Nam Bắc Việt Nam không ai nghĩ ra rằng, khi người ta, khối tư bản cũng như khối Cộng Sản, đưa nhân lực, tiền của, súng đạn, phương tiện đến tiếp sức cho mình để "giải phóng đất nước", thì cũng chính là lúc mình bị người ta đẩy vào một cuộc "Chiến Tranh Của Những Kẻ Chiến Bại"(War of the Vanquished) vì quyền lợi và sự tranh giành ưu thế chiến lược của họ.
(War of the Vanquished. Tựa đề cuốn sách nói về bản chất cuộc chiến tranh Việt Nam ông Mieczyslaw Maneli, Trưởng Đoàn Ba Lan trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam theo Hiệp định Geneva).