"...Tôi nhất định ở lại làm việc. Sống thì sống , chết thì chết. Không đi mô hết".
DUYÊN TRI NGỘ
Hạ bán năm 1950, một nguồn tin được lan truyền trong giới thanh niên Hà Nội: Tại miền Trung, Thủ Hiến Phan Văn Giáo đã tranh đấu dành được nhiều quyền độc lập rộng rãi. Trong cuộc sống thường ngày, người Pháp chỉ được hoạt động trong khu vực dành cho họ. Lính Tây muốn qua bên thành nhà Vua phải có giấy phép v.v…Hơn một trăm thanh niên, trong đó có tôi, theo sự hướng dẫn của ông Nguyễn Văn Tố, Giám Đốc võ đường Vovi-nam ở đường Hàng Bông, tình nguyện vào học trường võ bị của lực lượng võ trang do Thủ Hiến Giáo thành lập: Lực Lượng Việt Binh Đoàn tại Huế. Cuối năm 1951 ra trường, tất cả khóa học của chúng tôi được chuyển qua Quân Đội Quốc Gia (QĐQG) mới thành lập, và được phân phối cho cả ba quân khu (QK - miền Nam, QKII -miền Trung, QKIII - miền Bắc). Tôi được phân phối về QKII và thuyên chuyển về Tiểu đoàn 7, một trong hai Tiểu đoàn QĐQG đầu tiên tại miền Trung thời bấy giờ.
Sau mấy tháng đi hành quân lưu động, Tiểu đoàn 7 được điều ra đóng bảo vệ an ninh lãnh thổ hai quận Gio Linh và Vĩnh Linh, thuộc vùng cực Bắc tỉnh Quảng Trị. Trung Đội của tôi, Trung Đội 3 thuộc Đại Đội 3, đóng tại đồn Cửa Tùng (cửa sông Bến Hải) thuộc quận Vĩnh Linh. Thời buổi chiến chinh lính tránh trấn đồn mà được đóng ở chỗ này kể là thuộc loại số đỏ. Đồn đóng ngay tại khu nhà Thừa Lương (nhà nghỉ mát) của cựu Hoàng Bảo Đại, phía Đông là biển, phía Nam là sông, hai phía Tây và Bắc, năm đồn Hương bảo vệ quanh, nên vấn đề an ninh của đồn tương đối an toàn.
Tháng 5 năm 1953, tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy Đại Đội thay thế Trung Úy Lê Hoàng Thao, một sĩ quan người Miền Nam được thuyên chuyển về nguyên quán. Bộ Chỉ Huy Đại Đội đóng trên đồi Tân Trại, các bờ biển Cửa Tùng chừng 4 cây số, cách quốc lộ số 1, đoạn Quảng Trị Đồng Hới cũng khoảng 4 cây số.
Vùng trách nhiệm của Đại Đội trải dọc hai bên bờ sông Bến Hải, từ bờ biển Cửa Tùng đến vùng thượng nguồn Mỹ Tá dưới chân dãy Trường Sơn. Quân số của Đại Đội trấn đóng bốn đồn: Cửa Tùng, Tân Trại, Xuân Hòa và Mỹ Tá. Mười một đồn Hương Vệ với quân số đồn ít nhất trên 20, đồn nhiều nhất trên 40, và hai pháo đài Phụ lực quân (partisan), mỗi pháo đài 6 người.
Một điều lạ đối với tôi, không hiểu tại sao lực lượng võ trang Việt Cộng trong khu vực này cứ theo đuổi đánh tôi hoài?
Khi tôi coi đồn Cửa Tùng, đã có lần họ tập trung lực lượng đông gấp 10 lần hơn, quyết san bằng đồn tôi. Nhưng nhờ được dân chúng mật báo cho biết trước, nên kế hoạch hành quân của họ đã bị hóa giải một cách nhẹ nhàng bằng mấy lọat trọng pháo của Tiểu Đoàn yểm trợ, bắn trúng vào điểm tập trung quân cuả họ.
Thời gian tôi chỉ huy Đại Đội, cuối tháng 12-1953, họ tung một cuộc tấn công thật ác liệt vào đồn Hương Vệ An Do Tây và đồn Hương Vệ Lưu động đóng sát cạnh, giữa đoạn đường từ đồi Tân Trại đến Cửa Tùng. Có lúc họ đã chiếm được một trong ba pháo đài của đồn lưu động.
Đến cuối tháng 1-1954, họ lại thực hiện một cuộc bao vây đồn Hương vệ Phan Xá, phía Tây cầu Bến Hải, buộc tôi phải đương đầu trong một tư thế hết sức nguy hiểm. Vì muốn giải vây cho đồn này tôi phải hành quân vượt sông.
Nhưng nhờ tinh thần quyết chiến của anh em binh sĩ trong Đại Đội và lòng can đảm phi thường của anh em Hương Vệ, các mưu tính của họ đều được giải tỏa với phần thua thiệt về phía họ.
Cuối tháng 3 năm 1954 tôi bị đau, được đưa vào điều trị ở Quân Y Viện Huế. Sau khi xuất viện, thời gian được nghỉ dưỡng bệnh, vợ chồng tôi đến ngụ ở phía sau nhà thờ Phú Cam, trong một căn phòng nhỏ, mướn của Đại Úy Nguyễn Văn Tú có biệt danh là Tú Kèn, vì ông này chỉ huy Ban Quân Nhạc Quân Khu II.
Chúng tôi mới ở đây được mươi ngày thì một buổi chiều, Đức Giám Mục Giáo phận Huế, tên Việt của Ngài là Thi, tên Pháp là Urrutia , đến thăm. Sau mấy phút hỏi thăm về tình trạng sức khoẻ của tôi , Đức Cha ban phép lành cho vợ tôi khi ấy đang mang thai cháu đầu lòng, rồi ngài kéo tay tôi nói: “ Đi với Cha”.
Đức Cha Thi biết tôi vì dịp ngài ra thăm mấy họ đạo vùng Cửa Tùng, đã đến nghỉ đêm ở đồn tôi mấy tối.
Từ nhà Đại Úy Tú đến tòa Giám Mục khoảng hơn 500 thước, hai cha con đi bộ, trên đường đi tôi hỏi ngài:
- Sao Đức Cha biết mà đến thăm con ở đây?
- Không những Cha biết con ở đây mà còn biết con mới ở bệnh viện ra nữa. Rồi Ngài hỏi tôi về tình hình vùngCửa Tùng, đặc biệt là từ khi xẩy ra hai trận đánh tại đồn An Do Tây và Phan Xá.
Đến Tòa Giám Mục, Đức Cha dẫn tôi qua thăm cố Cả, tên Pháp là Cadière, một linh mục thuộc dòng Thừa sai Paris và là một học giả, giới trí thức thời ấy không mấy ai không biết tiếng. Cố Cả bị Việt Minh bắt đi từ khi họ cướp chính quyền, tháng 8 năm 1945, mới được trả tự do vài tháng trươc đó.
Tôi từ biệt Đức Cha và cố Cả sau khoảng một giờ trình bày với các ngài về tình hình vùng Cửa Tùng. Đặc biệt về sinh hoạt của giáo xứ Di Loan, giáo xứ cố Cả coi sóc trước khi bị bắt , sinh quán cửa Đức Giám Mục Lê Hữu Từ.
Buổi sáng một ngày giữa tháng 4 – 1954, cô Công Tằng Tôn Nữ Tiếu Diện, em Linh Mục Bửu Đồng, hiện ở Đức, đến mời tôi qua gặp ngài.
Tôi được quen biết cha Bửu Đồng từ khi về coi Cửa Tùng và sau này trở nên rất thân thiết với ngài và gia đình. Cha Bửu Đồng coi giáo xứ Phan Xá, nơi có đồn Hương Vệ bị bao vây tôi mới kể ở trên. Ông thân sinh của ngài là cụ Ưng Trạo, thường được gọi là cụ Hường Trạo theo thẩm vị Hồng Lô Tự Khanh của Nam Triều. Cụ là cha đỡ đầu của ông ngô Đình Cẩn.
Đến gặp cha Đồng, ngài nói với tôi:
- Bữa qua tôi ghé vô thăm cậu Cẩn, ông hỏi có biết anh Thiếu Úy mô mướn nhà trên Đại Úy Tú mà Đức Cha mới tới thăm mấy bữa ni không? Tôi cho ông biết là anh, và cũng đã có một đôi lần tôi nói với ông về anh. Ông nhủ tôi bữa mô đưa anh xuống gặp ông, tôi hứa bữa ni. Chừ anh qua gặp ông với tôi được không?
Vì từ khi còn ngồi ghế ở nhà trường tôi đã được nghe đến danh tiếng gia đình họ Ngô, nên không một chút do dự, tôi thưa lại ngay với cha Bửu Đồng:
- Dạ thưa Cha được chứ, con có mắc gì đâu.
Tôi đi theo cha Bửu Đồng qua ngôi nhà xế trước mặt nhà ngài. Chúng tôi bước vào nhà gặp lúc ông Cẩn đang hớt tóc. Sau khi chào ông Cẩn, cha Bửu Đồng nói:
- Bữa qua Cậu nhủ tôi đưa Thiếu Úy Minh đến gặp Cậu, thì đây, ngài cầm tay tôi, Thiếu Úy Minh đây.
Ông chỉ vào bộ tràng kỷ, ông nói:
- Xin lỗi Cha, mời Cha và anh ngồi đợi cho tôi một lát.
Hớt tóc xong ông đến ngồi phía đối diện cha Đồng và tôi, ông hỏi:
- Anh Minh đây hỉ? Anh mấy tuổi rồi ?
- Dạ thưa ông Cậu con 26 tuổi.
- Gia đình được mấy anh em?
- Dạ, con được bốn anh em ruột và hai đứa em con bà mẹ kế.
- Anh vô lính lâu mau rồi?
- Dạ con vô lính cuối năm 1950.
-Anh lập gia đình khi mô?
- Con lập gia đình tháng tư năm ngoái.
- Còn trẻ vậy mà lập gia đình chi sớm rứa?
- Dạ thưa ông Cậu, khi quyết định vô lính, là đã dứt khoát chọn con đường cho cuộc đời mình rồi, thì lập gia đình cho yên bề.
- Ờ, nói rứa chứ 26 tuổi lập gia đình cũng được rồi. Bây chừ đã có vợ, mai mốt có con, lại chỉ huy đơn vị chắc mắc việc lắm hỉ?
- Dạ chỉ huy đại đội cũng không có gì phức tạp lắm. Vả lại đóng đồn cũng không có việc gì nhiều, có điều cứ đêm đến là lại lo bị địch tấn công. Nhất là khu vực tránh nhiệm của con nhiều đồn bót quá. Đồn Hương Vệ thì quá thô sơ về bố phòng cũng như vũ khí. Đồn chính qui thì đồn nọ cách đồn kia quá xa.
- Vùng ngoài nớ lưng chừng giữa trời giữa đất, có Hương Vệ nhiều cũng đỡ. Nhưng Hương Vệ như của Cha Đồng đây, để cho nó đến bao vây rồi giải vây thì mệt quá hỉ ?
Tất cả chúng tôi cùng cười. Ông Cẩn tiếp;
- Dù trách nhiệm nhỏ cũng có điều phải lo lắng. Những khi rảnh rỗi gắng học hành, đọc sách báo thêm, để mở mang kiến thức, sau ni lên chức phải gánh trách nhiệm lớn hơn, có khả năng mà mần.
- Dạ !
Câu chuyện giữa ông Cẩn, Cha Đồng và tôi kéo dài khoảng hơn một tiếng đồng hồ thì cha Đồng và tôi cáo từ ông. Khi chúng tôi ra đến sân, ông Cẩn dặn với;
- Khi mô rảnh anh Minh cứ vô chơi.
- Dạ ! Cám ơn ông Cậu
- Về lại nhà Cha Bửu Đồng, ngài dặn tôi;
- Ông Cẩn khôn ngoan, anh ráng năng ghé thăm ông, sẽ học hỏi được nhiều điều hay đấy .