56.- Lư, Hoàng bị giao tam pháp xét (câu 2255 - câu 2364)
Ngự nghe thấu hết mọi tình, Tức thì nổi giận lôi-dình bởi đâu. Phán rằng: "Gian-đảng họp nhau, "Dối trên hại dưới bấy lâu thông đồng. "Thử xem lòng lại hỏi lòng, 2260.- "Thẹn chưng mũ áo, hổ cùng cân đai. "Nhàm tai, chẳng nói chi dài, "Giao Tam-pháp nghị, rạch-ròi sẽ tâu. Phùng-công Đô-sát làm đầu, Thứ nhì Đại-lý, đến sau bộ Hình. Ba tòa ngồi trước cung-đình, Nha-môn chực dưới, long-đình đăt trên. Kia thì bị nọ thì nguyên, Một bên sỉ-tử, một bên Lư, Hoàng. Nọc roi sắp sẵn hai hàng, 2270.- Sai vào ngục-viện đòi chàng Khâu-Khôi. Phùng-công dạy trước mấy lời: "Chào Lư Thái-phó đầu đuôi đồng từ !" Tư công nói hãy lờ đờ: "Tôi cùng ba bác có là người đâu ? "Tờ bồi ráo-riết chi nhau, "Rồi ra, tình diện về sau còn dài." Quan rằng: "Nói cũng lạ đời, "Tình trong đã vậy, lý ngoài làm sao ? "Ép duyên sai bắt thế nào ? 2280.- "Việc rành-rành, phải đem vào lời cung. Lư rằng: "Việc ép thì không, "Con đây chưa dễ sàng-đông thiếu người ? "Còn như chuyện bắt Khâu-Khôi, "Xưa nay quen vẫn làm rồi mới tâu." Ông rằng: "Binh sự là đầu, "Đạo làm thần-tử, dám hầu tự chuyên ? "Khi quân tội ấy đã nên, "Lại còn nhắc chuyện lộng quyền vi phi. "Bá Cao chết tại tội gì ? 2290.- "Đông Sơ bỏ ngục tội thì tại ai ?" Lư rằng: "Sao kể đường dài, "Hãy cho xong án Khâu-Khôi đã mà ! "Bá Cao với lại Đông Sơ, "Tội làm trở đậu quân-cơ bấy giờ. "Trọng khinh bởi chữ lượng vua, "Như đây có dự chi mà can liên." Ông rằng: "Liệu đấy mà xem, "Nếu còn già miệng thì nên mất lòng!" Còn đương tra hỏi chưa xong, 2300.- Trông ra đã thấy quan trong, họ Hoàng Đem vào đặt trước sảnh-đường, Long-côn một chiếc, niêm hoàng một chương. Ba toà tiếp chỉ vộì-vàng, Mấy lời ỏn-ẻn họ Hoàng đã thưa: "Này đồ phụng chỉ ban ra, "Sao cho tận pháp mới là công minh. "Gìa tay xin chớ ngại tình, "Phen này hai mạng súc-sinh đi đời." Phùng-công hỏi thử mấy lời, 2310.- Rỉ tai Hoàng mới khúc-nôi kể bày. Thưa rằng tôi đã tỏ đây, "Đông-cung nghĩ chút đạo thầy, toan bênh. "Mặt rồng nổi giận lôi đình, "Buộc công-pháp lại, gác tình riêng ra. "Thôi ! thì trời cũng chẳng xa, "Xưa nay hãm-hại người ta đã đầy." Nói rồi mắm miệng, day tay, Trông Lư Kỷ, lại rút giày ném theo. Hung-hăng mắng ít, nhiếc nhiều, 2320.- Còn the-thé giọng, toan điều nọ kia, Phùng-công khêu-gợi tỉ-tê; "Bố mầy dường có thù gì với ai. "Tội đâu có phép đấy rồi, "Can chi mà cứ xơi-xơi nhọc mình." Mặt còn men-mét xám xanh, Được lời, Hoàng mới kể tình xa xưa; "Rằng tôi có chút cháu nhà, "Lỵ Giang-tây đạo tên là Thái Câu "Chứng oan mắc phải mưu sâu, 2330.- "Cũng vì thanh giản lấy đâu nhân tình ? "Giặc Hoàng-Thổ trấn dấy binh, "Án thông phỉ ấy, đã dành cho ngay. "Kiến bò miệng chén mau thay, "Mưu kia đã lắm, vạ này cũng thâm. Họ Hoàng quen thói thâm-trầm Ngoài thơn-thớt miệng, trong tâm-ngẩm lòng. Cắm gần sẵn có roi đồng, Dang tay đã diệt Hoàng Tung một hồi. Bước ra còn nói mấy lời : 2340.- "Đại-nhân, xin xét một hai cho cùng." Ông rằng: "Phải việc nói không, "Lòng người là sắt, phép công là lò. "Bây giờ còn dám quanh-co, "Truyền đòi Hình-bộ, hãy cho giở nghề." Dạ rân sát-sạt xa nghe, Đỉa, giăng thẳng nọc, đuối, vì-vụt roi Một sân thịt nát, xương rơi, Ngất đi một lúc, lại hôì mấy phen. Lư, Hoàng biết thế khôn kiêng, 2350.- Xin khoan roi, để việc liền chiêu ra. Mai, Trần hai án ngày xưa, Khôi-Khâu một án bây giờ, chịu đoan. Ba toà một mực truyền ban Sai nghiên-bút, lấy cung đoan mấy tờ. Phùng-công truyền phó canh giờ, Rồi xem án tấu, đợi chờ xử phân. Kíp về tư thất dời chân, Mời chàng Mai với chàng Xuân dặn dò. Trời đà chứng kẻ oan vu, 2360.-Trừ gian, may lại phục thù có cơ. Mặt rồng gang tấc không xa , Giãi tình oan khuất, họa nhờ thiên-ân Vâng lời dặn-dỗ ân cần, Hai chàng thảo sẵn sớ-văn hai bài.
57.- Lư Kỷ, HoàngTung bị chính-pháp bêu đầu (câu 2365 - câu 2390)
Buổi triều vừa rạng ngày mai, Hơn trăm sĩ-tử chực ngoài hành-lang Phùng-công tâu án Lư, Hoàng, Phân-minh trạng chỉ, rõ ràng tờ cung, Đường hoàng xem hết thỉ-chung, 2370.- Phán rằng: "Gian-tặc thông đồng bấy nay. "Bá Cao oan-uổng thương thay ! "Đông Sơ bỏ ngục, nào hay tội gì ?" Cửu-trùng hạ chỉ tức thì: Họ Trần tha tội, lại về chức xưa. Mai-công oan khuất xót-xa, Chẳng hay con cái bây giờ còn ai ? Phùng-công tâu trước mấy lời : "Chuyện ny chân, giả đèn trời xin soi. "Trạng-nguyên ấy thực họ Mai, 2380.- Mà Khâu Bảng-nhãn hẳn-hoi họ Trần. Phán rằng một cửa trung-thần, "Truyền cho hai gã vào sân đan-trì. Lễ rồi, trước điện đều quỳ, Bạch oan sẵn sớ tức thì dâng lên. Vua Đường xem hết sự duyên, Phán rằng: "Tung, Kỷ hại liền bấy lâu. Truyền đem chính-pháp bêu đầu, Trạng-nguyên Bảng-nhãn đứng đầu hai bên. Ban cho phục họ, phục tên, 2390.- Cao minh muôn đội ơn trên chín lần
58.- Trần Đông Sơ được tha ra khỏi thiên-lao (câu 2391 - câu 2414)
Suy ra mới biết trời gần, Chính-tà một bụng, quỉ-thần hai vai. Gian-thần chưa chắc nẩy chồi, Núi băng khi thấy mặt trời hẳn tan. Trung-trinh dẫu có mắc oan, Vẫn trơ cây cứng, không chồn gió lay. Về sau ngay lại ra ngay, Khỏi tuần hoạn nạn, đến ngày hiển-vinh. Lư, Hoàng thực đã đáng tình, 2400.- Đem ra chính-pháp hành-hình một giây. Tan-tành thịt nát, xương bay, Nắng bêu mặt nịnh, đất rây máu tà. Chán lời kẻ lại, người qua: "Bây giờ thế ấy thuở xưa thế nào ?" Trần-công ra khỏi thiên-lao, Ngọ-môn chực sẵn đã vào tạ ân. Phùng-công mừng-rỡ cố-nhân, Mời về tư-thất ân-cần thở-than. Rể con sum-họp một đoàn. 2410.- Người than chuyện trước, kẻ bàn nỗi xưa. Nhớ-nhung kẽ tóc chân tơ, Gian-nan là mấy, nương-nhờ những đâu ? Bao nhiêu tân khổbấy lâu, Giật mình đòi lúc, lắc đầu đòi phen.
59.- Mai Bá Cao được quốc tế (câu 2415 - câu 2456)
Khi nên mọi việc mọi nên, Chiếu trời đâu đã tốc truyền tới nơi. Định ngày ngự tế họ Mai, Phong làm Thái bảo dựng bài liệt-trung Trạng-nguyên với lại Trần, Phùng, 2420.- Ban quyền Học-sĩ dự phần yếu thanh . Còn như Bảng-nhãn Xuân-sinh, Làm Đô-ngự-sử, quyền hành hạch tâu Họ Trần, họ Đảng, họ Khâu, Trật gia tam cấp đợi sau kén dùng. Vợ Mai-công, vợ Trần-công, Lại cùng Trần Hạnh, lại cùng Vân Anh Phu-nhân nhất phẩm cực vinh, Khen cho chữ nghĩa, chữ trinh một nhà, Vân Tiên với lại Ngọc Thư, 2430.- Phẩm đề đệ-nhị, cũng là phu-nhân. Mai-công khai táng đến tuần, Hoàng-thân tế điện, triều-thần trợ nghi. Trạng-nguyên nhân tiện đường đi, Duyên đồ hộ-tống, về quê châu Thường. Lại ban tuần-thú bốn phương, Ấn vàng một quả, kiếm vàng một thanh. Một mình quyền được tiện hành, Thẳng tay nẩy mực, công bình cầm cân. Lại cho về việc đại tuần 2440.- Hoàn-hôn ngự tứ nghênh thân một ngày. Lắng tay rõ chiếu năm mây, Hai chàng vào trước, lạy bày tạ ân. Xem ngày ngự tế đã gần, Cho tin báo trước tăng-nhân dọn chùa. Trạng-nguyên mặc áo thôi-ma, Trước vào lễ phật, sau ra tảo phần. Điển-nghi khắp mặt triều-thần, Một tờ dụ-chỉ, ba tuần rượu hoa. Cột kết thái, trướng rủ là, 2450.- Đèn gần chong sáp, đỉnh xa bay trầm. Trống tam nghiêm, nhạc bát âm, Mấy mâm sinh lễ mấy mâm tư thình. Sống trung-liệt thác anh-linh, Suối vàng thơm phách, mây xanh thỏa hồn. Đã đành trung hiếu nhất môn, Ơn vua nhuần gội, tiếng con rỡ-ràng.
60.- Mai Trạng-nguyên được ân ban (câu 2457 - câu 2484)
Tế rồi linh-cữu lên đường, Trạng-nguyên lĩnh ấn, gươm vàng ra đi. Tạ ân vào trước tâu quì, 2460.- "Việc công đâu dám bận vì tình riêng. "Tưởng khi lánh nạn băng miền, "Theo chân cậy có một tên Hỉ Đồng. "Nghĩ trong thầy tớ xét công, "Mấy cơn nguy-hiểm, mấy vòng gian-nan. "Tìm vào nhạc-phụ Hầu Loan, "Hay đâu cùng với quyền gian một lòng. "Cũng toan bắt nộp lấy công, "Giả hình khi ấy Hỉ Đồng đỡ thay, "Rày nhờ rộng bước đường mây, 2470.- "Ngậm-ngùi đạo tớ, nghĩa thầy chưa quên. "Móc mưa xin tưới cửu-tuyền, "Gọi là tinh-biểu "để đền chút công." Vua Đường nghe hết thỉ-chung, Khen rằng tiết nghĩa hiếu-trung một nhà. Của kho ban dựng miếu thờ, Chức ban Thất phẩm. gọi là tặng phong Tạ từ năm lạy đền rồng, Trở ra rước cữu Mai-công xuống thuyền. Tiễn đưa xe ngựa như nêm, 2480.- Trống ran mặt đất, cờ liền bóng sông. Đồ hiếu-sự vẻ quân-dung, Sông lồng giới-trượng gió tung biển-kỳ. Đến đâu quyền được tiện nghi, Một tay thưởng-phạt hai bề công-minh
Chú thích:
lôi-dình: Sấm sét. Giao Tam-pháp: tức Tam-pháp ty : Tòa Tam-pháp. Tòa này mỗi khi có việc xét xử gì quan-trọng mới lập, cũng như tòa án đại hình. Gồm có quan-chức ba tòa là Đô-sát viện, Đại-lý-tự và Hình bộ họp nhau xét nghị người ta quen gọi là "Ba tòa". cung-đình: Sân trong cung, cũng như triều-đình, nơi công-đình. Nha-môn: Thuộc trong dinh. long-đình: Cái án có mui chạm rồng gọi là long-đình, để đặt những giấy tờ sắc-chỉ hay đồ-vật gì do nhà vua ban ra cho được tôn-kính, ngục-viện: Nhà giam. Thái-phó: Một chức quan cao-cấp vào hàng Tam-công. ba bác: Đây là Lư Kỷ gọi ba quan Tam-pháp. Binh sự: Việc binh. Lư Kỷ sai đem binh đi bắt Khâu Khôi. thần-tử: Tôi con.
Khi quân: Dối vua. lộng quyền vi phi: Lộng quyền làm bậy. trở đậu quân-cơ: Làm ngăn-trở, chậm-trễ việc quân. can liên: Dính-dáng giây-dưa đến, liên-lụy, vạ lây. họ Hoàng: Đây là trỏ vào quan Hoàng-môn tức hoạn-quan hay quan Thị-hầu chực ở hậu-cung. Long-côn: Roi của vua. niêm hoàng: Tờ chiếu chỉ của vua viết bằng vàng và niêm phong lại, nên gọi là "niêm hoàng" cũng như đằng hòang. tận pháp: Hết phép. súc-sinh: Giống vật nuôi trong nhà, tiếng khinh-bỉ, đây trỏ Lư, Hoàng. Đông-cung: Cung bên đông, nơi Thái-tử (con cả nhà vua) ở, nên cũng gọi Thái-tử là Đông-cung.
Bố mầy: các hoạn-quan theo tiếng xưng hô chữ Hán thường gọi là "Công-công" hay "lã công". Chữ "Bố mầy" phải chăng do những chữ đó dịch chạnh đi, Lỵ Giang-tây đạo: Nhậm chức ở đạo Giang-tây. Thái Câu: Xem chú-thích ở trên. thanh giản: Trong-sạch, giản-dị. nhân tình: Do chữ tố cá nhân tình, ý nói giao-thiệp thù phụng người cho được việc. thông phỉ: Giao-thông với giặc. thâm-trầm: Sâu, chìm, ý nói người sâu-sắc. Lòng người là sắt, phép công là lò : Câu này do câu chữ " nhân tâm như thiết, quan pháp như lô ". Đỉa, giăng thẳng nọc, đuối, vì-vụt roi: Câu này nói nọc thẳng ra như con đỉa và dùng roi xương đuôi cá đuối mà đánh. Mặt rồng gang tấc không xa: Câu này do câu " Thiên uy bất vi nhan chỉ xích ".
thiên-ân: Ơn trời. sớ-văn: Tờ sớ tâu vua. hành-lang: Dãy nhà ngang chạy dài ở các cung điện. chân, giả: Thực, dối. Bạch oan: Tỏ nỗi oan. Núi băng khi thấy mặt trời hẳn tan: Núi băng do chữ băng sơn : Trương Triện đời nhà Đường nói : Các ông coi Dương Hữu-tướng (Dương Quốc Trung) như núi Thái, tôi thì cho là núi băng hễ mặt trời mọc là tan, các ông trông-cậy mãi được ru ! tân khổ: Cay đắng. Thái bảo: Một chức quan cao-cấp về Cung-hàm hàng tam công. liệt-trung: bậc nghĩa-liệt kiên-trung, Học-sĩ: một chức quan văn-học. yếu thanh: Trọng yếu mà thanh-cao. Đô-ngự-sử: Một chức gián quan.
Điển-nghi: Điển-chương và nghi-thức. triều-thần: Các quan trong triều. dụ-chỉ: Tờ dụ của vua. tam nghiêm: Ba hồi. Lúc mới bắt đầu tế, người ta xướng : " Chung cỗ các tam nghiêm " nghĩa là chuông và trống đều đánh ba hồi, bát âm: Tám thứ tiếng về âm-nhạc. sinh lễ: Lễ thịt chín như thịt lợn, trâu, tư thình: Cỗ xôi. trung hiếu nhất môn: Trung và hiếu trong một cửa. linh-cữu lên đường: Quan tài đựng xác chết gọi là cửu Linh nghĩa là thiêng. tinh-biểu: Tinh-biểu : người có nết tốt được nhà vua ban khen hoặc bằng biển ngạch, hoặc bằng cờ hoặc bằng bia nêu ra để làm gương cho người khác bắt-chước, đều gọi là "tinh-biểu", như tinh biểu nghĩa phu tiết phụ v. v...- tinh biểu nghĩa đen là cờ nêu - Thất phẩm: Quan tước của triều-đình có 9 phẩm, từ nhất đến cửu, nhất phẩm là trên hết, cuối cùng là cửu phẩm, mỗi phẩm lại chia ra hai trật là chính và tòng.
hiếu-sự: Việc hiếu, việc tang . quân-dung: Nghi-vệ của quân đội. giới-trượng:Khí-giới của quân lính. biển-kỳ: Biển và cờ cũng là đồ hành nghi của quân-đội, dùng làm biểu-hiệu khi đi đường hay đóng tại đâu. thưởng-phạt: Thưởng kẻ có công, phạt kẻ có tội.