Hóa-nhi thăm-thẳm nghìn trùng, Nhắc cân phúc tội, rút vòng vần xây. Ngàn xưa mấy kẻ gian ngay, Xem cơ báo-ứng biết tay trời già. Tuần-hoàn lẽ ấy chẳng xa, Chớ đem nông-nỗi mà ngờ cao xanh. Trời nào phụ kẻ trung-trinh, Dù vương nạn ấy, ắt dành phúc kia. Danh thơm muôn kiếp còn ghi, 10.- Để gương trong sách, tạc bia dưới đời. Gian-tà đắc chí mấy hơi, Mắt thần khôn giấulưới trời khôn dung. Uy-quyền một chút như không, Xem bằng lửa đá ví cùng đám mây. Thanh-nhàn khi tựa hiên tây, Vui lòng đèn sách, nghỉ tay văn bài.
2.- Mai Bá Cao cùng con: Lương-Ngọc (câu 17 - câu 56)
Truyện ngoài xem "Nhị Độ Mai ", Nhà Đường truyền vị đến đời Đức-tông. Thường-châu có kẻ thanh-trung, 20.- Bá Cao là chữ, vốn dòng họ Mai. Nền trung-trực dạ trang-đài. Trời cho văn-tử đáng tài trạng-nguyên. Đặt tên Lương-Ngọc dõi truyền, Thông-minh rất mực, phượng tiên trong đời. Nhân-duyên số sẵn tự trời, Hôn-nhân đã định vào nơi họ Hầu. Chỉ vì ngoại lỵ bấy lâu, Chưa trao lễ nhạn mới đầu thiếp canh. Mai công tri-huyện Lịch-thành, 30.- Gương trung sáng vặc, túi thanh nhẹ bồng. Cầm-đường ngày tháng thung-dung, Tên ngay là tiết, nước trong ấy lòng. Bấy lâu Lư Kỷ tướng-công, Tuy quyền-tước lớn, mà phong độ hèn. Túi tham của đút chật lèn, Dung bên gian-đảng, ghét bên hiền tài. Mai-công mấy độ quan ngoài, Bạn-bè nhờ có mấy người đồng niên. Trong triều hết sức giữ-gìn, 40.- Kẻ ngôi Thiêm-sự, người quyền Thượng-thư. Kìa Đảng Tiến, nọ Đông Sơ, Kẻ toà Đô-sát, người toà Hàn-lâm. Chu toàn đã ngoại mười năm, Bè trung chống vững, lòng căm chớ hòng. Một ngày huyện vụ vừa xong, Vào trong ông mới ngỏ cùng phu-nhân. Rằng : "Ta vốn kẻ trung-thần, "Trên vì nước, dưới vì dân mới là! "Ví dù theo thói người ta, 50.- "Uốn lưng co gối cũng nhơ một đời. "Lọ là cầu-cạnh chi ai, "Chẳng trong lăng miếu, cũng ngoài điền-viên. "Con ta trạc tuổi thanh niên, "Có gương khoa giáp, có nền đỉnh-chung. "Sao cho giữ được chữ trung, "Mới là hiếu-tử nối dòng thư-hương."
3.- Thăng quan lai kinh; Mai Công dặn vợ con (câu 57 - câu 108)
Những là vui chuyện nội đường, Sảnh ngoài bỗng có hai chàng báo tin: Mai-công phụng chỉ thăng thuyên. 60.- Chiếu trời mây vỗ, ân trên mưa nhuần. Triều ban dự bậc quan thân, Lại khoa cấp-sự giữ phần gián quan. Tin đâu khêu tấm trung-can. Một hai quyết phải trừ gian phen này. Truyền làm tiệc rượu vui-vầy, Dặn-dò gia sự đinh ngày khởi thân. Tàng tàng chén cúc vài tuần, Đòi công-tử với phu-nhân dạy lời: Rằng: " Bấy lâu những ở ngoài, 70.- "Dạ này tấm-tức với người quyền gian. "Rày vâng Đài-gián thăng quan, "Phen này ta quyết cả gan phen này. "Bấy giờ một giở, một hay, "Họp nhau nào biết có ngày nữa thôi? "Cũng đừng bịn rịn lôi-thôi, "Mẹ con sớm liệu về nơi quê nhà. "Điền-viên vui thú nông gia, "Tiện con đèn sách ấy là lẽ nên! "Ví dù giải kết có tin, 80.- "Bảo nhau sớm liệu tìm miền ẩn thân. "Chờ cho thiên-địa xoay vần, "Sẽ toan-tính với thù-nhân sau này. "May mà vua chứng lòng ngay, "Đàn hồ, lũ thỏ, một ngày quét thanh. "Bấy giờ phu quý, phụ vinh, "Đưa tin sẽ đón thăng kinh cũng vừa." Tân bằng mừng rỡ chật nhà, Tiếp thù ông bận những là hàn-ôn. Phu-nhân nửa lệ nửa buồn, 90.- Đòi công-tử đến, mẹ con bàng-hoàn. Rằng: "Nghe bố con bàn, "Phen này quyết với quyền gian đối đầu. "Sẻ đàn, phượng một, chắc đâu, "Cái lo này để về sau tày trời." Nghe rồi công-tử thưa lời: "Thế rằng cái đạo làm tôi mới là. "Nhà huyên xin chớ lo xa, "Hễ trời có mắt thì ta lệ gì ? "Hãy cho vẹn tấm trung-nghì, 100.- "Vinh, khô, đắc, táng, sá chi cuộc đời." Ông vừa xong việc khách ngoài, Bưóc vào trong, bông nghe lời con thưa. Vuốt râu cười nói lui ra, Khen rằng: " Ấy thực đại-gia con nòi! "Trẻ thơ biết đạo làm tôi, "Gương trung-hiếu, lấy một lời mà suy. "Mới hay hổ phụ, lân nhi, "Khéo thay tính trẻ cũng y tính già.
4.- Mai-Công dặn nha lại (câu 109 - câu 126)
Nói rồi truyền gọi lại nha, 110.- Đương đường nhủ hết nỗi xa nỗi gần: "Làm người biết đạo tu thân, "Việc quan phải giữ lấy nhân làm đầu. "Tiếng thanh bạch để về sau, "Dẫu rằng uống nước, ăn rau chớ nài. "Việc văn án phải quan-hoài, "Một câu nặng nhẹ, mấy người oan-khiên. "Khuyên đừng đổi trắng thay đen, "Ngược dân dưới, dối quan trên, khó lòng. "Giữ-gìn đôi chữ hiếu-trung. 120.- "Sao cho không hổ với trong cao dày. "Ta đây vả tiếng quan thầy, "Giã nhau một chút niềm tây gọi là. "Rồi đây một bước một xa, "Nghe ta hay chẳng nghe ta, mặc dầu!" Dạy rồi ai nấy gật đầu, Rằng: "Vâng khuyên nhủ từ sau ghi lòng."
5.- Tình cảnh nhà họ Mai trước khi tương biệt (câu 127 - câu 194)
Trù-phòng dọn dẹp vừa xong, Một công-tử với hai ông bà ngồi. Dặt-dìu sẽ rót chén mồi, 130.- Nghìn câu trân-trọng trăm lời biệt ly. Người trằn-trọc nỗi về quê, Kẻ năn nỉ nỗi đường đi giữ-gìn. Người khuyên cẩn-thận sớ tiên, Kẻ răn nhắc nhỏm sách-đèn sớm khuya. Lôi thôi giở nỗi lâm-kỳ, Ngoài đầy vơi chén, trong mê mẩn tình. Phu-nhân hỏi: "Buôi đăng Kinh, "Phỏng cho mấy đứa tùy hành theo ông ?" Mai-công rằng: " Lọ chi đông, 140.- "Một chàng Mai Bạch vốn trong họ nhà. "Gọi là làm bạn đường xa, "Gọi là ngày gió ngày mưa theo hầu."
Chú thích:
Hóa-nhi: hóa;tạo-hóa, nhi: trẻ-con. Tạo-hóa oái-oăm nên gọi-trẻ tạo- cũng như tạo-hóa khôn-khéo nên gọi hóa công- thợ tạo. Tuần-hoàn: quanh-quẩn lẽ tự-nhiên của tạo-hóa. cao xanh: trỏ vào trời, do chữ hạo thiên và thượng thiên. Mắt thần khôn giấu: cũng như nói thiên nhỡn phi giao- mắt trời chẳng xa. lưới trời khôn dung.:bởi câu: "thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu" . Lưới trời lồng-lộng thưa đấy nhưng chẳng để lọt. Đức-tông: vua thứ 9 đời nhà Đường, khoảng năm 780-805. Thường-châu: nay là huyện Vũ-tiến thuộc tỉnh Giang-tô bên Tàu. họ Mai: Mai Bá Cao : vai chính trong truyện này. văn-tử: bởi chữ văn-tử văn-tôn, nói về con cháu vua Văn-Vương, con cháu giỏi. Có bản chép "văn-tướng". Lương-Ngọc: tên tự của Mai Bích, con trai Mai Bá cao.Trong khi lánh nạn, khi đội tên Vương Hỉ Đồng, khi mạo tên Mục vinh . Trong truyện chỗ chép Mai công-tử, chỗ chép Mai-sinh, đều là Mai Lương Ngọc.
họ Hầu: một họ ở bên Tàu ngoại lỵ: làm quan ở ngoài lễ nhạn: do chữ nhạn tệ lễ cưới (sinh lễ) thiếp canh: do chữ canh thiếp, cái thiếp biên tên tuổi người con gái, của nhà gái trao cho nhà trai để đính hôn. Lịch-thành: một huyện thuộc phủ Tế-nam tỉnh Sơn-đông bên Tàu. Cầm-đường: nhà gảy đàn Bật Tử Tiện làm quan Huyện-lệnh huyện Đan-phủ, chỉ ngồi gảy đàn mà công việc vẫn đâu ra đấy, nhân thế người ta gọi dinh quan Huyện là Cầm-đường đồng niên: bạn cùng đỗ một khoa. Thiêm-sự, Thượng-thư: đều là chức quan văn Đảng Tiến, Đông Sơ: hai bạn của Mai-công Đô-sát, Hàn-lâm: đô-sát coi việc xét xử ngục tụng. Hàn-lâm coi việc văn-từ.
huyện vụ: công việc quan trong huyện. lăng miếu, điền-viên: Lăng-miếu: nơi triều-đình, trỏ lúc làm quan tại triều . Điền viên : nơi ruộng vườn, trỏ lúc lui về thôn quê. thanh niên:t uổi xanh lúc trai trẻ. khoa giáp, đỉnh-chung:Khoa : khoa mục; giáp : giáp đệ trỏ về sự thi đỗ. Đỉnh : cái vạc ; chung : cái chuông, nấu ăn bằng vạc và gọi kẻ hầu tiệc bằng chuông, trỏ về nhà quan quí, do câu : chung minh đỉnh thực chi gia. thư-hương: mùi thơm của sách vở, trỏ về con nhà nho. nội đường: nhà trong , tư thất. phụng chỉ thăng thuyên: vâng chiếu-chỉ cho thăng chức và chuyển bổ đi nơi khác. Triều ban: hàng bậc trong triều. Lại khoa cấp-sự:l à một chức gián quan, coi việc can-ngăn vua, nếu làm sự gì không phải. trung-can: gan người trung-trực.
gia sự: việc riêng trong gia-đình. khởi thân: cất mình ra đi. Đài-gián: tức là chức quan. giải kết: chữ nhà Phật "giải-kếi, giải-kết, giải oan kết", ý nói oan-gia nên giải không nên kết. Chữ giải kết trong này ám-chỉ về sự chẳng may. thù-nhân: kẻ thù. Tân bằng: khách và bạn hàn-ôn: rét, ấm, nói bóng về sự chuyện-trò của câu sốt câu nguội Nhà huyên: huyên :một thứ cỏ, tục quen dùng để ví với người mẹ, cũng như xuân hay thung, một thứ cây quen dùng ví với người cha. Vinh, khô, đắc, táng: vinh: tươi; khô:héo; đắc:được; táng:mất, ý nói tươi hay khô héo, được hay mất, chỉ là sự ngẫu-nhiên chứ không quan hệ đến cuộc đời. hổ phụ, lân nhi: cha như con hổ, con như con lân, ý nói nòi nào giống ấy cũng như câu tục-ngữ "cha nào con ấy".
thanh bạch: trong-sạch. uống nước, ăn rau:do chữ: phạn xơ tự ẩm thủy, ăn cơm rau, uống nước lã, ý nói cam phận nghèo. cao dày:t rỏ trời đất, bởi chữ: thiên cao địa hậu : trời cao đất dày. Trù-phòng: nhà bếp. sớ tiên: sớ tâu vua. lâm-kỳ: sắp đến chỗ rẽ (ngã ba đường) đăng Kinh: lên kinh đô.