46.- Sau khi rõ tình, hai người cùng khỏi bệnh (câu 1835 - câu 1880)
Bên giường mấy nỗi dặn-dò, Phu-nhân nghĩ-ngợi thêm hồ-nghi ra. Cùng nhau bàn mảnh trong nhà, Xuân-Hương mách-lẻo trình bà phu-nhân: "Chuyện này xin chớ ngại-ngần, "Tôi đà tỏ hết nỗi gần nỗi xa. "Cũng vì có một chiếc thoa, "Kẻ bâng-khuâng nhớ, người ngờ-ngẫn thương. "Hai phòng bệnh cũng một đường, "Mê rồi lại tỉnh, mơ-màng lăng-nhăng. "Vả xem những tiếng trối-trăng, "Kẻ rằng chính bắc, người rằng chính nam. "Chuyện này để vậy chưa cam, "Xin dò nhắc lại xem làm sao đây." Theo Vân-thư mới đi ngay, 1850.- Phen này quyết tỏ lòng này cho ai. Lẳng-lơ đứng trước thư-trai, Đem thơ tiễn-biệt Trùng-đài đọc chơi. Mục-Vinh nghe vẳng bên tai, Bằng dường xét đánh lưng trời bỗng đâu. Gọi vào, hỏi trước, hỏi sau, Mỉm cười, Hương mới kể đầu, kể đuôi. Nỗi nàng mách hết rạch-ròi: "Khi thần đưa đến, khi người bắt nuôi. "Trộm thoa, tội ấy về tôi, 1860.- "Khiến trong nhìn nhận, để ngoài xót-xa. "Mấy câu tôi đọc bây giờ, "Thơ này bắt được với thoa một lần. "Làm khuây, xin hãy tỉnh dần "Đã đành tài-tử, giai-nhân một nhà. "Vả ông tôi dặn trong tờ, "Đinh-ninh dành gả tiểu-thư cho chàng, "Bây giờ gặp nghĩa cũ-càng, "Chẳng hay duyên mới có mang-mể cùng ?" Sinh rằng: "Muôn đội ơn lòng, 1870.- "Nỗi bà trân-trọng, nỗi ông yêu-vì. "Ví bằng được hẳn thế thì, "Duyên sau nghĩa trước, hai bề vẹn hai." Bỗng như nói nói, cười cười, Mười phần bệnh, phỏng còn vài bốn phân, Xuân-Hương tức-tốc dời chân, Tình đầu bạch với phu-nhân bấy giờ. Lại vào bảo thực Hạnh-thư: "Mục-Vinh ngoài ấy, ấy là Mai-sinh." Hạnh-Nguyên nghe rõ thực tình, 1880.- Cất quang-quảng bệnh, nhẹ thênh-thểnh người.
47.- Mai-sinh và Hạnh-Nguyên nhận nhau ở Châu phủ (câu 1881 - câu 1902)
Cho hay những bậc sắc tài, Thảm vì tình lắm, lại vui vì tình. Phu-nhân chọn được ngày lành, Mới truyền dọn-dẹp, mời sinh vội-vàng. Sửa-sang cuộc rượu hai bàn, Cách rèm làm lễ truy-hoanmột nhà. Hạnh-Nguyên quốc-phục như xưa, Khoác mành-mành, mới bước ra hỏi chàng. Rõ mười còn tưởng mơ-màng, 1890.- Mừng mừng, tủi tủi, khóc than một hồi. Khóc rồi kể lể đầu đuôi : Nỗi trên núi nhạn, chuyện ngoài ải mây. Chết thừa sống thiếu là may, Bên kia quan gặp, bên này thần đưa. Bèo trôi, sóng vỗ đến giờ, Kẻ sang Châu-phủ, người nhờ Phùng-công. Biết bao nhiêu chuyện đau lòng, Xuân-sinh lưu-lạc, Sơn-đông cách vời. Một phen nói, một bồi-hồi, 1900.- Bâng-khuâng cố-quậnngậm ngùi thiên-lao. Phu-nhân khuyên-giải thấp cao, Cùng thôi nước mắt lại vào tiệc hoa.
48.- Châu-công về thăm nhà bàn gả Vân Anh cho Mai-sinh (câu 1903 - câu 1970)
Tin Kinh bỗng thấy đưa ra: Châu-công thăng chức hiệu là Thị-lang. Chỉ ban về lễ từ-đường, Chàng ra mười dặm đình-trường đón xa. Ngó trông rợp bóng quan-hà, Thẻ bài phụng-chỉ ngọn cờ vinh-hương. Giáp nhau ông đã gặp chường, 1910.- Song song đôi ngựa trỏ đường cố-gia. Thu quân hồi trống vào nhà, Trên yên vách phấn, cắm cờ giá son. Vào trong thong-thả ôn-tồn, Một nhà thầy, tớ, vợ, con lạy mừng. Trong nhà nhộn-nhịp, tưng-bừng, Âm-thầm thiều nhạc, lẫy-lừng tiệc hoa. Phu-nhân giả cách lơ-mơ, Truyền đòi đệ-nhất tiểu-thư ra hầu. Ông rằng : "Khéo lẽ dối nhau, 1920.- "Hiếm-hoi một gái lấy đâu nhất nhì ?" Hạnh-Nguyên ra trước lạy quì, Nỗi nàng bà kể mọi bề gian-truân: "Nghĩ rằng xa, chẳng là gần, "Ai hay con gái bác Trần Đông Sơ ! "Tơ đào nghĩ những bao giờ, "Nhân-duyên sớm định về nhà họ Mai. "Hôm xưa lắm chuyện nực cười, "Kẻ trong nhận của, người ngoài mất thoa. "Hai buồng gang tấc nên xa, 1930.- "Thất tình bệnh đã hóa ra mấy ngày. "Tỏ ra mười mấy hôm nay, "Bên kia nhận vợ, bên nây nhận chồng." Ông nghe thấu hết sự lòng, Cả cười, mới dạy rằng: "Trong đạo trời. "May ta gặp cả hòa hai, "Trọn tình bè-bạn, được người thi-thư. "Nghĩ chăng, dở một nỗi nhà, "Tính vào thế ấy, hóa ra thế này !" Bà rằng: "Tôi cũng nghĩ đây, 1940.- "Xưa nay đôi quả một tay cũng nhiều. "Vả trong hai ả tiểu-kiều, "Mười phần xem đã kính yêu cả mười. "Bấy nay hình-ảnh chẳng rời, "Thờ chung quân-tử một người cũng nên. "Mai-sinh nghĩa cả chưa đền, "Phỏng chừng ép-uổng cũng nên một lòng." Châu-công nghe nói thỉ-chung, Liền ra tiệc ngọc thư-phòng với sinh. Lòng chàng nghe đã tỏ tình, 1950.- Lẽ nào giấu quẩn giấu quanh được rày ! Thưa rằng: "Chút phận hèn ngây, "Bấy nay giả-dối, tội rày đã cam." Ông rằng việc tỉnh Hà-nam, "Bấy lâu cậy một tay làm biết bao ? "Kinh-luân đã tỏ tài cao, "Thớ cong, rễ quánh, thủ dao long-tuyền. "Hiếm-hoi chút gái vụng-hèn, "Nâng khăn sửa túi, xin yên phận nhờ." Sinh rằng: "Nguyệt lão xe tơ, 1960.- "Nhân-duyên đã định Trần-gianhững ngày, "Làm chi bể ái vơi đầy, "Hạ-đườngdám lụy, tiếng này đến ai ? "Vả con hổ phận bất tài, "Tấc lòng e chửa xứng ngôi đông-sàng." Ông rằng: "Thôi chớ rẫy-ruồng, "Nhà Ngu xưa có Nga Hoàng, Nữ Anh. "Trượng-phu dù quyết hẹp tình. "Thẹn thay phụ tấm lòng thành lão nô." Chàng nghe lạy trước thềm hoa, 1970.- Xưa còn gia-khách nay ra thân tình.
49-Mai-sinh đi thi đội tên Mục Vinh (câu 1971-câu 1994)
50.- Xuân-sinh đi thi đội tên Khâu-Khôi (câu 1995 - câu 2024)
Lại còn một nỗi Xuân-sinh, Khâu-Khôi đã đổi tính-danh những ngày. Hà-nam nhập bạ phen này, Đỗ hương cũng định ngày rày tiến Kinh. Mấy tuần vừa tới đô-thành, 2000.- Trời kia xui-khiến hai sinh đỗ đầu. Cửa Phùng Đô-sát gặp nhau, Người tầm mẫu-cữu kẻ cầu ân-sư. Quân hầu vâng dặn vào thưa, Mời hai sinh hãy ngồi nhà nghênh tân. Kìa thì Mai, nọ thì Trần, Bâng-khuâng suốt buổi, tần-ngần giờ lâu. Khóc than kể hết chuyện nhau, Hợp tan mấy độ, trước sau mấy từng. Tỏ-tường chân tóc kẽ răng, 2010.- Kẻ mừng chị sống, người mừng mẹ yên. Hay đâu Đô-sát Lạc Thiên, Chiếu theo chủ khảo cầm quyền chưởng văn. Biết đâu truyền gọi gia-nhân, Vâng lời ra quán nghênh tân đón vào. Phùng công mừng-rỡ xiết bao, Hai sinh kể hết tiêu-hao chuyện mình. Ông rằng: "Gác chuyện gia-tình, "Trường-quan, Cống-sĩ có hình hiềm-nghi. "Ra ngoài hãy đợi trường kỳ, 2020.- "Nhờ trời khi dễ việc gì cũng xong." Hai chàng bái tạ Phùng-công, Ra chùa Tướng-quốc, trú chung một phường. Nhân khi vắng-vẻ đêm trường, Tỏ nguồn cơn trước, kể đường đất xưa.
Chú thích:
Hạnh-thư: Tức Hạnh Nguyên. truy-hoan: Theo đuổi cuộc vui-vẻ, nhưng chữ truy-hoan ở đây có lẽ không ổn, đáng đổi ra giao-hoan : sum-họp vui- vẻ. quốc-phục: Ăn vận quần áo bản-quốc. Có bản chép cố-phục, có lẽ lầm chữ cố với chữ quốc ? Chữ "cố" là cũ thì tối nghĩa, vì bên dưới có chữ như xưa. cố-quận: Quận cũ. Thị-lang: Một chức quan trong Bộ. từ-đường: Nhà thờ. đình-trường: tức trường-đình đã chú-thích ở trên. quan-hà: nghĩa đen quan là cửa aỉ, hà là sông, đây chỉ là nói về đường đất đi lại. phụng-chỉ: vâng chiếu-chỉ nhà vua. vinh-hương: vinh hiển về làng cũng như nói phú quý qui có hương, giàu-sang về làng cũ.
cố-gia: nhà cũ. đệ-nhất tiểu-thư: Tiểu-thư thứ nhất. Cô cả. thi-thư: Kinh Thi,kinh Thư, hai kinh trong sáu kinh, biểu-hiệu Nho-giáo. Kinh-luân: Sửa-sang tô-điểm việc chính-trị. long-tuyền: tên một thanh gươm sắc. Nguyệt lão: Vy Cố đời nhà Đường đi cầu hôn, gặp một cụ già ngồi tựa cái túi vải, hướng ra bóng trăng coi một quyển sách. Hỏi thì cụ nói : Đây là quyển sổ hôn-thú, trong túi này có sẵn dây đỏ, để buộc chân những cặp vợ chồng đã có tên trong sổ, dù sao cũng không tránh khỏi. Như thế ta mới gọi người xe duyên là Nguyệt-lão nghĩa là ông cụ già dưới bóng trăng. Trần-gia: nhà họ Trần, đây trỏ Hạnh Nguyên, con gái Trần Đông Sơ. Hạ-đường: xuống thềm . Vua Quang-Vũ nhà Hán có chị gái góa chồng, muốn lấy Tống Hoằng, nhưng Hoằng đã có vợ cả, Quang-Vũ hỏi ý : " Trẫm nghe người ta giàu thì đổi bạn, sang thì đổi vợ, có không ? " Hoằng thưa; "Tôi nghe nói người vợ lúc hàn-vi ăn tấm ăn cám có nhau, thì không bao giờ để ở dưới thềm, mà người bạn lúc nghèo hèn thì không có thể quên" (Thần văn Tào-khang chi thê bất khả hạ đường, bần tiện chi giao bất khả vong) .Quang-Vũ bảo chị : Việc không xuôi rồi ! Nga Hoàng, Nữ Anh: là hai con gái vua Nghiêu để gả cho vua Ngu-Thuấn. lão nô: Thằng già này. Châu-công tự nói nhún.
gia-khách: Khách trong nhà. Năm mây: bởi chữ Ngũ vân. Thi hương, thi hội, thi đình: Thi hương : hương thi, thi hội : hội thí, thi đình : đình thi . Tràng-an: Kinh-đô đời Đường, nay là huyện Trường-an thuộc tỉnh Thiểm-tây. nhảy sóng, đợi tuần hóa long: Nhảy sóng bởi chữ Khóa lãng. Hóa long : hóa rồng, cá chép hóa long, nói bóng về thi cử đỗ đạt. tài-tử, danh công: Kẻ có tài, người có tiếng bẻ quế, người hòng tung mây: Bẻ quế do chữ triệt quế . Tung mây do chữ phi vân, đều nói về đỗ đạt bay nhảy. Qui-mô trường-ốc: Qui-mô : khuôn phép . Trường-ốc : nơi trường thi. thập đạo: Mười ngả đường, con đường trước cửa trường đi vào các vi. bốn thành: trường thi ngăn riêng ra làm bốn vi tiền, hậu, tả, hữu.
Cột huyền bảng thẳng, cây đình liệu cao: Cột huyền bảng : cột treo bảng. Cây đình liệu : Cột đuốc đốt sáng ngoài sân . Đều là vật-dụng nơi trường thi. Vũ-môn ba đợt sóng đào: Câu này bởi câu " Vũ môn tam-cấp lãng " : người thi đỗ ví như cá hóa long nhảy qua ba lần sóng cửa vũ. nhập bạ: Vào sổ cũnh như nhập tịch. biên tên vào sổ đinh, đây nói Khâu Khôi nhận quán-chỉ ở Hà-nam. mẫu-cữu: Cậu - họ nhà mẹ - ân-sư:Thầy, người cất nhắc, làm ơn, cũng như người đỡ đầu. nghênh tân: Đón khách. chủ khảo: Người đứng chủ việc chấm trường, đứng đầu chấm thi. chưởng văn: Coi việc văn-học. gia-nhân: người nhà, đầy tớ. tiêu-hao: Tin tức. Trường-quan, Cống-sĩ: Trường-quan : Quan chấm trường . Cống-sĩ : Các sinh-viên thi hương đã đỗ Cống-sinh - cử-nhân - đi thi hội. trường kỳ: Kỳ hạn vào thi.