Trần Ngọc Châu len lỏi qua các đường phố Sài Gòn như người du kích đi trong đêm. Ông đi từ chỗ gần toà đại sứ Hoa Kỳ, xuống đường Tự Do(), ngang qua nhà thờ Đức Bà xây bằng gạch đỏ thô ráp, nằm trước công viên vừa được đổi tên là John F. Kennedy để tưởng nhớ tổng thống bị ám sát. Ông đi về phía khu vực đường Tự Do chật hẹp, gồm có năm khối nhà, chạy dài từ khách sạn Continental tới sông Sài Gòn, một sự kết hợp ồn ào Champs Élysées của Paris với Forty-second Street của New York. Ông hy vọng rằng trong đám quần chúng đông đảo ở đây, người ta sẽ không nhận ra ông, mà chỉ coi như một người nào đó đang bận rộn, ông mặc quần đen, áo sơ mi trắng với đôi dép rẻ tiền.
Những ngày Tết âm lịch, những ngày mà toàn thể Nam Việt Nam tạm thời quên cảnh chiến tranh đã qua và mọi người đã trở lại làm việc với năm 1970 theo dương lịch. Châu biết rằng cảnh sát cũng trở lại làm việc và như vậy ông càng gặp nguy hiểm. Ông đeo trên cái áo dân sự một tấm huân chương mà ông coi như lá bùa hộ mạng chống lại mọi sự nguy hiểm có thể xảy ra. Ông bây giờ là một chính khách, nhưng tấm huân chương này ông nhận được khi còn là một đại tá trong quân đội, khi ông còn phụ trách soạn thảo những chương trình hoạt động chính trị và kinh tế, thường được gọi một cách vắn tắt là “chương trình bình định” để phân biệt với các hoạt động thuần tuý quân sự. Châu là một trong những nhà lý luận chủ chốt về chiến tranh du kích ở Việt Nam. Ông đã học hết bậc trung học, sau đó theo những khoá đào tạo quân sự. Ông đã leo lên đến địa vị người đứng đầu một trong bốn mươi tỉnh của Nam Việt Nam, sau đó là thị trưởng Đà Nẵng, cuối cùng làm Tổng thư ký Hạ viện, một địa vị tương đương với Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ, hoàn toàn do khả năng của mình. Và trên từng bước đường tiến thân, ông lại tranh thủ thêm được nhiều bạn bè trong các quan chức dân sự Hoa Kỳ, và cả một số hạ và thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đến thăm xứ này, để thuyết phục họ đồng ý với ông rằng Hoa Kỳ đã sai lầm trong chiến lược tiến hành cuộc chiến tranh này.
Châu, lúc đó bốn mươi sáu tuổi, là người thích lý luận. Ông hơi to ngang so với người Việt Nam, chiều cao trung bình, đôi mắt linh lợi sắc sảo nhất là khi ông tìm cách trình bày quan niệm của ông về chiến tranh du kích cho dòng người Mỹ từ Washington không ngừng tuôn đến Sài Gòn. Trước hết và trên hết, ông giải thích cho họ bằng một thứ tiếng Anh chưa nhuần nhuyễn nhưng khẩn thiết rằng trong cuộc chiến tranh này không nhất thiết phải giết chết du kích. Cái trò giết người đếm xác là không thích hợp và có hại. Thường khi chỉ nghe nói như vậy là hầu hết người Mỹ đã choáng váng và im miệng. Rồi Châu trình bày tiếp với họ rằng Việt Nam ngay từ đầu là một cuộc chiến tranh diễn ra trên ba cấp độ. Tiềm lực quân sự của Cộng sản gồm có: 1) quân đội chính quy được hỗ trợ bởi 2) quân du kích được sự lãnh đạo và ủng hộ của 3) tổ chức chính trị ở cơ sở.
Theo Châu thì trong cuộc chiến tranh này, chìa khoá để giành thắng lợi nằm ở chỗ phải đánh bại tổ chức chính trị của Cộng sản. Chính là trên cương vị một tỉnh trưởng - chức vụ tương đương với một thống đốc tiểu bang Hoa Kỳ - mà Châu đã phát triền hầu hết mọi ý kiến của mình. Phiến quân Cộng sản được gọi là Việt Cộng cũng có một thống đốc của họ trong tiểu bang của Châu, và một bộ máy hành chính được kiềm soát chặt chẽ từ trên xuống dưới đến từng ngôi làng nhỏ nhất, mỗi ngôi làng như vậy đều có một xã trưởng Việt Cộng bí mật và một số người giúp việc gánh vác những công việc khác nhau, như thu thuế hay tuyên truyền chống lại bộ máy hành chính của Châu. Vị thống đốc Việt Cộng đó cũng tuyển mộ một tiểu đội Cảnh vệ quốc gia của mình để đánh lại quân đội của chính phủ Sài Gòn do Châu điều khiển. Và vị thống đốc Việt Cộng này còn có thể trông cậy ở các binh sĩ chính quy được trang bị tốt mà ông Hồ Chí Minh và bộ máy hành chính của ông ở Hà Nội sẽ đưa từ Bắc vào Nam Việt Nam.
Châu không muốn giết du kích Cộng sản mà muốn lôi kéo họ về với chính phủ Sài Gòn. Bởi vì nói cho cùng thì phần lớn họ là những người trẻ tuổi, ít được học hành và cũng không hẳn là Cộng sản mà chỉ là con cái của nông dân nghèo bị chính phủ trung ương ở Sài Gòn bạc đãi hay chí ít cũng bỏ rơi. Châu cho rằng có thể có một số ít người du kích cầm súng vì bị tổ chức chính trị của Cộng sản ép buộc, nhưng số đông chiến đấu vì họ có những điều bất bình chính đáng với chính phủ Sài Gòn.
Vì vậy việc đầu tiên của Châu là tìm hiểu và giải quyết những điều than phiền của họ và tìm cách chứng minh cho họ thấy là ông có thể cho họ một con đường đi tới tương lai tốt hơn Cộng sản. Ông tổ chức cái gọi là những “đội tìm hiểu dân nguyện” và gửi họ về làng để gặp gỡ và tìm hiểu thắc mắc của nông dân. Và ông tìm cách giải quyết những thắc mắc đó. Nếu một làng nào đó cần có một giếng nước để lấy nước uống thì ông sẽ đào cho họ. Nếu một làng khác không có trường học, ông sẽ cho họ một giáo viên.
Ông cũng đồng thời triển khai một chương trình ân xá. Ông khuyến khích những người trong hàng ngũ Việt Cộng quay về với chính phủ, đảm bảo với họ rằng họ sẽ không bị trừng phạt. Không những thế, ông còn tìm cho họ việc làm và đối xử với họ như những công dân tốt. Vì Châu là một tỉnh trưởng được lòng dân và được coi là lương thiện nên đã có một số đông Việt Cộng tin ông và đã hồi chánh.
Châu tin rằng có thể thắng cuộc chiến tranh này bằng các hoạt động chính trị hơn là quân sự. Nhưng ông cũng là một người thực tế nên ông hiểu rằng cũng có một số người trong bộ máy chính trị hành chính của Cộng sản sẽ không bao giờ từ bỏ cuộc đấu tranh của họ. Ông đã bỏ ra nhiều thời gian để theo dõi động thái của người đương nhiệm của phía bên kia, người tinh trưởng Việt Cộng. Ông không có ân oán cá nhân gì với người này. Châu còn muốn mời ông ta cùng với ông tham gia một cuộc tranh luận về dân chủ chống Cộng. Nhưng ông lại ghét những thủ đoạn của ông ta. Châu cho rằng dứt khoát phải loại trừ ông tỉnh trưởng Việt Cộng này, phải tổ chức bắt và nếu cần, giết ông ta.
Nhưng bằng cách nào? Châu hiểu rằng nếu gửi quân đi bắt ông tỉnh trưởng Việt Cộng này thì trên đường đi chúng sẽ giết thêm nhiều thường dân vô tội và càng làm cho họ đi theo Việt Cộng nhiều hơn nữa. Ông cũng có thể kêu máy bay hay đại bác bắn vào làng ông tỉnh trưởng kia đang ẩn náu. Nhưng việc làm đó sẽ đem lại cái gì sau khi ngôi làng bị phá huỷ và nhiều người nữa bị giết? Không, Châu quyết định sẽ làm việc này một cách gọn nhẹ và tập trung vào một mục tiêu duy nhất. Trước hết là sử dụng kỹ thuật tình báo để phát hiện những thành viên trong bộ máy chính trị hành chính của Việt Cộng trong tỉnh, rồi sai những đội ba người đi bắt cóc hoặc thủ tiêu họ. Vì Việt Cộng đã dùng thủ đoạn khủng bố như một vũ khí để cai trị nông dân nên Châu gọi đội ba người của ông là “đội chống khủng bố”. Chính đây là bước khởi đầu của cái sau này được gọi là Chương trình Phượng hoàng, một chương trình gây nhiều tranh cãi nhất trong chiến tranh Việt Nam.
Vào những năm 60, khi Châu bắt đầu triển khai chiến lược không chính thống này của mình trong cuộc chiến tranh, ông thấy rất khó giải thích những phương pháp của mình cho các sĩ quan quân đội Hoa Kỳ, lúc đó đang được gởi sang Việt Nam để tăng cường cho đội ngũ cố vấn hòng đối phó với Việt Cộng đang giành được thắng lợi khắp nơi trong nước. Khi nói tới tổ chức chính trị của Cộng sản thì ông thấy hầu hết nhân viên quân sự Hoa Kỳ cứ ngây người ra mà không hiểu gì cả. Thứ nhất, họ hiểu rất ít về đất nước này cũng như về phương pháp tổ chức của Cộng sản; thứ hai, họ được huấn luyện để giết quân địch chứ không phải để phá hoại bộ máy hành chính và cai trị của Cộng sản.
Trong tất cả những điều Châu nói, họ chỉ hiểu được có một điều; viên tỉnh trưởng Việt Cộng, một người có khả năng tuyển mộ được hàng trăm chiến sĩ du kích rõ ràng là người có giá trị cho đối phương hơn là một người lính cầm một cây súng và làm theo mệnh lệnh. Ở Mỹ, viên thống đốc một tiểu bang ở nhà lớn, đi xe sang và xuất hiện trên vô tuyến truyền hình. Ở Nam Việt Nam, viên thống đốc Việt Cộng lại sống bí mật, lúc nào cũng di động, mặc bộ bà ba đen như một người nông dân hay một người du kích lại mang nhiều tên gọi khác nhau. Cả một mớ bòng bong.
Ngoài ra, không phải lúc nào Châu cũng gây được ấn tượng tốt với các sĩ quan Mỹ khi ông nói chuyện với họ về hoạt động chính trị. Nhiều khi ông thiếu kiên nhẫn và tỏ ra ngang ngược, vì ông sốt ruột muốn bắt tay vào hành động để chiến thắng cuộc chiến tranh. Người Mỹ thì thường ngang ngược vì họ đã quen với đám sĩ quan Nam Việt Nam thường làm ra vẻ kênh kiệu ngổ ngáo để che đậy thân phận một đồng minh châu Á nghèo khó. Người Mỹ biết rằng con người Việt Nam hành động ngổ ngáo kia, sớm hay muộn, cũng sẽ xuống nước để xin xỏ họ một cái gì đó, một món quà ở chỗ đồi tiền hay một lời gửi gắm để cất nhắc; con người ngang ngược bề ngoài này nhiều khi lại tỏ ra nhút nhát lúc lâm trận; cũng có khi mặc cả để ăn hối lộ của nông dân. Nhưng Châu không phải là loại sĩ quan như vậy. Ông ta là một người can đảm, lương thiện (tất nhiên là theo những tiêu chuẩn của Sài Gòn) và ông ta không xin xỏ gì cả. Vấn đề mà nhiều nhân viên quân sự Mỹ đã gặp phải ở Châu là ông ta đã hành động - phải, hành động trên cơ sở hoàn toàn bình đẳng. Đó là một điều rất hiếm có trong quan hệ Việt - Mỹ nên không thể không gây ra nhiều bối rối.
Như vậy, hầu hết những ý kiến của Châu đều không được đếm xỉa đến hoặc bị cho qua và nhân viên quân sự Mỹ tiếp tục đối xử với mọi người du kích như nhau, không cần biết đó là viên tỉnh trưởng hay nông dân mù chữ. Giết thật nhiều Việt Cộng, bất kể chúng là ai, các sĩ quan Mỹ tin tưởng rằng làm như vậy thì cuối cùng chúng sẽ đầu hàng.
Nhưng Châu không hề nản chí trong việc vạch kế hoạch để đánh bại Cộng sản bằng chính những luật chơi của họ, mặc dầu tỉnh do Châu làm tỉnh trưởng - tỉnh Kiến Hoà, phía Nam Sài Gòn là một trong những tỉnh bị Cộng sản kiểm soát nhiều nhất. Thêm một khó khăn, Châu và vợ ông sinh trưởng ở Huế, miền Trung Việt, giọng nói và cách ăn uống khác người địa phương nên bị người Nam nhìn bằng cặp mắt nghi ngờ. Cũng giống như một người ở New York lại được chỉ định làm thống đốc tiểu bang Arkansas mà không được sự đồng tình của dân chúng tiểu bang đó vậy.
Nhưng Châu và bà vợ xinh đẹp của ông đã nhanh chóng vượt qua được sự nghi ngờ của người địa phương. Hai vợ chồng biết cách sống thư thái và không hề hách dịch với người Việt miền quê. Hai vợ chồng ông có với nhau tới sáu mặt con, phù hợp với tập quán đông con của người miền Nam. Châu biết đi chung và chống nạnh nói chuyện với nông dân mà không lên giọng kẻ cả, cái giọng thường có của những người thuộc tầng lớp trên như vợ chồng Châu. Ông là một người tràn đầy nghị lực và khỏe mạnh - Châu không hút thuốc, ít uống rượu - và hay thình lình xuất hiện ở bất cứ nơi nào trong tỉnh của ông.
Khi ông nhận chức tỉnh trưởng Kiến Hoà, chỉ có 80.000 trong số 530.000 dân trong tỉnh được coi là nằm dưới quyền kiểm soát của chính phủ Sài Gòn. Trong vòng một năm, Châu đã nâng số đó lên 220.000. Và ông thành công như vậy trong lúc có nhiều tỉnh khác lại bị Cộng sản kiểm soát nặng hơn trước.
“Cho tôi một ngân sách bằng giá trị một chiếc máy bay trực thăng của Mỹ,” Châu hay nói, “tôi sẽ cho anh một tỉnh đã được bình định. Có nhiều tiền, tôi sẽ nâng cao mức sống của nông dân hơn nữa, và trả lương công chức trong tỉnh cao hơn nữa đề họ không còn phải nghĩ tới chuyện ăn cắp nữa".
Trong khi các sĩ quan quân đội Hoa Kỳ không biết phải đối xử với Châu như thế nào thì có một nhóm nhỏ người Mỹ, phần lớn là quan chức dân sự làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ lại hiểu được giá trị chiến lược của Châu và chống lại cách thức tiến hành chiến tranh của Lầu Năm Góc là tập trung vào việc giết kẻ địch và đếm xác. Người lãnh tụ tượng trưng cho nhóm này là Edward G. Lansdale, chuyên viên tình báo chính trị đã tổ chức chính phủ Sài Gòn đầu tiên sau khi quân đội của ông Hồ Chí Minh đánh bại Pháp năm 1954. Châu và Lansdale lại giống nhau ở chỗ cả hai đều là những sĩ quan, không tự kìm chế và nói năng tự do, cả hai cùng cho rằng có thể thắng trong cuộc chiến này bằng những kỹ thuật chính trị hơn là bom đạn. Và những người Mỹ ủng hộ Châu lại là những người của Lansdale bằng cách này hay cách khác - hoặc họ là những nhân viên tình báo đã cùng làm với Lansdale, hoặc họ cùng quan điểm với Lansdale, cho là phải biết tiếp cận cuộc chiến này như là một xung đột chính trị quân sự hỗn hợp thì mới mong giành được tiến bộ. Điều đó có ý nghĩa là những người này không đồng quan diềm với nhau về rất nhiều vấn đề, một số người có thể coi là bảo thủ, ôn hoà hay tự do, nhưng tất cả đều có một điểm nhất trí là ủng hộ Châu.
Chính là nhờ những cố gắng của họ một phần lớn mà một số chương trình Châu triển khai trong tỉnh được áp dụng trong cả nước. Những đội sưu tầm dân ý do Châu lập ra đã hoà hợp với những đội hành động nhân dân do một sĩ quan Việt Nam khác đề xướng và kết quả là nay chương trình bình định trở thành nguồn hy vọng chủ yếu trong việc lôi kéo nông dân về với chính phủ. Chương trình ân xá của Châu, cho phép Việt Cộng về đầu hàng mà không bị trừng phạt đã được triển khai ra khắp các tỉnh. Những đội chống khủng bố do ông thành lập để phá hoại tổ chức chính trị hành chính của Việt Cộng đã phát triển thành chương trình Phượng hoàng.
Điều hết sức mỉa mai, chính Châu là người cho rằng việc giết Cộng sản phải được coi là kế sách cuối cùng trong công cuộc bình định, lại trở thành cha đẻ của chương trình Phượng hoàng mà những năm sau này bị phong trào chống chiến tranh ở Mỹ gọi là chương trình “ám sát”. Trong đầu óc của một số người Mỹ thì chương trình Phượng hoàng dứt khoát là một điều sai lầm và phi đạo lý trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong thực tế, chương trình Phượng hoàng, được quảng cáo rùm beng nhưng ít ai biết rõ, đã trở thành một sự mô tả tóm tắt của toàn bộ chương trình bình định và những thất bại của Mỹ.
Nhưng những người ủng hộ Châu thì biết rõ thực chất của vấn đề hơn, họ biết rằng những chương trình của Châu đã bị tách khỏi bối cảnh của chúng, và Châu vẫn là một nhà tư tưởng giàu tưởng tượng nhất về cuộc chiến tranh này. Và họ cũng hiểu rằng những ý kiến không được chính thống như vậy của Châu và Lansdale đã làm cho họ thêm thù bớt bạn.
Trong trường hợp của Châu thì kẻ thù quan trọng nhất lại là một người bạn cũ. Đó là Nguyễn Văn Thiệu,Tổng thống của Nam Việt Nam, đã cho cảnh sát tìm bắt Châu. Trong thời gian họ cùng dạy tại một học viện quân sự và cùng ở một nhà, có lần Châu đã cứu vợ Thiệu khỏi chết ngạt vì khói than trong nhà bếp. Những năm sau đó, quan điểm của hai sĩ quan Việt Nam này về cách tiến hành chiến tranh ngày càng khác nhau. Châu tin rằng Việt Cộng không thể nào bị đánh bại chừng nào chính quyền Sài Gòn còn bị tham nhũng lũng đoạn. Châu cũng cho rằng đã đến lúc phải mở những cuộc thương lượng với Cộng sản và biến cuộc chiến thành cuộc đấu tranh chính trị. Giữa việc Châu kêu gọi thương lượng với việc Châu tố cáo tham nhũng, Thiệu ghét việc nào hơn thì khó mà biết được. Nhưng có một điều rõ ràng là với địa vị quan trọng của mình trong Hạ viện Châu đã trở thành mối de doạ chính trị đối với Thiệu và những người thân tín.
Thiệu đã tìm cách loại trừ Châu, khi cảnh sát của ông đã bắt được một gián điệp Cộng sản cao cấp, một sĩ quan tình báo của Bắc Việt Nam tên là Trần Ngọc Hiền. Qua những cuộc thẩm vấn, Hiền khai rằng ông là anh ruột của Châu sau mười sáu năm xa cách, họ đã tiếp xúc lại với nhau từ năm 1965 tới năm 1968.
Không lâu sau đó người của Thiệu đã rêu rao rằng Châu đã gặp anh của mình và không nghi ngờ gì nữa, chính Châu cũng là gián điệp của Cộng sản. Thế là một chiến dịch đã được phát động nhằm tước quyền bất khả xâm phạm nghị sĩ của Châu để bắt và cho Châu vào tù. Lúc đầu Châu không quan tâm lắm đến lời tố cáo này. Phải, ông có gặp người anh, nhưng sau đó ông đã báo cáo cuộc tiếp xúc đó với sứ quán Hoa Kỳ. Thế rồi Châu ngồi chờ ông đại sứ và ông trưởng chi nhánh CIA ở Sài Gòn đến cứu ông. Nhưng chính Thiệu đã xếp đặt kế hoạch chống lại Châu cho nên từ văn phòng của đại sứ Ellsworth Bunker cũng như trưởng chi nhánh CIA Theodore Shackley, chẳng có một lời nào được phát ra để bênh vực cho Châu cả.
Kinh ngạc, rồi phẫn nộ, nhóm nhỏ những người bạn Mỹ của Châu bắt đầu phản ứng. Họ hiểu rằng người ta đã bố trí để loại bỏ Châu, toà đại sứ và CIA đã sẵn sàng bỏ rơi ông vì lợi ích của việc ủng hộ Thiệu và vì mục tiêu ổn định chính trị. Họ sẵn sàng đấu tranh ủng hộ Châu, bởi vì họ tin rằng đấu tranh vì Châu cũng là đấu tranh vì lương tri của nước Mỹ, cho dẫu có vì thế mà họ bị loại ra ngoài cũng mặc. Dù tình thế có ra sao thì cũng không được vội vàng hấp tấp, không được buồn phiền hay lẩn tránh trách nhiệm của mình. Châu là một người bạn trung thực của Hoa Kỳ, một người Việt quốc gia đã có cống hiến cho những lý tưởng dân chủ, những lý tưởng tốt đẹp thường được viện dẫn làm lý do hy sinh của biết bao thanh niên Mỹ và lý do lãng phí biết bao tài sản nước Mỹ trong một cuộc chiến tranh rất xa quê hương. Những người ủng hộ Châu nghĩ rằng nếu họ bỏ rơi ông, họ sẽ phản bội lại những nguyên tắc đã đưa họ sang Việt Nam.
Trong lúc Châu đang đi dọc theo đường Tự Do, mạnh dạn dừng lại một lúc trước toà nhà Hạ viện do cảnh sát canh giữ thì những người bạn Mỹ của ông đang thảo ra một kế hoạch để cứu ông khỏi tay chính phủ của ông, - và chính phủ của họ.
***
Từ trên trời nhìn xuống, người ta thấy Sài Gòn lấp lánh dưới ánh mặt trời. ánh sáng phản chiếu từ sông rạch bao quanh thành phố và từ hàng ngàn mái nhà tôn. Ngay cả lớp khói mù ô nhiễm từ thành phố bay lên mà người ta có thể trông thấy từ năm mươi dặm xa, càng làm tăng chứ không làm giảm độ sáng của nó. Những con đường nhỏ hẹp và những đại lộ rợp bóng cây, kín mít những xe quân sự, xe đạp, xe hơi, xe xích lô, xe gắn máy, nhưng từ trên trực thăng nhìn xuống, người ta không nghe tiếng động, chỉ thấy xe nhung nhúc như những sinh vật bé tí.
Chỉ khì nào anh trở xuống mặt đất thì anh mới thấy được thực chất của thành phố này. Thời tiết nóng và ẩm ướt. Lưu thông đông nghịt, kèm theo tiếng máy nổ và còi ôtô. Sương mù xanh của khói xe làm nghẹt thở. Trên lề đường đầy những người buôn bán rau quả, đồng hồ, thuốc lá, vé xổ số, whisky, bia, bột giặt, quần áo lính, thuốc đánh răng… Ăn mày, gái điếm, cắp vặt lang thang đó đây ngoài đường rình mồi. Bên ngoài những biết thự kiểu Pháp, những khách sạn nơi người Mỹ ở, với máy điều hoà không khí, đường đi lối lại đầy những con chó gầy gò khẳng khiu, dây thép gai, gà con, hộp thiếc và trẻ con thì chỗ nào cũng có. Những căn nhà mái tôn, nhìn trên trời xuống thì lấp lánh đẹp như thế nhưng bây giờ mới thấy rõ tường của nó làm bằng thiếc lon bia. Một gia đình có thể sống đàng sau bức tường phía trước gồm chừng một trăm huy hiệu của bia Miller High Life, còn nhà bên cạnh thì chưng diện với nhãn hiệu sáng sủa hơn của hãng Budweiser hoặc Pabst Blue Ribbon. Những căn lều lợp tôn này không có điện, không có nước máy, không có toa-lét. Người lớn và trẻ con nằm ngủ cạnh nhau như cá mòi trong gian buồng duy nhất của căn nhà. Và như vậy họ đã là những người có phúc, nhiều người khác ngủ trên vỉa hè, dưới gầm cầu, trong ống cống không dùng đến.
Đến năm 1970, Sài Gòn đã trở thành một thành phố có mật độ dân số cao nhất thế giới. Một phần lớn dân cư nông thôn, vào khoảng bốn triệu người bị ném bom và bắn phá phải rời bỏ đồng ruộng của họ mà chạy vào các thành phố và thị trấn. Gần một nửa cư dân của nước này sống trong các đô thị. Nhiều dân thường đã bị giết trong khi rời bỏ quê quán của họ. Chương trình bình định do Edward Lansdale và nhân viên của ông thảo ra những năm trước đây với ý nghĩ dùng những biện pháp chính trị và kinh tế thân dân mà khuyến khích dân chúng rời bỏ Cộng sản trở về với chính phủ, nay bị biến thành một tổ chức sử dụng nhân lực và tài lực của mình vào việc dọn dẹp những gì còn lại sau những cuộc hành quân của Mỹ. Chương trình Phượng hoàng đã tiêu chuẩn hoá và tự động hoá việc bồi thường những tai nạn chiến tranh do quân đội Mỹ gây ra cho dân thường Việt Nam. Thí dụ như có một dân thường Việt Nam chết vì tai nạn trong một cuộc hành quân của Mỹ thì chương trình Phượng hoàng sẽ đền cho những người còn sống một số tiền tương đương với bốn mươi đô-la, nếu người chết đó từ mười lăm tuổi trở lên, và hai mươi đô-la nếu người đó từ mười lăm tuổi trở xuống. Người đứng đầu một gia đình sẽ nhận được số tiền tương đương với ba mươi đô-la và mười lăm ngày gạo, bồi thường cho một ngôi nhà bị phá huỷ từ 20 tới 50 phần trăm. Nếu ngôi nhà bị phá huỷ trên 50 phần trăm thì người chủ nhà nhận được bảy mươi lăm đô-la, mười tấm tôn lợp nhà và ba mươi ngày gạo. Tới năm 1970, chính phủ Hoa Kỳ đã bồi thường 4.732.750 đô-la cho dân chúng Việt Nam về những tai nạn chiến tranh do quân đội Mỹ gây ra, tính trung bình khoảng một đô-la cho mỗi người nông dân Việt Nam bị bứng khỏi đồng ruộng của họ.
Cuộc di dân cưỡng bách vào các đô thị này đã làm thay đổi bộ mặt cuộc chiến tranh. Trước hết, ở nông thôn chẳng còn bao nhiêu người cho Cộng sản tuyển mộ nữa. Quan trọng hơn nhiều là sự kiện sau đây. Chiến lược của Châu là phá vỡ tổ chức chính trị hành chính của Cộng Sản, coi đó là điều kiện không thể thiếu để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh này. Điều đó nay đã xảy ra - không phải như Châu đã dự đoán mà là do một tính toán sai lầm - của chính Cộng sản. Sai lầm này nằm trong việc Cộng sản đã phát động một cuộc tổng tiến công vào các thành thị trong dịp Tết 1968, tin rằng cuộc tổng tiến công này sẽ kéo theo một cuộc tổng nổi dậy của nhân.dân Nam Việt Nam buộc người Mỹ phải rút về nước. Có lẽ đây là một mỉa mai tàn bạo nhất của chiến tranh, Việt Cộng đã bị tiêu hao rất nặng trong cuộc tiến công Tết, mà không có cuộc nổi dậy của nhân dân, nhưng từ trong thất bại của họ, chính họ cũng không ngờ là họ đã giành được một thắng lợi tâm lý hết sức lớn. Đối với dân chúng đã mệt mỏi vì chiến tranh ở Hoa Kỳ thì cảnh chiến sĩ du kích đánh vào toà đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn là bằng chứng cuối cùng cho thấy rằng cuộc chiến tranh này không thể nào thắng được và việc rút các lực lượng Mỹ sẽ bắt đầu trong năm tới.
Dân chúng Mỹ thì không biết, nhưng Cộng sản thì lại biết rất rõ cái giá mà họ phải trả cho thắng lợi tâm lý to lớn đó. Tổn thất của Việt Cộng trong dịp Tết, thắng lợi bước đầu của chương trình Phượng hoàng, phát triển mạnh trong năm tiếp theo cuộc tổng tiến công, cho thấy là họ bị đánh đau hơn bao giờ hết trong cuộc chiến này.
Cộng sản bị đánh đau tới mức nào, chi nhánh CIA ở Sài Gòn biết rất rõ. Cơ quan này ở hai tầng cuối cùng trong toà nhà sáu tầng của đại sứ quán. Những nhà phân tích của họ đang mải mê nghiên cứu một văn kiện vừa bắt được của Cộng sản, một văn kiện chính trị quan trọng của ban lãnh đạo cao cấp của Cộng sản. Mặc dầu được che giấu bằng những từ mơ hồ, văn kiện này - gọi là Nghị quyết Chín của Trung ương Cục miền Nam - thừa nhận rằng Cộng sản đã bị thương vong nặng nề trong cuộc tiến công Tết và không có khả năng mở cuộc hành quân nào khác, theo ý kiến của CIA, ít nhất trong hai năm tới.
Cũng trong thời gian ấy, một quan chức của chương trình bình định biết nói tiếng Việt đã tự mình đi điều tra dư luận ở vùng nông thôn. Quan chức Mỹ này muốn tránh các nhà cầm quyền Nam Việt Nam nên đã đi những con đường vòng trên một chiếc xe dân sự và khi ông thấy nông dân đang đập lúa trên đồng thì ông dừng xe lại nói chuyện với họ. Những nông dân này tưởng ông là một người Pháp sống lâu năm ở xứ này. Qua cuộc nói chuyện với họ, ông biết rằng họ vẫn ủng hộ Cộng sản trong một chừng mực nào đó, không phải vì lý do tư tưởng mà vì họ là nạn nhân của những cuộc xung đột vũ trang. Nhà cửa của họ bị ném bom và bắn phá và họ tố cáo người Mỹ và chính quyền Sài Gòn về việc phá hoại nhà cửa của họ.
Như vậy, nếu kết hợp những phân tích của CIA về văn kiện chính trị quan trọng mà họ vừa bắt được với những cuộc phỏng vấn của quan chức bình định, người ta có một bản đánh giá tình hình tốt nhất vào đầu năm 1970. Cộng sản đã bị thiệt hại năng. Nhưng điều đó không có nghĩa là dân chúng ủng hộ chính phủ Sài Gòn và Thiệu. Thiệt hại của Cộng sản thì dễ thấy hơn. Đường sá bây giờ đi rất an toàn. Không ai nhớ rằng đã bao lâu rồi mới được như vậy. Mặc dù lạm phát đang hoành hành trong nền kinh tế giả tạo của chiến tranh, một bộ phận dân chúng đã tìm cách nâng cao được mức sống của mình, bất chấp những cuộc di dân vào đô thị. Các quan chức Mỹ thường bị báo chí phê phán mỗi khi họ công khai bày tỏ thái độ lạc quan. Nhưng tiến bộ là có thật. Còn phần khó thấy hơn, tức là việc dân chúng không ủng hộ Thiệu và chính phủ Sài Gòn thì đại sứ Ellsworth Bunker và người đứng đầu cơ quan tình báo ở đây là Theodore Shackley đang tìm cách giải quyết, ông này đang nắm trong tay những hồ sơ về cuộc tiếp xúc của Châu với người anh Cộng sản của ông.
***
Châu hợp tác chặt chẽ với CIA trong những dự án về bình định nhưng quan hệ của ông với cơ quan này lại căng thẳng, đôi lúc thành xung đột công khai. Trước đây ông đã hợp tác rất tốt với những nhân viên tình báo hoạt động chính trị, những người đã học được ở Lansdale phương pháp đối xử với người Việt Nam, những con người kiên nhẫn và dễ tính, biết cách đạt tới mục tiêu của mình một cách gián tiếp. Ted Shackley không phải là một người theo kiểu của Lansdale, trong thực tế, là một người ngược hẳn lại. Dù cho người ta có phê bình Shackley như thế nào, ông vẫn là một sĩ quan tình báo loại một, khả năng làm việc rất tốt. Ông ăn nói ngắn gọn, rõ ràng, đi thẳng vào đề. Nói có sách mách có chứng. Ông nhanh nhẹn đến nỗi những con người vốn thông minh, lanh lợi làm việc với ông xem vẫn chậm chạp, lù đù. Bởi vì ông cao lớn, da tái, mờ tóc bù xù, đeo kiếng gọng sừng, thích mặc áo lùng thùng nên những người dưới quyền đặt cho ông biệt danh là “con ma tóc vàng” Shackley, bốn mươi hai tuổi và tốt nghiệp trường Đại học Maryland, đã bắt đầu chấn chỉnh chi nhánh CIA ở đây ngay sau khi ông đến nhận chức năm 1969. Với con số tám trăm nhân viên, chi nhánh CIA ở đây là chi nhánh đông nhân viên nhất trên thế giới.
“Mọi người ở chi nhánh CIA ở đây đều nể sợ Ted Shackley vì vừa qua, ông chính là người đã chỉ đạo cuộc chiến tranh bí mật ở Lào”, Frank Snepp, một nhà phân tích của CIA đã nói. “Trước đó, ông lại là người lãnh đạo chi nhánh CIA ở Miami trong những ngày cao điềm chống Castro, và sau đó ông phục vụ ở Đức. Ai cũng cho rằng ông là một sĩ quan tình báo tuyệt hảo. Ông lại tập hợp quanh mình toàn những người có năng lực, tất cả đều rất náo động, nếu ông là người trẻ và là người của CIA thì ông sẽ rất thích họ”.
Frank Snepp không phải là người duy nhất đã nhanh chóng nhận ra rằng Ted Shackley rất nghiêm túc trong việc tiến thân. Có dư luận cho rằng Shackley đang trên đường tiến tới chức vụ cao nhất trong ngành, Giám đốc Cục tình báo trung ương. Shackley hình như chỉ chú ý tới những việc sắp xảy ra. Hiện nay, ông đang bị vướng vào một chuyện không may, liên quan đến việc thủ tiêu một thông dịch viên người Việt Nam làm cho các Lực lượng Đặc biệt của Hoa Kỳ.
Các Lực lượng Đặc biệt thường phái các đội biệt kích vượt biên giới Nam Việt Nam, thâm nhập lãnh thổ Campuchia, và trong một cuộc thâm nhập vào một doanh trại của quân Bắc Việt, họ đã lấy được một bức ảnh, trong đó họ nhận ra người thông dịch Việt Nam làm tại Bộ chỉ huy của họ đang nói chuyện với một sĩ quan Bắc Việt Nam. Một cuộc thí nghiệm để phát hiện nói dối hình như đã xác nhận rằng người thông dịch này - tên là Thái Khắc Chuyên - là mộtgián điệp hai mang. Các Lực lượng Đặc biệt đã bắn vào đầu Chuyên, buộc đá vào xác anh ta và ném xuống biển. Việc làm này sau đó đã bị phát hiện và một toà án quân sư đang khởi sự cho điều tra.
Để bào chữa cho hành động của mình, các Lực lượng Đặc biệt nói rằng họ đã xin ý kiến sĩ quan liên lạc của CIA về cách xử trí với Chuyên và được bảo cho biết là phải kết liễu với tổn thất lớn nhất - đó là tiếng hoa mỹ họ quen nói với nhau, có nghĩa là “giết nó đi”. Một luật sư được mời từ New York đến để cãi cho lính Mũ Nồi Xanh, không khiêm tốn lắm trong việc tự quảng cáo, đã tung ra một chiến dịch đổ vấy trách nhiệm cho CIA. Ông ta dẫn lời viên sĩ quan liên lạc của CIA nói rằng Ted Shackley đã “có trách nhiệm trong hai trăm năm mươi vụ ám sát chính trị ở Lào rồi, bây giờ thêm một vụ thì nhằm nhò gì”.
Trong vụ này, chỉ có một sự kiện duy nhất được xác nhận đó là cái chết của người thông dịch viên Việt Nam. Cục tình báo trung ương trước đây đã từng chỉ huy các Lực lượng Đặc biệt và hiện nay vẫn còn giúp đỡ họ về hậu cần. trong khuôn khổ của cuộc chiến tranh tâm lý, và với các sĩ quan liên lạc - nhưng Cục này không còn trách nhiệm chỉ huy nữa. Quyền chi huy đó thuộc về Lực lượng Đặc biệt và thuộc về chính Quân đội Hoa Kỳ. Viên sĩ quan liên lạc của CIA nói gì thì nói, Lực lượng Đặc biệt cũng không buộc phải tuân theo chỉ thị của ông ta và giả thiết là các Lực lượng này đã biết rõ những luật lệ của chiến tranh. Những chuyện này không dính líu gì tới Shackley là một người mới đến cả.
Dù sự thật trong vụ này ra sao, nó cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho chi nhánh của CIA ở đây do phản ứng của vị tư lệnh quân sự, tướng Creighton Abrams. Tướng Abrams rất tức giận các Lực lượng Đặc biệt vì đã làm mất uy tín bộ chỉ huy của ông về nguyên tắc, ông cũng giống như nhiều sĩ quan trong quân đội chính quy, không thích đám Mũ Nồi Xanh lúc nào cung phô trương hình ảnh của mình như là những phần tử ưu tú nhất, kiêu ngạo và ngổ ngáo. Riêng đối với cá nhân tướng Abrams, cái thói hợm hĩnh này lại càng làm cho ông ghét vì bản thân ông cũng được coi là một phần tử ưu tú, khi ông là một sĩ quan chỉ huy xe tăng trong đạo quân của tướng George Patton thời danh trong Chiến Tranh Thế Giới thứ II ở Âu châu. Sĩ quan và binh lính của Patton từng được coi là những phần tử ưu tú nhất trong cuộc chiến này, đó là những con người lấy chiến công thay cho lời nói, chứ đâu như cái đám người nhảy múa chung quanh cái mũ nồi rồi hát những bài ca ngợi chính mình.
Creighton Abrams phản ứng rất mạnh chống lại các Lực lượng Đặc biệt. Triển vọng thăng quan tiến chức đầy hứa hẹn của người chỉ huy đơn vị này coi như bị thủ tiêu. Sau đó, Abrams quay lại trả thù CIA. Ông tách chi nhánh CIA ở đây khỏi bộ chỉ huy quân sự của ông và tìm mọi cách cô lập nó. Hành động của Abrams rất có hại cho Shackley, nếu chỉ nghĩ tới một lý do là Abrams lại được Bunker đánh giá rất cao. Shackley là một nglrời đang lên và có nhiều triển vọng, nhưng vừa mới tới Sài Gòn đã bị hai nhân vật có thế lực ở đây cho ra rìa, mà đó lại là hai người có ảnh hưởng lớn tới tiền đồ của Shackley.
“Vụ này ảnh hưởng xấu không thể tưởng tới các mối quan hệ”, Frank Snepp nói. “Căng thẳng tới mức mà trong các buổi báo cáo tình hình của Abrams cho Bunker, nhiều khi Shackley cũng không được tham dự. Vì thế mà trong năm 1970, Shackley và chi nhánh CIA ở đây đã quyết định là đánh một con đường vòng tới đại sứ Bunker, tranh thủ sự tín nhiệm của ông này để bù lại sự chèn ép của giới quân sư. Một nửa thời gian làm việc của chúng tôi được dành ra để cung cấp cho Shackley những thông tin cần thiết để cải thiện hình ảnh của CIA. Nhiều đêm tôi và Shackley phải thức rất khuya tại nhà ông ta, để viết báo cáo cho ông hoặc để ghi những điều ông nói và viết lại sao cho ông có thể dùng để gây ấn tượng tốt nhất tới đại sứ Bunker”.
Mối quan tâm hàng đầu của đại sứ Bunker là củng cố quyền lực của Nguyễn Văn Thiệu với tư cách là Tổng thống của Nam Việt Nam. Củng cố sự ổn định chính trị của chính phủ Sài Gòn là trung tâm mọi hoạt động của sứ quán suốt mười sáu năm qua, từ năm 1954 khi Ngô Đình Diệm từ chỗ lưu vong trở về nước tới nay, và đã trải qua một thời gian tưởng chừng tuyệt vọng khi Diệm bị lật đổ năm 1963. Với Bunker ở ghế đại sứ, chính phủ Sài Gòn xem ra được ổn định hơn những năm trước.
“Dưới quyền của Shackley, chi nhánh CIA ở đây được chia ra thành hai phân ban - COD và POD - COD là phân ban theo dõi các hoạt động Cộng sản (Communist Operations Division) còn POD là phân ban theo dõi các hoạt động chính trị (Political Operations Division)”, Snepp nói, “Phân ban thứ hai này được tổ chức để theo dõi và tác động tới tình hình chính trị Nam Việt Nam, tìm cách cải thiện bộ mặt của chế độ Thiệu. Dĩ nhiên là họ còn nhiều mục tiêu khác nữa”
Một nhà phân tích khác của CIA là Bill Kohlmann phát biểu đồng tình. “Vâng, đó là mục tiêu quan trọng. Vì Bunker tin rằng Thiệu là hy vọng duy nhất để có được một chính phủ ổn định cho nên ông ủng hộ Thiệu về mọi phương diện. Và ông cho phép Shackley làm những gì có thể làm được để củng cố chế độ Thiệu”
Cơ quan CIA đã theo dõi Châu trong nhiều năm và có đầy đủ hồ sơ về ông. Khi Châu bắt đầu xung đột với Thiệu, Shackley đã yêu cầu những nhà phân tích trong cơ quan của ông lập ra một hồ sơ đầy đủ về Châu để ông báo cáo cho Washington và Sài Gòn
Frank Snepp nói rằng ông đã đọc toàn bộ hồ sơ để trả lời câu hỏi do Shackley nêu ra: “Ông có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy Châu là Cộng sản không?”
Bill Kohlmann lưu ý một điểm: “Người ta không hỏi ông hãy “cân nhắc mọi bằng chứng về mọi mặt và phân tích con người đó xem ông ta có thể là Cộng sản không” mà chỉ hỏi “có bất kỳ bằng chứng nào rằng Châu là Cộng sản không” mà thôi.
Frank Snepp nói thêm: “Tôi sẽ tự bào chữa rằng tôi không phải là người duy nhất làm việc đó mà có tất cả ba hay bốn người gì đó làm việc này. Và nếu người ta hỏi chúng tôi có bằng chứng gì ngược lại về Châu không thì chúng tôi sẽ có câu trả lời. Nhưng người ta không hỏi. Người ta chỉ hỏi rằng chúng ta có bằng chứng nào về quan hệ của Châu với Cộng sản không. Không thể chối cãi rằng Châu đã có quan hệ với ông Hiền, anh của ông ta. Và đó là kết luận mà chúng tôi đã đi đến"
Chú thích:* Nay là đường Đồng Khởi