Những lời nhắc nhở của Kim Anh về gia đình khiến tôi vừa nhớ nhà vừa bực bội.
Lâu lắm rồi, tôi tự tạo cho mình thói quen biết đè nén con tim. Tôi vốn dễ cảm xúc nhưng với bảnh tính ngông nghênh cộng thêm những trận đòn dữ dội của ba tôi, tôi đã giấu con người thật của mình vào một lớp vỏ cứng rắn, lạnh lùng đến độ quái ác ngay từ lúc còn bé, khi những bất hạnh trong đời đến với tôi rất sớm.
Nhưng đêm nay, lớp vỏ bọc của tôi đã bị cuộc hội ngộ bất ngờ với Kim Anh, người bạn ngày xưa đó, làm cho lung lay, nứt nẻ, để lộ những mảng tâm hồn yếu đuối, èo uột. Tôi cũng là con người, nhất là một con người chưa qua hết tuổi vị thành niên, làm sao tôi không biết thèm khát một mái ấm gia đình, hay ước mơ một khung trời, nơi đó có cha, có mẹ, có anh em sum họp êm đềm bên nhau?
Vậy mà, đau xót thay, mỗi lúc trong lòng dậy lên một nỗi khát khao như thế là tôi lại phải xua đuổi nó đi, tận diệt nó đi và luôn luôn nuôi dưỡng cho mình ý nghĩ: “tôi chỉ là một đứa trẻ mồ cồi, không còn một ai ruột thịt, thân yêu trên đời.” Không! Tôi vẫn còn có một người cha đấy chứ. Nhưng sự tàn nhẫn của ông đã giết chết tình phụ tử trong tôi, kể từ dạo ấy!
*
Thuở đó, hai gia đình chúng tôi, Kim Anh và tôi, ở kề bên nhau, cách nhau một dãy chè tàu được ba tôi cắt xén cẩn thận. Trên một bức tường xanh ngắt lá non lốm đốm những hoa chè tàu trăng trắng, ba tôi rải một nắm dây tơ hồng.
Theo tháng ngày, đám dây mỏng manh, vàng nhạt, xinh xinh càng phát triển nhanh chóng, phủ đầy một lớp mây óng ả, mơ màng khắp đám chè tàu. Và, hai chúng tôi cũng lớn dần, đủ cao để với tay tới mặt thành chè tàu, hái tơ hồng, hái hoa, hái lá đó làm đồ báng hàng, chơi đùa với nhau.
Hai chúng tôi sống nhởn nhơ bên nhau trong gia đình hạnh phúc. Ba tôi nguyên là giáo viên cấp III, không hiểu vì lý do vì sao, sau chiến tranh 1975 ông không đi dạy học nữa mà xoay qua đi thồ Honda. Nhưng nhờ thế trong nhà có đủ ăn, đủ mặc hơn.
Mẹ tôi chuyên nghề chằm nón lá. Mẹ rất khéo tay. Những chiếc nón bài thơ trong tay bà bao giờ cũng là chiếc nhẹ nhất, đẹp nhất. Những hình ảnh ẩn hiện trong lớp lá nón bao giờ cũng xinh đẹp, tao nhã vô cùng. Vì thế mẹ được nhiều mối đặt làm nhất ở vực Lịch Ðợi, xóm quê tôi.
Ðến tận bây giờ, hình ảnh dịu dàng của mẹ tôi cặm cụi, cúi đầu bên khung nón gỗ, dệt từng múi chỉ tơ quanh thành nón, không bao giờ phai nhạt trong tâm hồn tôi.
Dì Xuân, mẹ Kim Anh, cũng theo nghề chằm nón. Bà thích ngồi kế bên mẹ tôi, vừa làm việc vừa chuyện trò, có khi để học hỏi thêm tay nghề của mẹ tôi.
Nhưng mà, mẹ Kim Anh và mẹ tôi càng ngày còng gắn bó bên nhau chừng nào thì Kim Anh và tôi càng lảng xa nhau chừng đó. Theo chiều cao thân thể, lớn lên dần dần, tôi không còn thích thú trong cái trò kéo dây tơ hồng làm bún, hái hoa chè tàu làm cơm, tước lá chè tàu làm thức ăn... Ðể chơi trò bán hàng nữa. Dạo đó, mỗi lần Kim Anh rủ rê:
- Hoàng ơi, hái dùm tui nắm dây tơ hồng trên cao kia đi. Tui ngắt hoa chè tàu rồi tụi mình chơi đồ hàng há.
Tôi trả lời con nhỏ bằng một cáy háy mắt thật dài:
- Ấy hái một mình đi. Chơi một mình đi. Tui thèm vào chơi cái trò con gái vô duyên đó.
Nói xong, tui vút một cái ra khỏi cổng tre nhà Kim Anh, mặc cho cô bé phụng phịu, rươm rướm nước mắt bên hàng chè tàu.
Tôi chạy đi tìm thằng Tân, thằng Vũ, thằng Mít để chơi trò búng bi hoặc leo lên cây khế nhà ông già Tám, hiến như cục đất, hái trộm những trái khế vàng lự, ngọt lừ...
Như vậy thú vị hơn nhiều chớ!
Rồi cũng tới ngày tôi cùng Kim Anh cắp mấy quyển tập trắng tinh đến trường để học những chữ cái đầu tiên.
Ðược đi học, tôi rất khoái vì trường tôi học ở khá xa nhà, theo con mắt nhận định non nớt của tôi bây giờ. Tôi tha hồ chạy nhảy hoặc đi rề rà từ nhà đến trường, từ trường về nhà trên con đường nhỏ độc nhất của xóm Lịch Ðợi. Một con đường dốc thoai thoải và gập ghềnh với nhiều sỏi đá.
Tôi tới lớp rất sơm, tôi thường thích đứng bên thành cửa sổ lớp học, nơi đây trông ra sân sau của ngôi trường nhỏ. Nói sân sau cho oai, chứ chả có cái sân nào cả mà chỉ là một khoảng rất hẹp, được một hàng rào kẽm gai ngăn chận lại như để đề phòng một trận động đất nhẹ nào đó xảy ra, có nguy cơ làm nguyên cả dãy lớp bốn phòng rơi ụp xuống khoảng đất trống phía sau nhà ga xe lửa Huế.
Ðứng bên thành cửa sổ, tôi luôn có ảo giác ngôi trường sắp sửa ập xuống đè lên lớp đất đá lộn xộn sau sân ga, chẳng qua vì ngôi trường này nằm quá cheo leo trên một con dốc. Mặc dù có cảm giác mất an toàn, nhưng tôi vẫn thích. Ở đó, tôi thấy rõ những đường ray xe lửa kề sát bên nhau, những chiếc goòng đầy than củi hoặc những bao gạo mập tròn, có những thằng bé con như tôi, đen nhẻm trong bộ quần áo rách rưới, bẩn thỉu, chạy lui chạy lại lăng xăng rồi la hét, cười nói om xòm mặc sức.
Tôi thường mê phải phóng mắt qua tấm hàng rào thép gai trước mặt, ngắm những hoạt động nhộn nhịp bên dưới, như một thằng tù tí hon, bên sau song sắt, thèm thuồng một cuộc sống tự do...
Nhưng rồi, những tháng ngày ấu thơ đầy hồn nhiên, vui thúc của tôi đã chấm dứt ngay khi mẹ tôi qua đời!
Một hôm, mẹ tôi ngã bệnh. Tôi không biết mẹ tôi bị bệnh gì, chỉ biết bà không còn ngồi được bên khung nón. Bà nằm dài trên dường trong phòng riêng, vẻ rất mệt mỏi và bạc nhược. Cứ nghĩ là mẹ chỉ bịnh xoàng như mọi lần, tôi không chú ý lắm. Cứ bịnh mẹ, mẹ nằm, cứ việc con, con chơi.
Nhiều lần, tới giờ ăn cơm, về nhà thấy mẹ không ngồi dậy được mà phải có ba tôi hoặc dì Xuân bón cho từng muỗng cháo, tôi thường mon men đến bên mẹ, cầm lấy bàn tay xanh mướt, nổi gân, e ngại hỏi:
- Mẹ, mẹ mệt lắm hả mẹ? Mẹ đau nhiều lắm à?
Mẹ tôi húng hắng ho, cố nở nụ cười trên đôi môi héo hắt một màu tím nhạt:
- Không sao đâu con à, vài hôm nữa mẹ lành thôi. Con hãy chơi gần gần quanh nhà, lỡ mẹ có gọi thì con về ngay nhé.
- Dạ.
Thấy không có ai sai bảo việc gì, tôi lại tót ra ngoài vườn.
Ít lâu sau, tôi nhận thấy ba tôi vắng nhà nhiều hơn mọi khi. Tối đến, ba cầm về một ôm gói thuốc bắc. Dì Xuân cứ âu sầu ngồi bên mẹ tôi. Nước mắt chạy vòng quanh mi, dì ngắm mẹ tôi ngủ.
Kim Anh cũng khác với thường ngày. Nó không thèm để mắt tới tôi nữa, cứ ngồi dưới bếp nhà tôi, tay vừa đun củi nấu thuốc, mắt vừa đăm đăm nhìn ánh lửa bập bùng, vẻ tư lự như một bà già.
Nhưng tôi cũng không tìm hiểu sâu xa những thái độ kỳ lạ của mọi người. Tôi cứ, buổi sáng đến trường, chiều lại chạy đi chơi khắp xóm. Hôm đó, thằng Mít rủ tôi ra mãi tận nhà thằng Lú, bạn cùng lớp với tôi, đi đốt tổ ong, lấy nhộng về ăn chơi. Ham vui, tôi quên mất là trời đã về chiều từ lâu. Ðến khi Kim Anh từ cổng nhà thằng Mít chạy ào vào, mặt mày hớt hải:
- Hoàng! Trò về nhà gấp đi. Mẹ gọi đó. Nhanh lên! Nhanh lên!