Nha thự của quận Hội Kê đã đổi chủ. Vị Quận thú mới là Hạng Lương đeo túi ấn còn dính máu ngồi ngay ngắn trên vị trí trước kia của Ân Thông. Bên cạnh ông là Hạng Võ, một thanh niên mắt to vai rộng, 24 tuổi, một dũng sĩ cường tráng và có vẻ rất chững chạc, nhưng trên khuôn mặt đồng đỏ của anh ta thì vẫn còn nét thơ ngây và thô lỗ.
Hạng Võ cảm thấy rất thống khoái việc mình đã ra tay tàn sát mà không cần phân biệt trắng đen đối với bọn viên chức nha thự trước đây. Đã mười bốn năm qua, mối hận thù vẫn luôn ấp ủ trong lòng ông ta, ngọn lửa phẫn nộ luôn thiêu đốt trong lồng ngực ông ta. Cứ mỗi khi nhớ đến ông nội mình bị chết thê thảm dưới lưỡi gươm của quân Tần, cũng như nhớ đến nhà cửa của gia đình mình bị tan nát, thì bao giờ ông ta cũng muốn đọ sức một trận sống chết với bọn quan quyền của nhà Tần. Nhưng, lúc bấy giờ ông luôn bị người chú khống chế, khuyên ngăn cho ông ta hiểu cần phải đè nén ngọn lửa căm hờn, kẻo lại vì chuyện nhỏ mà làm hư chuyện lớn. Vì đất nước này vẫn còn là đất nước của vương triều nhà Tần, quyền sinh sát vẫn còn nắm trong tay họ Doanh tại cung điện Hàm Dương. Bọn chúng đang khống chế quân đội của vương triều, bọn chúng vẫn còn hệ thống pháp luật khắt khe để chế tài một cách tàn bạo đối với bất cứ sự phản nghịch và sự chống đối nào. Bọn chúng đã xây dựng lên những cơ cấu chặt chẽ trong bộ máy thống trị, vẫn còn rất nhiều quan lại trung thành với chúng có mặt ở khắp mọi nơi trong nước. Đứng trước mặt đối thủ như vậy, nếu không biết chờ đợi thời cơ, không chú ý đến sách lược mà chỉ dựa vào cái dũng cảm của kẻ thất phu, thì chẳng phải là đem trứng chọi đa hay sao?
Thế nhưng giờ đây tình hình đã hoàn toàn khác hẳn. Cơn lụt lớn ở làng Đại Trạch đã đập vào cửa cung của vương triều nhà Tần tại Hàm Dương, khắp nơi ngọn lửa chống Tần càng ngày càng cháy bùng lên. Chú cháu họ Hạng đã nắm được thời cơ tốt để khởi binh báo thù. Họ không còn phải thu mình trốn tránh, không còn phải nhẫn nại chịu mọi sự đau khổ, mà họ có thể đứng thẳng người len, có thể hành động theo ý muốn của mình mà không còn lo sợ điều gì nữa. Họ không còn phải tá túc nhà ai, mà đã trở thành chủ nhân của quận Hội Kê. Họ có thể chủ trì tất cả mọi việc ở đây. Họ phải triệt để thay đổi bộ mặt của quận Hội Kê. Đó là một việc làm sảng khoái biết bao, mà hơn mười năm qua họ chưa bao giờ được sảng khoái như thế!
Các quan viên ở nha thự của quận Hội Kê, ngoại trừ những người đã bị giết và những người bỏ trốn, số còn lại đều ngoan ngoãn quỳ gối dưới chân của họ Hạng, phục tùng mệnh lệnh một cách vô điều kiện. Hạng Lương dựa theo tình hình cụ thể của mỗi người để xếp đặt việc làm cho họ. Riêng Quận úy trông coi về quân sự tỏ ra hết sức ân cần, luôn tươi cười và gọi chú cháu họ Hạng là tướng quân, sẵn sàng trao hết số binh sĩ mà ông ta từng chỉ huy và ngoan ngoãn tuân theo sự điều động của chú cháu họ Hạng. Dưới chế độ nhà Tần thì trong ba mươi sáu quận đề có Quận binh. Đó là lực lượng võ trang địa phương ở các quận. Quận binh bình thời lo giữ trị an trong địa phương, nhưng cũng chịu sự điều động của trung ương để đi làm lính thú tại các đồn wor những địa phương khác. Quận binh căn cứ tình trạng địa lý của các địa phương chia thành bộ binh (tài quan), xa binh (khinh xa sĩ), kỵ binh (kỵ sĩ), thủy binh (lâu thuyền sĩ)... Người nắm binh quyền Quận binh là Quận thú, còn Quận úy là người trực tiếp chỉ huy Quận binh. Quận binh tại quận Hội Kê do có sự thay đổi Quận thú nên đã có một số bỏ trốn, số còn lại hầu hết là bộ binh và kỵ binh. Do nhu cầu cấp thiết về binh lực, chú cháu họ Hạng tiến hành cải biên số Quận binh còn lại, và đưa họ và đội ngũ dưới quyền chỉ huy của mình.
Nhóm "Hào Kiệt Ngô Trung" mà bình nhật chú cháu họ Hạng thường liên hệ nay cũng đua nhau tới. Ngoài ra, còn một số người khác do mộ danh mà tới cũng không phải ít. Họ ngưỡng mộ tiếng tăm của họ Hạng, mà cũng bất mãn sự thống trị của vương triều nhà Tần, nên đã tích cực tham gia vào cuộc khởi binh chống Tần. Hạng Lương và Hạng Võ cử những người cốt cán của mình giữ các chức Hiệu, Úy, Hầu, Tư Mã... còn Hạng Lương thì làm Tướng quân, Hạng Võ làm Biên tướng, bước đầu hình thành một bộ máy chiến đấu.
Trong quá trình phân phối chức vụ, có một tân khách lộ sắc buồn bã không vui, cúi đầu im lặng không nói một tiếng nào. Sau đó ông ta một mình đến gặp riêng Hạng Lương, hỏi:
- Tướng quân có biết sự xử thế của Trương Sở Vương Trần Thắng hay không?
Hạng Lương chần chừ trong giây lát, nói:
- Trần Thắng là người căm ghét bọn tàn ác, dám nghĩ dám làm. Với đảm lược phi thường của ông, đã chi huy chín trăm lính thú khởi nghĩa tại làng Đại Trạch, và với một khí thế nhanh như chớp đã tấn công thẳng vào triều đình. Ngoài ra, ông còn luôn luôn nhớ đến việc phục hưng Đại Sở, đề cao tướng quá cố của nước Sở, quả đúng là một vị anh hùng, mà cũng xứng đáng là người nước Sở!
Người đó lắc đầu nói:
- Những lời tướng quân nói đều không phải ngoa, nhưng từ một mặt của sự việc thì không thể nói lên toàn bộ cục diện được. Tôi nghe nói có chuyện như thế này: sau khi Trần Thắng xưng vương tại huyện Trần, thì những người bạn cũ trước kia từng đi làm thuê chung với ông ta đã tới ra mắt ông. Họ đứng ngoài cửa cung gọi to tên ông, liền bị lính gác cửa trói lại. Sau khi nghe những lời biện bạch họ mới được thả ra, nhưng vẫn không chịu vào trong để thông báo. Chờ khi Trần Vương có việc đi ra ngoài, người này mới chận xe lại và mới được Trần Vương gặp gỡ. Khi anh ta vào vương cung trông thấy màn trướng hết sức sang trọng, bèn dùng giọng nói của người Sở nói lớn "Ôi chao! Anh được làm Vương rồi! Quả thật sang trọng quá!" Người khách này còn đi lung tung trong vương cung, và thường nói với người chung quanh về việc Trần Thắng khi còn đi làm ruộng thuê trước kia. Có người liền nói riêng với Trần Vương: "Ông khách này quá ngu muội, ăn nói bừa bãi, làm tổn hại đến sự uy nghiêm của Đại vương". Tràn Vương lấy làm tức giận, đem người bạn cũ của mình ra chém. Từ đó những người bạn cũ của Trần Vương đều bỏ đi, bên cạnh Trần Vương không còn người thân cận nào nữa. Ngay đến cha, anh vợ của Trần Vương, cũng do Trần Vương ngạo mạn vô lễ, đối xử y như những tân khách khác, nên cũng đã bỏ đi. Trần Vương một khi đắc chí, thì bỏ rơi hết những người cố giao, và hoàn toàn quên đi câu nói thuở trước "khi giàu sang, không quên bạn cũ". Một người như vậy thực không đáng kính.
Nghe qua những lời nói dài dòng của người này, Hạng Lương dần dần đã nhận ra dụng ý của ông ta, nghĩ bụng: "Anh ta nói những chuyện đó phải chăng có mục đích nói bóng nói gió gì đó hay sao?" Quả nhiên, sau giây phút yên lặng, người đó bắt đầu đi thẳng vào đề:
- Này Hạng tướng quân, kể từ ngày chúng ta may mắn quen biết nhau, lúc nào tôi cũng bám theo tướng quân cả, lúc nào cũng kính trọng tướng quân, mặc dù không phải là một sự kết giao có ý nghĩa đặc biệt nhưng vẫn được xem là một đôi bạn hoạn nạn có nhau. Nay ngài đã làm Quận thú, đã làm Tướng quân, vậy chả lẽ ngài quên bạn cũ hay sao, trong khi ngài cử rất nhiều Hiệu Úy, thế nhưng lại không có tôi. Cho dù tôi bất tài đi nữa, nhưng chả lẽ ngài lại quên tình bạn cũ hay sao?
Hạng Lương chợt hiểu ra rằng ông ta muốn tranh thủ cho mình một chức tước nào đó! Hạng Lương liền mỉm cười nói:
- Tôi chủ trương vào tài năng để dùng người, tuyệt đối không phải dựa vào tình cảm riêng tư. Trước kia trong một lễ tang, tôi từng giao cho anh một số công việc, nhưng anh làm không tốt, cho nên tôi không thể tín nhiệm anh được. Nay nếu tôi cử anh làm Hiệu Úy, thì sẽ hỏng sự nghiệp chống Tần của tôi, cho nên tôi đành phải để cho anh chịu thiệt thòi.
Kế đó, Hạng Lương lại nêu ra mấy sự việc trước kia để chứng minh anh ta là người thiếu tài năng nên không thể trọng dụng. Người đó thấy Hạng Lương hiểu mình quá rõ, và những sự kiện nêu ra để chứng minh cũng đúng sự thật, không làm sao biện bác được, nên đành làm thinh, buồn bã lui ra.
Hạng Lương dựa vào tài năng để sử dụng người, dựa vào công tâm để làm việc, cho nên được bộ hạ ngợi khen và ủng hộ, ai ai cũng ngỏ ý sẵn sàng đi theo Hạng Lương để hoàn thành sự nghiệp chống Tần, sẵn sàng phơi gan, nếm mật. Chú cháu họ Hạng tập hợp tất cả Hiệu Úy trước sân và nói với họ:
- Bạo Tần vô đạo, khiến sinh linh phải chịu cảnh đồ thán, khiến cả nước như đang sống trong một chảo nước sôi. Là con dân của nước Sở, cơ nghiệp mà tổ tiên của chúng ta khai sáng đã bị bạo Tần phá hủy, cha mẹ anh em của chúng ta và cả chúng ta nữa đều bị bạo Tần chà đạp, hiếp đáp. Mối hận thù này phải khắc cốt ghi xương! Hôm nay trời đã ban cho chúng ta một cơ hội tốt, vậy chúng ta phải cùng với kẻ thù đọ sức, tất cả đều sẵn sàng dấn thân cho cuộc đấu tranh này, thề phải lật đồ bạo Tần, khôi phục lại nước Đại Sở của chúng ta!
Hạng Võ là một con người nóng tánh, lại giàu lòng nghĩa hiệp nên to tiếng bổ sung:
- Con người sinh ra ở đời, phải biết trọng hai chữ Tín và Nghĩa. Vậy chúng ta một khi đã nói ra thì phải giữa chữ Tín, một khi hành động thì phải đạt được hiệu quả, xem danh tiết là cao quý nhất, xem nghĩa khí là quan trọng nhất, có phước cùng hưởng, có hoạ cùng chia, ân oán phải trả, tuyệt đối không bao giờ chịu làm một kẻ tiểu nhân, thấy cái lợi mà quên đi nghĩa khí của mình!
Tất cả mọi người đồng thanh hô to:
- Có nhị vị tướng quân thống lĩnh, chúng tôi sẵn sàng liều chết chiến đấu!
Sau đó chú cháu họ Hạng liền tiến hành bố trí mọi việc cho thuộc hạ, rồi chia nhau đi đánh chiếm các huyện thuộc quận Hội Kê. Do Quận binh đã nằm trong tay chú cháu họ Hạng, cũng như quan viên của quận Hội Kê đã hoàn toàn tan rã, cho nên các huyện trong quận đều tự tan rã theo mà không cần phải tấn công. Chẳng mấy hôm thì các huyện trong toàn quận đã bị chiếm lĩnh. Tử đệ Ngô Trung đua nhau tham gia vào đội ngũ của chú cháu họ Hạng, gồm tất cả là tám nghìn tinh binh, thanh thế thật là to lớn.
Trong số tám nghìn tử đệ đó có hai cánh quân của Chung Ly Muội và Quý Bố. Chung Ly Muội là danh sĩ tại Ngô Trung, nổi tiếng là người vũ dũng, về sau đã lập được nhiều chiến công đặc biệt cho Hạng Võ trong cuộc chinh chiến. Quý Bố cũng là người nước Sở. Ông làm việc gì cũng tới nơi tới chốn, bất kể gian truân, trọng nghĩa khinh tài, rất có tên tuổi ở nước Sở. Người nước Sở thường nói câu: được một trăm cân vàng không bằng được một lời hứa của Quý Bố. Đó chính là "một lời hứa giá đáng nghìn vàng". Hạng Võ với hai người này tỏ ra rất hợp nhau, do cùng có tính hiệp nghĩa như nhau, nên đã khiến họ trở thành những người bạn gắn bó chặt chẽ.
Tám nghìn tử đệ vây quanh chú cháu họ Hạng, trở thành lực lượng nòng cốt của họ trong cuộc tranh giành thiên hạ.
Trong thành phần của tám nghìn tử đệ, dựa vào sách sử đã ghi chép mà xét, thì ngoại trừ những người có danh vọng, có thế lực như các "Hiền Sĩ Đại Phu", "Hào Kiệt", còn có "Tân Khách", "Sĩ", và "Tử Đệ",... "Tử Đệ" chính là hậu duệ của quý tộc ở nước Sở cũ. Trong sách sử có nói: "Ngô Trung Tử Đệ" đều rất kính sợ Hạng Võ, nhưng cũng rất thân thiện với ông. Họ cùng nhau luyện võ, học tập binh pháp, âm thầm tiến hành mọi việc chuẩn bị để đứng lên chống Tần. Qua đó cho thấy giữa họ có chung một nền tảng tư tưởng, có chung tình cảm và chí hướng giống nhau. Qua đó chúng ta có thể đoán biết tất cả họ đèu có cùng một gia cảnh và một cảnh ngộ giống nhau. Tất cả họ đều là hậu duệ của quý tộc ở nước Sở cũ do sự xây dựng vương triều nhà Tần mà địa vị của họ đã bị thay đổi một cách cơ bản. Dựa vào mối quan hệ giai cấp tình cảm đó, khiến họ cùng đi chung một đường, có chung một mục tiêu chiến đấu.
Còn "Sĩ" thì chúng ta nên đi tìm nguồn gốc trong lịch sử để khảo sát thành phần của họ. Trong sách vở đời trước nhà Tần thì "Sĩ" đại để có nghĩa như sau: tiếng gọi chung đối với nam giới, quân sĩ, văn sĩ; một đẳng cấp đặc biệt trong các thành phần giai cấp; kể cả ngục lại và quan lại cấp thấp. Trong thời Tây Châu và thời Xuân Thu, họ là một đẳng cấp trong xã hội, trên có Vương, Chư Hầu, Khanh Đại Phu; dưới có thứ dân, nô lệ. Bắt đầu từ thời kỳ giữa và sau của đời Xuân Thu, họ dần dần biến thành một giai tầng, vai trò của họ trong xã hội chủ yếu là võ sĩ biến thành chủ yếu là văn sĩ, chuyên cầm bút viết lách hoặc đi làm khách, và cũng có thể dựa vào một tài năng sở trường nào đó để tham gia hoạt động xã hội. Họ giỏi văn chương hoặc giỏi ăn nói, đến sống nhờ vào những người chuyên nuôi thực khách để phục vụ một mục đích chính trị nào đó. Trong số họ cũng không thiếu những nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà quân sự, nhà khoa học, nhà văn học, đối với lịch sử có sự đóng góp riêng. Thời Chiến Quốc, trong xã hội có phong trào nuôi kẻ Sĩ. Bốn công tử thời Chiến Quốc gồm Mạnh Thường Quan ở nước Tề, Bình Nguyên Quân ở nước Triệu, Tin Lăng Quân ở nước Ngụy, Xuân Thân Quân ở nước Sở đều là những người mến kẻ Sĩ có tiếng. Cha đẻ của Tần Thủy Hoàng Doanh Chính là Lã Bất Vi, bản thân làm Tướng Quốc hai trào, nắm quyền hành chính suốt tám năm, cũng là người từng nuôi ba nghìn kẻ Sĩ. Quyển Lã Thị Xuân Thu do Lã Bất Vi tổ chức cho số người này biên soạn. "Tân Khách" và "Sĩ" có ý nghĩa giống nhau, cũng gọi là "Môn Khách", "Thực Khách".
Sử chép "Hạng Lương sau khi lưu vong đến Ngô Trung cũng có nuôi chín chục kẻ Sĩ". Qua sự ghi chép cho thấy những "Sĩ" và "Tân Khách" không phải là văn sĩ. Điều mà họ cảm thấy hứng thú không phải là viết lách văn chương hoặc trổ tài biện luận, trái lại là binh pháp và đấu vật. Hạng Lương chiêu nạp những người đó bằng phương thức bí mật, ông còn huy động tiền bạc mua vũ khí để cho họ thao luyện. Qua đó cho thấy họ là lực lượng trù bị của hai chú cháu họ Hạng để chống Tần. Đó là những thanh niên ở Ngô Trung có sự bất mãn đối với xã hội của vương triều nhà Tần.
Trong số tám nghìn tử đệ của chú cháu họ Hạng còn có một bộ phận thuộc giới bình dân bá tánh. Vì đạo quân tám nghìn tử đệ đã được bổ sung sau khi họ đã cướp quyền lãnh đạo quận Hội Kê và đánh chiếm các huyện khác xong. Qua đó có thể thấy được trong tình hình khắp cả thiên hạ đang nổi lên để đánh đổ vương triều nhà Tần, thì dân chúng thuộc tầng lớp thấp nhất trong xã hội từng chịu đựng nỗi khổ của chính quyền bạo ngược nhà Tần, nhất định cũng sẽ hăng hái gia nhập vào đội ngũ của chú cháu họ Hạng. Xã hội thời bấy giờ nhân dân "chịu khổ dưới sự cai trị của nhà Tần đã lâu", cho nên chỉ cần vung tay hô hào, thì sẽ có đông đảo người hưởng ứng.
Về vấn đề này, chúng ta có thể tìm hiểu chứng cứ trong một số truyền thuyết dân gian. Truyền thuyết tại Hạng Lý Thôn ở Thiệu Hưng tỉnh Triết Giang là nơi chú cháu họ Hạng từng tới đây để lánh nạn. Hạng Võ có thân hình vạm vỡ, sức lực không ai bằng, thấy chuyện gì bất bình thì đứng ra can dự. Có một lần nọ dân chúng trong làng không có củi đốt, thế nhưng những người giàu có ở đây lại không cho họ lên núi lấy củi. Hạng Võ liền dẫn dắt dân làng lên núi, chọn toàn những cây to đốn xuống, những người nhà giàu tới ngăn cản, Hạng Võ đã dùng lời ngay lẽ thiệt giải thích với họ, qua một giọng nói cứng cỏi nghiêm trang khiến cho số nhà giàu kia không dám làm gì nữa. Có lần Hạng Võ bắt được một con cọp, một người giàu có bảo đó là sơm thần mà nhà họ luôn thờ cúng. Hạng Võ bèn vác con cọp đến đại sảnh của người nhà giàu, nói: "Néu là sơn thần của nhà ông, thì tôi thả nó trong nhà ông vậy!" Người nhà giàu sợ mất vía, vội vàng cầu xin Hạng Võ vác con cọp đi. Thừa dịp này Hạng Võ buộc người nhà giàu phải trích ra ba nghìn thạch lúa để cho bá tánh nghèo đói, giúp họ vượt qua cơn đói mùa xuân. Sau chuyện đó, người nhà giàu này rất oán Hạng Võ, bèn lập mưu để sát hại ông. Họ viết một dòng chữ "Bá Vương Hạng Võ" lên một miếng vải rồi nhét nó vào bụng một con cọp chết, khiêng đến Quận thú quận Hội Kê. Viên Quận thú phát hiện tấm vải lấy làm sợ hãi, người nhà giàu nhân cơ hội đó bí mật tố cáo Hạng Võ, bảo ông luôn hoành hành khắp trong xóm làng, xưng vương xưng bá, mong Quận thú trừ hại cho dân. Quan binh liền bắt Hạng Võ, nhưng ông dựa vào lý lẽ ngay thẳng mà biện luận, trong khi dân làng cũng đua nhau tới giúp đỡ ông. Hạng Võ trong cơn tức giận đã giết chết Quận thú và giết chết thêm một số quan binh khác. Hạng Lương thấy Hạng Võ gây ra tai họa, bèn nói với dân làng: "Vua Tần vô đạo, thiên hạ đều căm thù, nay sơn thần đã truyền ý trời, lập Hạng Võ làm Bá Vương vậy chúng ta hãy đứng lên chống Tần!"
Dân làng đều hưởng ứng lời kêu gọi đó, tập hợp lại thành một đội ngũ, bắt đầu khởi binh chống Tần...
Còn một truyền thuyết khác thì nói: chú cháu họ Hạng vì việc khởi binh chống Tần, nên từng chiêu binh mãi mã tại quê hương của mình. Người thì đã có nhưng vũ khí thì không, vì Tần Thủy Hoàng muốn đề phòng nhân dân đứng lên tạo phản, trước đây đã thu gom hết tất cả vũ khí trên toàn quốc, Hạng Võ có một người anh em kết nghĩa tên gọi Ngu Tử Kỳ, bèn nói với Hạng Võ là ở nhà mình có một cửa hiệu bán sắt, vậy ông có thể giúp đỡ cho Hạng Võ. Hạng Võ nghe xong hết sức vui mừng. Ngu Tử Kỳ bèn về nhà nói với người cha. Cha ông biết làm vũ khí là để chống lại với bạo chúa nên rất tán thành, đồng thời, dặn dò các thợ rèn phải kín miệng và mau chóng tiến hành việc rèn vũ khí ngay trong đêm. Không bao lâu, vũ khí đã được rèn xong, ngoài ra, họ còn đặc biệt rèn một cây kích nặng tám chục cân dành riêng cho Hạng Võ.
Nhưng, một vấn đề khó khăn lại xuất hiện: Quan binh tra xét rất gắt gao, không thể nào chuyển số vũ khí này ra ngoài thành được. Ngu Tử Kỳ bèn hiến kế với người cha: "Hạng Võ là một bậc anh hfung, tương lai sẽ đứng lên trừ bạo chúa, người cướp lấy thiên hạ chính là người này, vậy chi bằng đem em gái của con gả cho ông ta, và trong ngày đón dâu sẽ giấu vũ khí vào số của hồi môn chở ra khỏi thành." Em gái của Ngu Tử Kỳ là Ngu Cơ tuổi trẻ lại xinh đẹp. Nàng là một mỹ nhân nổi tiếng gần xa, từng có nhiều người đến cầu hôn, nhưng Ngu phụ vẫn chưa chịu gả. Mặc dù Ngu phụ rất yêu thích Hạng Võ, là người có khí chất anh hùng, nhưng chưa biết tài năng của ông ra sao, nên muốn có dịp xem qua rồi mới tính tiếp. Ngày hôm đó, Hạng Võ tới nhà họ Ngu, trông thấy có rèn cho ông một cây kích sắt, liền chụp lấy và múa võ trước sân. Ngu phụ thấy võ nghệ của Hạng Võ rất cao cường, nhanh nhẹn, hiên ngang nên trong lòng không khỏi lấy làm cao hứng. Ngu Cơ từng nhiều lần nghe người anh kể lại tài năng của Hạng Võ, hôm nay lén nhìn Hạng Võ sử dụng cây kích sắt, không khỏi lấy làm ái mộ, nên vui vẻ bằng lòng kết hôn với Hạng Võ.
Trong ngày đưa dâu, tiếng kèn tiếng trống inh ỏi, xe chở của hồi môn đầu dài mấy dặm, quan binh giữ thành mặc dù ít nhiều hoài nghi, nhưng cũng không làm gì được trước đội ngũ đưa dâu đông đảo và ồn ào như thế. Của "Hồi môn" của Ngu Cơ đã giúp rất nhiều cho Hạng Võ, riêng tình cảm chung thủy của nàng càng được khen ngợi từ xưa cho tới nay.
Truyền thuyết vẫn là truyền thuyết, truyền thuyết không thể trở thành căn cứ để viết sử, nhưng chúng ta có thể từ trong đó thấy được bóng dáng của lịch sử. Truyền thuyết chưa hẳn là đúng sự thật, nó được mọi người đưa vào một số sự thật trong lịch sử để thông qua sức tưởng tượng của mình, rồi thêm vào đó những tình tiết hay ho, hấp dẫn, biến sự thật lịch sử càng phong phú hơn. Do vậy chúng ta có thể nói, truyền thuyết trên thực tế là do nhân dân dựa vào sức tưởng tượng phong phú của mình thông qua phương thức nghệ thuật không tự giác để gia công cho lịch sử, là một hình tượng lịch sử có nhiều màu sắc được lưu truyền bằng miệng trong nhân dân. Chúng ta không cần thiết phải hoàn toàn tin theo truyền thuyết, và cũng không cần thiết đòi hỏi truyền thuyết phải tuyệt đối đúng sự thật, thế nhưng cũng không nên hoàn toàn vứt bỏ nó. Qua những nhân vật lịch sử tuyệt vời, truyền thuyết có thể giúp cho chúng ta biết được những câu chuyện ly kỳ mà trong lịch sử không hề ghi chép, cảm thụ được một thứ hơi thở nào đó của lịch sử.
Trên cơ sở nhận thức đó, chúng tôi đã trích dẫn hai truyền thuyết nói trên, mặc dù không kể lại tỉ mỉ nhưng chúng ta cũng có thể từ đó thấy được, hai chú cháu họ Hạng khởi binh ở Ngô Trung là có cơ sở quần chúng nhất định, được bá tánh thuộc từng lớp dân nghèo ủng hộ. "Tám nghìn tử đệ" không phải hoàn toàn là quý tộc cũ của nước Sở xưa kia, mà trong đó còn có nhân dân quần chúng tham gia. Đó làm một sự ủng hộ có sức mạnh, là nguyên nhân quan trọng giúp cho đội ngũ của chú cháu họ Hạng luôn luôn được mở rộng và luôn luôn có một sức chiến đấu mạnh mẽ.