Ngôi nhà của ông bà nội tôi là của các cụ tôi để lại. Trong ngôi nhà đó, dấu vết của các thế hệ nối tiếp nhau được ghi lại khá rõ. Trước hết, phải kể một gian lớn và một gian nhỏ bằng lim đen bóng, rất chắc chắn, theo sự dẫn tích của cô tôi, là ngôi nhà có từ đời kị. Đến đời cụ, từ gian nhỏ lại nối dài thêm ra ba gian nữa, cửa, vách đều bằng gỗ, nhưng thuộc loại xấu hơn, chóng hỏng hơn. Khi tôi về ở với cô Gái, ba gian này đã mọt nhiều, có cột đã bị mọt ăn ruỗng phần dưới, phải vá lại. ở bên ngoài vách, thời gian để lại một lượt mốc mỏng màu trắng xám, khi sờ vào nó để lại trên tay một thứ bột nham nháp. Ba gian này bây giờ không người ở, nhưng cô tôi vẫn giữ nếp sáng mở ra, tối đóng lại như khi ông bà tôi còn sống. Cô tôi có thói quen lên nhà trên (tức là ba gian tôi vừa nói tới) ngồi một lát trước khi trời tối.
Bà ngồi im phăng phắc như một pho tượng, thỉnh thoảng lại lẩm bẩm khe khẽ, như thể bà tự nhắc mình điều gì đó, mà cũng có thể bà đang nói chuyện với những người vô hình, những người đã sống trong ngôi nhà này, nhưng không thể nào biết được bà nói gì và nói với ai.
Ngôi nhà (giờ đây chỉ là một phần nhà) của kị tôi có một cái giường rộng mà chiều dài của nó chạy suốt một gian nhà gọi là giường gian. Một cái màn nâu mắc trên cái giường đó. Nó dài và cao, xứng với giường, được gọi là màn gian. Vài năm một lần, cái màn được tháo xuống, đem ra ao nhúng nước, dập cho hết bụi bẩn rồi lại treo lên như cũ. Trước khi bước lên giường gian phải leo qua một cái giường giát nhỏ vừa dùng làm bàn ăn, vừa dùng làm nơi tiếp khách, còn tối đến thì trở thành nơi cầu nguyện. Cầm lòng cầm trí đọc kinh, - tối cầu nguyện bắt đầu bằng lời xướng cao giọng của cô tôi - Đức Chúa Lời thương cho chúng tôi...
Hai cô cháu tôi xếp bằng tròn trên giường giát, ngẩng mặt nhìn lên bức vách đối diện, trên đó có tượng Chúa Giê-su Chịu Nạn bằng ngà gắn trên thập giá bằng gỗ mun, ảnh Đức Mẹ Lái Tim, ảnh ông thánh Giu-se ẵm Chúa Giê- su Hài Đồng, và cứ ngồi như thế đọc kinh cho tới khuya.
Những hình người im lìm làm tôi chán, vừa đọc kinh tôi vừa theo dõi cái con lắc bằng đồng đã han rỉ đưa qua đưa lại. Cái đồng hồ đã cổ lắm. Tuổi già làm cho nó luôn ngừng chạy. Muốn cho nó chạy lại phải nín thở nhẹ nhàng xê dịch nó một chút sang phải hoặc một chút sang trái, tùy theo thời tiết thay đổi, theo mùa và tùy theo cả sự trái tính trái nết của nó. Chỉ vì cái đồng hồ này mà cô Gái ngăn cấm mọi sự nô đùa của trẻ con, bà sợ bước chạy thình thịch của các cháu hoặc tiếng la hét của chúng sẽ làm cho cái đồng hồ bực mình mà đứng lại.
Từ ngôi nhà của kị còn mọc thêm một nhánh nữa, nhánh ngang, nên được gọi là nhà ngang hay nhà dưới. Nó gồm ba gian cột xoan, vách đất tềnh toàng. ở đây, cô tôi đặt cối xay lúa. Công việc sàng sẩy được làm tại đây. Ngày mùa nó là kho chứa lúa, nơi vò lúa. Cối giã gạo cũng nằm tại nhà ngang nhưng ở ngoài hiên. Từ nhà ngang quặt sang trái có một gian tồi tàn hơn nữa là bếp, với những cột soan cong queo. Bếp nối dài thêm một chái dùng làm chuồng lợn, là một cái cũi lớn bằng thân cau ghép. Tôi tả dài dòng ngôi nhà để bạn đọc thấy kiến trúc nhà ở vào thế kỷ trước đầu thế kỷ này rất thực dụng và tùy tiện. Tất nhiên, trừ nhà giàu.
Ngày thứ hai của cuộc sống ở nhà quê của tôi, tôi được cô Gái dẫn đi xem nhà trên. Cuộc đi xem này, gọi là đi viếng thì đúng hơn, như về sau tôi được biết, là một nghi thức trang trọng và nhất thiết đối với con cháu. ở chính giữa nhà trên là bàn thờ Đức Mẹ. Hai gian bên kê hai cái giường rất hiếm khỉ có người nằm. ở hai cột ngăn bàn thờ và hai giường là một đôi câu đối, bên trên bàn thờ là một bức hoành phi, những chữ nho mạ vàng đã mờ. Bên dưới bàn thờ là một cỗ hậu sự sơn then. Trước bàn thờ là bộ tràng kỷ, trên mặt bàn còn để nguyên chiếc điếu bát và bộ đồ trà của ông nội tôi.
Bàn thờ Đức Mẹ là một tủ nhỏ hình hộp có cửa kiểu "gô-tích" sơn son thếp vàng, che bằng một mảnh nhiễu đỏ. Dừng lại trước bàn thờ với nét mặt rất thành kính, cô tôi làm dấu thánh rồi mới trịnh trọng vén bức màn nhiễu lên. Từ bên trong hơi tối, một người đàn bà châu Âu tóc vàng, mắt xanh, vận áo dài thêu kim tuyến, ẵm đứa con trai kháu khỉnh nhìn xuống chúng tôi.
Cúi sát xuống mặt tôi, cô Gái thì thào:
- Cháu có biết ai đây không?
Không suy nghĩ, và cũng muốn vội vã khoe hiểu biết của mình để chiều lòng cô, tôi nói ngay, rất vui vẻ:
- Con mẹ đầm.
- Lạy Chúa tôi lòng lành vô cùng!
Như bị một cái tát thẳng cánh, cô tôi bật ngửa, bà kêu lên một tiếng gọi Chúa thảm thiết, mặt trắng nhợt, con ngươi chực nhảy ra khỏi tròng.
Tôi lạnh toát người, run lẩy bẩy trước hậu quả của việc làm dại dột.
- Quân vô đạo! - cô Gái rít lên khi tỉnh trí lại, bà thẳng tay cốc cho tôi một cái trời giáng - Lu-xi-phe! Báng bổ!
Người đàn bà, chính là Đức Mẹ Ma-ri-a mà trước đó tôi chưa được hân hạnh làm quen, dửng dưng nhìn cuộc trừng phạt diễn ra dưới chân mình.
Cô tôi quỳ xuống, hai tay chắp trước ngực, thành kính và van nài nhìn lên Đức Mẹ.
- Xin Đức Mẹ lòng lành tha tội cho con trẻ. - bà khấn khứa, giọng đẫm nước mắt - Nó không được dạy dỗ nên trót dại báng bổ. Con xin Đức Mẹ khoan thứ, con xin gìn giữ phần hồn cho nó để nó khỏi sa chước quỷ dữ. Chắp tay lại thằng quỷ kia! Quỳ xuống. Nói: xin Đức Mẹ lòng lành tha tội cho con cùng?
- Xin Đức Mẹ lòng lành tha tội cho con cùng.
Tôi lí nhí lặp lại lời dạy của bà. Bà bắt tôi nói to hơn.
Tôi cố nói to hơn, nhưng vẫn chưa đủ to như bà muốn. Tôi phải nhắc lại tới lần thứ ba. Chưa nguôi giận, cô Gái hầm hầm túm tóc tôi đẩy tới trước bức vách ngăn với phòng bên, trên đó dán la liệt những bức tranh mộc bản lòe loẹt.
- Nhìn vào đây này, quân vô đạo, con cháu của Lu-xi- phe, của Sa-tăng! Hỏa ngục đấy. Quỷ sứ đấy. Kẻ nào sống phạm nhiều tội trọng, chết sẽ sa Hỏa ngục, bị nấu trong vạc dầu, chịu cho quỷ sứ phân thây...
Những thằng quỷ sứ đen sì, mắt trắng dã nhìn tôi. Chúng có sừng như sừng dê, thay vào bàn chân, chúng có móng như móng ngựa. Với những chiếc đinh ba nhọn hoắt, chúng lôi xềnh xệch những con người trần truồng ném vào vạc dầu, chúng dùng mã tấu chặt chân tay những người nằm sấp trên mặt đất. Một thằng quỷ sứ hung tợn túm tóc một người nằm trên giường, miệng kẻ bất hạnh há hốc trong tiếng gào câm lặng.
- Đây là kẻ mắc tội trọng, lúc sống ăn ở bất nhân, đến giờ lâm tử bị quỷ đến kéo xuống Hỏa Ngục. - cô tôi, giọng hăm dọa giải thích - Còn đây là kẻ dối trá, lọc lừa, bị chúng quỷ lấy kìm cặp lưỡi kéo ra, đoạn lấy dùi nung đỏ xiên vào.
Tôi rùng mình. Cô Gái tiếp tục dẫn tích một cách ngon lành.
- Mày đã thấy sợ chưa? - cô hỏi tôi sau khi kết thúc buổi đi thăm Hỏa ngục.
- Thưa cô, cháu sợ rồi - tôi vẫn còn run rẩy, đáp.
- Mày còn biết sợ là tốt - giọng cô Gái dịu xuống, mặt bà hiện lên vẻ hài lòng - Phải ăn ở như Chúa dạy "Hãy thương yêu người ta như mình vậy". Phải siêng năng cầu nguyện hàng ngày cùng là xưng tội, chịu lễ. Như vậy Đức Mẹ lòng lành chẳng cùng sẽ che chở cho. Người là thánh quan thầy của xứ đạo ta, trong nhà ta. Người là Rất thánh cầu bầu cho ta. Quỷ, chúng nó chẳng làm gì được người ngoan đạo sất. Người ngoan đạo là con chiên của Chúa, chết đi được Chúa rước lên nước Thiên Đàng sáng láng vô cùng...
Bài giảng bằng giọng đều đều của cô tôi kéo dài cả giờ. Tôi mệt rũ.
Tối đến, bà gọi tôi đi theo học cách đóng cửa nhà trên. Công việc này kể từ nay bà giao cho tôi.
Cùng với những cánh cửa đóng lại, căn nhà mỗi lúc một tối thêm, cái căn nhà lạnh lẽo và mốc thếch trong đó có những con quỷ dữ tợn gớm ghiếc đang hành hình lũ người không còn sức chống cự và một con mẹ đầm hiền lành nhưng xa lạ mà tôi phải kính trọng tên là Đức Mẹ.
Tôi ngồi một mình ngoài thềm. Cô Gái thổi cơm ở dưới bếp. Những tàu cau in nét sắc như cắt lên nền trời hoàng hôn đang ngả dần sắc tím. Những cánh chim hối hả bay về Không biết tôi còn phải sống bao lâu nữa trong ngôi nhà hoang vắng này với bà cô cổ quái của tôi? Không ai có thể trả lời cho tôi câu hỏi đó. Tôi muốn khóc.
Sau bữa cơm, cô tôi thắp đèn lên, đặt tôi ngồi cạnh bà.
- Lạy Cha chúng tôi ở trên lời, chúng tôi nguyện danh cha cả sáng nước. Cha trị đến, vâng ý cha dưới đất bằng trên lời vậy...
- Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Lời cầu cho chúng tôi khi nay và trong giờ lâm tử. A-men.
Cô tôi đăm đăm nhìn lên tượng Chúa, đọc kinh cầu hàng ngày, tôi lẩm nhẩm đọc theo để học. Mỗi lần thấy tôi đọc quá khẽ, bà lấy đầu gối huých tôi một cái. Tôi xếp chậu bằng tròn nhìn lên cái quả lắc đung đưa phản chiếu lửa đèn nhợt nhạt, mắt díp lại từng chặp, cố ngồi cho hết những bài kinh cầu nối nhau dài dằng dặc, tôi chìm vào trong tiếng rì rầm đều đều và buồn bã, đoạn đầu cao và rõ, đoạn sau thấp dần, mờ đi tới mức chẳng còn tiếng gì ra tiếng gì, trong tiếng tích tắc mệt mỏi của cái đồng hồ già lão, trong tiếng mọt nghiến gỗ cần cù.
Bóng tối dày đặc vây quanh căn nhà của hai cô cháu, nơi những con quỷ đen đang rón rén đi lại, rình mò. Một con cú thỉnh thoảng lại rúc lên một tiếng buồn thảm ở đâu đó rất gần và rất xa. Vẳng đến tiếng ken két của những thân tre cọ mình vào nhau.
Cô Gái tần tiện vặn nhỏ tim đèn xuống cho tới khi nó chỉ lớn không hơn con đom đóm. Ngọn đèn leo lét ngọn lửa xanh yếu ớt, không chiếu sáng được cho chính nó. Bóng tối lập tức luồn qua những khe cửa vào tới tận chân đèn. Tôi lẳng lặng theo cô tôi chui vào trong cái màn rộng và tối om.