1. Các thời kỳ và niên đại
Ba đời Hạ, Thương, Chu, sử gọi là Tam Đại. Đời Chu dài nhất: 900 năm: 1121 - 221 trước Công nguyên (theo Từ Hải). Nếu theo thuyết của Eberhard (đầu chương III) thì phải sửa là 1049 - 221 trước Công nguyên, rút đi 70 năm.
Các sử gia trung Hoa chia đời Chu làm hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất đóng độ ở đất Phong, đất Cảo (tỉnh Thiểm Tây bây giờ) gọi là Tây Chu (1121 - 770 TrCN); đến đời Chu Bình Vương, bị các dân tộc du mục Hiểm Doãn và Khuyển Nhung ở phía Tây uy hiếp, phải dời độ qua Lạc Dương (Hà Nam ngày nay) ở phía đông, từ đó bắt đầu thời kỳ thứ nhì gọi là Đông Chu.
Đời Đông Chu lại chia làm hai thời kỳ nữa: thời Xuân Thu (722-479 TrCN) và thời Chiến Quốc (478-221 TrCN). Sự phân chia này chỉ dựa trên một bộ sử biên niên của Khổng Tử, bộ Xuân Thu. Bộ này chép sử nước Lỗ từ năm thứ nhất đời Lỗ Ấn Công (721 TrCN) đến năm thứ 14 đời Lỗ Ai Công (481 TrCN), gồm 240 năm, năm 479 là năm Khổng Tử mất. Chữ Xuân Thu mới đầu chỉ một năm (người ta lấy mùa xuân và mùa thu để tượng trưng cho một năm), rồi chỉ những bộ sử chép việc từng năm (vì vậy mà ngoài bộ Xuân Thu của Khổng Tử, còn nhiều bộ sử khác như của Tả Khâu Minh, Công Dương, Cốc Lương ... cũng gọi là Xuân Thu).
Nhiều học giả thấy năm 721 và năm 481 (hoặc năm 479) không đánh dấu một biến cố lớn lao nào trong lịch sử, nên đã chia lại như sau:
-Thời Xuân Thu: 770-403 TrCN, từ đời Chu Bình Vương tới cuối đời Chu Uy liệt vương.
-Thời Chiến Quốc:402-221 TrCN, từ đời Chu An Vương đến khi nước Tần diệt được Tề và thống nhất Trung Quốc.
Lối phân chia này hợp lý hơn, lấp được chỗ trống từ 770 đến 721 TrCN, nhưng cũng vẫn là gượng ép vì suốt đời Đông Chu, lịch sử Trung Hoa chuyển biến liên tục, không bị gián đoạn, từ chế độ phong kiến sang chế độ quân chủ chuyên chế; mà năm 403 TrCN cũng không có một biến cố nào quan trọng đủ để mở đầu một thời đại.
Dưới đây tôi chép lại bảng niên đại của Gernet (trong sách đã dẫn) từ thời tiền sử đến cuối đời Tần, đầu đời Hán, khi Trung Hoa được thống nhất. Bảng có tính cách rất phỏng chừng.
Như trên tôi đã nói, Eberhard cho các niên đại về nhà Hạ phải sửa lại là 1800 đến 1500 TrCN, về nhà Thương phải sửa lại là 1450 đến 1050 TrCN; do đó nhà Chu phải bắt đầu từ 1050.
Một điểm nữa: Gernet cho nhà Thương chấm dứt năm 1112 TrCN, nhà Chu bắt đầu từ 1111 TrCN; nhưng theo Từ Hải thì là 1122 và 1121 TrCN. Có thể Gernet cho nhà Chu không bắt đầu ngay từ khi Chu Vũ Vương diệt Trụ (1122 TrCN), mà từ khi Vũ Vương chiếm kinh đô của nhà Thương rồi dời hết dân nhà Thương qua Lạc Ấp năm 1111 TrCN. Chi tiết đó nhỏ, không đáng kể.
2.Thời Tây Chu - Chế độ phong kiến
A. Văn minh nhà Chu. Ba ông thánh
Nhà Chu vốn là một chư hầu của nhà Thương, ở phía Tây (tỉnh Thiểm tây) nên nhà Thương gọi là Tây di. Chữ di này có nghĩa là rợ, vì họ không văn minh bằng Thương. Các học giả ngày nay như Eberhard, Gernet cho rằng họ là một bộ lạc Thổ (Turc) sống chung với một số người Tây Tạng (Tibet). Họ lần lần chịu ảnh hưởng của nhà Thương, mất tính cách Thổ đi mà gần đồng hoá với nhà Thương.
Tới đời vua Trụ, họ có một ông vua "hiền minh, có thánh đức" - theo các sử gia Trung Hoa - tên là Xương. Ông Xương, không hiểu vì lẽ gì, bị vua Trụ giam ở ngục Dữu Lý. Tương truyền khi ở trong ngục, ông nghiên cứu 64 quẻ dịch và viết Thoán từ để giải ý nghĩa của mỗi quẻ. Sau Trụ tha ông, phong ông làm Tây bá (chư hầu lớn nhất ở phía Tây), sai ông đi dẹp loạn, ông thắng (nhờ biết dùng Lã Vọng), rồi dời qua ở đất Phong (Thiểm Tây). Thời đó vua Trụ đã bị nhiều chư hầu bất phục, bỏ Trụ theo ông, nhưng theo truyền thuyết, ông vẫn trung thành với Trụ, không lợi dụng thời cơ mà diệt Trụ.
Ông mất, con ông là Phát nối lên làm Tây bá, hội chư hầu để đánh Trụ. Bá Di và Thúc tề, con vua nước Cô Trúc can, Phát không nghe. Vì vậy Bá Di, Thúc Tề không phục nhà Chu, bỏ đi ẩn ở núi Thú Dương. Phát cầm đầu 800 (!) chư hầu - mỗi chư hầu thời đó có lẽ chỉ là một bộ lạc - giết Trụ, chiếm nhà Ân[1], tự xưng là Chu Vũ Vương, truy phong cho cha là Văn Vương.
Vậy là một bộ lạc ở phía Tây kém văn minh và hiếu chiến (nhà Chu) đa diệt một bộ lạc văn minh hơn, yếu hơn (nhà Thương) ở phía Đông. Sự việc đó còn xảy ra nhiều lần nữa trong lịch sử Trung Hoa. Dân Trung Hoa theo nông nghiệp, hiếu hòa, thời nào cũng bị các dân tộc du mục ở phía tây lấn,và phải lánh qua phía đông, đời Thương đã vậy; đời Chu sau này cũng vậy. Cuối thời Chiến Quốc, nước Tần ở phía Tây, khai hóa sau các nước Chu, Yên, Tề ở phía Đông, diệt các nước này mà thống nhất Trung Quốc. Đời Hán, Đường, Trung Hoa cũng thường bị các rợ Tây và Tây Bắc uy hiếp, và cuối đời Tống thì giang sơn dân tộc Hán bị Mông Cổ ở Tây Bắc chiếm trọn. Đó là một điểm đặc biệt trong lịch sử Trung Quốc.
Vũ Vương ở ngôi không được lâu (7 năm) chưa lập lại được trật tự trong nước thì băng, con là Thành vương còn nhỏ lên nối ngôi; em Vũ Vương là Đán, tức Chu Công, làm trủng tế, coi việc nước, diệt được bọn phản loạn (như bọn em Vũ Vương muốn cướp ngôi của cháu, và bọn theo con vua Trụ chống lại nhà Chu), bắt một số dân ở kinh đô rời qua Lạc Ấp vì ngại họ còn trung thành với nhà Thương.
Nhưng thành công lớn nhất của Chu Công Đán là đặt ta các chế độ mới: chế độ phong kiến, chế độ tôn pháp, sửa đổi tôn giáo, không thờ thần sinh sản nữa,làm cho văn minh nhà Chu rực rỡ lên, thành một nền văn minh đặc biệt Trung Hoa. Vì công đó mà các sử gia đời sau đặt ông vào hàng ba "ông thánh của nhà Chu", sau Văn Vương và Vũ vương.
B.Chế độ phong kiến
Phong kiến có nghĩa là vua phong tước cho một bầy tôi (hoặc là một người trong họ nhà vua, hoặc là một công thần...) và cho người đó một khu đất để người đó kiến quốc (lập nước). Người đó thành một chư hầy của vua.
Ở trên tôi đã nói cuối đời Thương, chế độ đó đã manh nha rồi, nhưng phải đợi đến đời Chu nó mới được Chu Công quy định, sửa đổi dần dần. Cũng do hoàn cảnh bắt buộc.
Nhà Chu là một nước nhỏ, dân ít, phải nhờ nhiều bộ lạc giúp mới diệt được nhà Thương, chiếm được nhiều đất đai quá, không sao cai trị hết được, nhất là thời đó nhiều nơi chỉ có những đường mòn, không dùng chiến xa được; vả lại chiến xa mới xuất hiện, rất ít; còn kỵ binh mãi tới đời Chiến Quốc mới có.
Vậy muốn cai trị những miền ở xa, chỉ có cách lập rải rác những cái ** ( bản thảo mất hai chữ), và giao sự chỉ huy cho một người thân tín của nhà vua, hoạc một người đã có công giúp Chu diệt Thương. Bộ lạc nào trước làm tôi nhà Thương, nay chịu phục tùng cũng phong tước cho.
Vua Chu chỉ nắm quyền trung ương ở Thiêm Tây (gần Tây An ngày nay), còn thì chia đất cho:
- Bà con, như phong con của ông Chu Công là Bá Cẩm ở Lỗ (Lỗ Công);
- Một số người hiền của nhà Thương, như phong cho Vi Tử (người đã can vua Trụ mà Trụ không nghe) ở Tống;
- Công thần, như phong cho Lã Vọng ở Tề, cho hai vị đại thần khác, một ở Yên, một ở Sở.
- Và trên một ngàn tù trưởng.
Theo nguyên tắc thì đất của vua (vương) tức thiên tử được ngàn dặm vuông và có vạn cỗ chiến xa (vạn thặng)[2]; dưới vương có năm tước: công, hầu, bá , tử, nam. Đất phong của hai bậc công và hầu được trăm dặm vuông, có ngàn cỗ chiến xa (thiên thặng); bậc bá được bảy chục dặm vuông, có trăm cỗ chiến xa; hai bậc tử, nam được năm chục dặm vuông, năm chục cỗ chiến xa. Tất cả những nước nhỏ đó gọi chung là chư hầu; mỗi chư hầu sau lại sáp nhập thêm một hay nhiều nước nhỏ, gọi là phụ dung, tức là chư hầu của chư hầu. Tất cả các nước đó đều làm phiên dậu cho nhà Chu, và dựng một hay nhiều đồn trên đất của mình. Mỗi đồn lớn hay nhỏ là một thị trấn có luỹ bằng đất bao quanh, và hai đường chữ thập cắt ngang từ đông sang tây và từ bắc xuống nam. Chung quanh đồn là nhà của dân chúng mà người ta gọi là "lê dân" (dân tóc đen); còn giới quý tộc sống trong đồn thì gọi là "bách tính" (trăm họ)[3]; danh từ bách tính thời sau mới có nghĩa là dân thường.
Nguyên tắc là vậy, nhưng thời đó chưa biết đạc điền thì những số trăm dặm, bảy chục dặm chỉ là phỏng chừng, thiên tử muốn giữ bao nhiêu đất mà chẳng được, và những công, hầu mạnh lên muốn mở mang bờ cõi thì ai cấm. Vả lại, trừ những biên giới thiên nhiên như sông, núi, còn trong rừng và cánh đồng thì làm sao vạch được biên giới, chỉ đắp một mô đất (gọi là phong 封)[4] để đánh dấu mà thôi. Cho nên uy quyền của một chư hầu lan tới đâu thì đó là biên giới.
Bổn phận của chư hầu là một hai năm một lần phải lại triều cống thiên tử - cống phẩm là sản vật trong nước - trình bày về tình hình cai trị trong nước; có sự xích mích gì với lân bang thì không được tự giải quyết lấy bằng vũ lực mà phải để thiên tử xử; khi chư hầu chết, truyền ngôi lại cho con thì phải được thiên tử chấp nhận.
Ngược lại bổn phận của thiên tử là phải che chở, giúp đỡ các chư hầu: nước nào bị ngoại tộc xâm lăng thì đem quân lại cứu; nước nào mất mùa thiên tử cũng phải cứu trợ. Và năm năm một lần, thiên tử đi thăm hết các chư hầu một lượt, dĩ nhiên là chỉ tới những nước lớn rồi bảo các nước nhỏ tới họp để cùng tế lễ thần núi (ngũ nhạc) và nghe các nguyện vọng của họ.
Tới đâu thiên tử cũng cho mời các ông già bà cả cao tuổi nhất lại chúc mừng và thăm hỏi về dân tình. Dân tộc Trung Hoa đã có tục trọng người già vào thời đó. Thiên tử lại quan sát các sản phẩm trong nước, nghe các bản nhạc, các bài hát trong các cuộc tế, lễ ở mỗi triều đình, các bài ca dao trong dân gian và sai người chép lại, để biết phong tục mỗi noi, đời sống, nguyện vọng của dân. Những bài hát trong dân gian đó được Khổng Tử sau này sưu tập thành bộ Kinh Thi, nhờ vậy chúng ta biết được khá đúng những tục lệ, nỗi vui buồn, lo lắng, oán thán và tình yêu giữa nam nữ Trung Hoa của ba ngàn năm trước.
Trong các cuộc kinh lý đó, thiên tử khen thương, khuyến khích người tốt, trừng trị, răn đe kẻ xấu, khi trở về kinh đô, ông tế lễ ở thái miếu, trình với các tiên vương về công việc của mình.
Theo nguyên tắc thì như vậy, chứ trong thực tế thì chỉ độ một thế kỷ sau khi nhà Chu dựng nước, tục lệ tốt đẹp đó đã bị quên dần đi: thiên tử có khi cả đời không ra khỏi nước mà có chư hầu 242 năm (như nước Lỗ) mới triều cống thiên tử có ba lần.
Chế độ phong kiến đó có nhiều điểm tốt:
- Nó giúp nhà Chu cai trị được một lãnh thổ rộng mênh mông gấp mười đất của Chu mà không phải dùng nhiều quân đội, không tốn sức;
- Nó lập được một tổ chức có trật tự, trên dưới đều có quyền lợi và bổn phận, mà bổn phận của trên (thiên tử) nặng hơn của dưới, còn quyền lợi của trên thì ít: chư hầu lâu lâu mới phải cống cho thiên tử một cách tượng trưng, mà thiên tử phải cho lại họ nhiều, phải giúp đỡ khi có chiến tranh, đói kém.
- Nó cho mỗi nước độc lập trong một liên hiệp, do đó vừa tạo được tinh thần quốc gia, vừa tạo được tinh thần tứ hải giai huynh đệ.
- Tinh thần quốc gia nhờ nó mà không hẹp hòi vì "đất nào cũng là đất của nhà Chu, người nào cũng là dân của nhà Chu." Cho nên ta thấy dân một nước khi không chịu được chế độ hà khắc của nhà cầm quyền thì bỏ qua nước khác; một kẻ sĩ không được trọn dụng ở nước này thì bỏ qua nước khác: Khổng Tử, Mạnh Tử và tất cả các kẻ sĩ thời Xuân Thu và Chiến Quốc đều như vậy.
- Nó giúp nhà Chu đem văn minh truyền bá khắp các chư hầu; danh từ Trung Hoa (xứ văn minh ở trung tâm) có thể xuất hiện từ hồi đó;
- Nó trọng ý dân và hoà bình, giải quyết được những mâu thuãn giữa các nước nhỏ mà không phải dùng đến vũ lực. Nó tạo ra một hình thức chiến tranh "lễ độ", "quân tử" rất đặc biệt, khắp thế giới không thấy ở đâu cả, mà Marcel Granet đã chép lại rất kỹ trong cuốn La Civilisation Chinoise (Albin Michel - 1948), phần II, quyển III, chương III. Chỉ có tướng hai bên chiến đấu với nhau thôi, quân lính đứng ở sau ngó, y như trong truyện Tam Quốc Chí. Trước khi ra trận họ bói, rồi định ngày, giờ xáp chiến. Họ dùng chiến xa, khi gặp nhau, họ tặng nhay một bình rượu, chào hỏi nhau, nếu chức tước ngang nhau thì mới giao chiến; nếu một bên chức tước lớn hơn thì bên kia không dám đánh, sợ mang tiếng là vô lễ.
Có lần chiến xa của Tấn lún xuống bùn, không tiến được. Một tướng Sở đứng nhìn và khuyên người đánh xe của Tấn cách thoát ra khỏi chỗ lầy.
Đặc biệt nhất là lần Tống Tương Công giao chiến với quân Sở Thành vương ở sông Hoằng. Công tử Mục Di bảo Tống Tương công:
- Quân họ nhiều, quân ta ít, nên đánh ngay khi họ chưa qua sông.
Tương công không nghe. Quân Sở qua sông rồi nhưng chưa bày trận, Mục Di lại bảo:
- Nên đánh đi.
Tương công bảo:
- Đợi cho họ bày trận xong đã.
Quân Sở bày trận xong, quân Tống tấn công, và đại bại. Tương công bị thương ở đùi. Người trong nước oán ông, ông nói:
- Đấng quân tử ai lại làm khó người khác trong lúc người ta quẫn bách!
Họ cho thắng bại là do ý trời, mà giữ đạo đức, lễ nghĩa là cái vinh dự của người quân tử.
Dĩ nhiên những trường hợp kể trên khá hiếm, và nhiều khi họ đâm chém nhau cũng rất hăng. Nhưng so với thời nay, thả một trái bom mà san phẳng một thành phố, giết cả mấy trăm ngàn dân lành thì chúng ta phải nhận rằng chúng ta dã man hơn cả người xưa.
Thời Trung cổ, ở phương Tây (như Pháp chẳng hạn) cũng có chế độ féodalité mà ta dịch là phong kiến, nhưng sự thực thì féodalité khác phong kiến Trung Hoa. Thời đó vua chúa của phương Tây suy nhược, các rợ (như Normand, Germain, Visigoth) ở chung quanh thường xâm lấn, cướp phá các thành thị, đôi khi cả kinh đô nữa, rồi rút lui. Các gia đình công hầu thấy sống ở kinh đô không yên ổn, triều đình không che chở được cho mình, phải dắt díu nhau về điền trang của họ, xây dựng những châteaux forts vừa là lâu đài vừa là đồn luỹ kiên cố, chung quanh có hào; họ đúc khí giới, tuyển quân lính để chống cự với giặc. Nông dân ở chung quanh đem ruộng đất tặng lãnh chúa hoặc sung vào quân đội của lãnh chúa để được lãnh chúa che chở. Do đó mà một số lãnh chúa khá mạnh, đất rộng, quân đông, họ hợp lực nhau đem quân cứu triều đình, được phong tước cao hơn, có khi lấn áp nhà vua nữa, và sau triều đình phải tốn công dẹp họ để thống nhất quốc gia. Nguyên nhân thành lập chế độ phong kiến ở Đông và Tây khác nhau như vậy nên không thể so sánh với nhau được. Một học giả Pháp bảo chế độ phong kiến của nhà Chu còn hữu hiệu hơn Liên Hiệp Quốc ngày nay. Phải, lý thuyết thì như vậy, nhưng trên thực tế nó cũng chỉ tốt đẹp được non 100 năm, rồi sau đó suy tàn dần, hoá ra vô hiệu, như sau này chúng ta sẽ thấy.
C. Chế độ tôn pháp
Cuối đời Thương, Trung Hoa đã dần dần bỏ chế độ mẫu hệ mà chuyển sang chế độ phụ hệ, họ đã truyền ngôi cho con cháu chứ không truyền ngôi cho em cùng mẹ.
Chu Công đặt ra những luật lệ chặt chẽ đời sau chép trong Kinh Lễ, và gần đây được nhà Trung Hoa học Pháp Léon Vandermeersch nghiên cứu tỉ mỉ trong cuốn Wangdao ou la Voie royale (Ecole française d Extrême Orient - Paris 1977).
Dưới đây tôi chỉ giới thiệu vài nét chính.
Hồi đầu các vua nhà Thương truyền ngôi cho em, không có em mới truyền cho con; người em lên ngôi, khi chết truyền ngôi lại cho con của vua anh trước. Cuối triều đại nhà Thương, lệ đó dần dần bãi bỏ: ngôi vua luôn được truyền cho con, chứ không cho em. Nhà Chu bắt chước nhà Thương: Văn Vương mặc dầu có mấy người em vẫn truyền ngôi cho con là Vũ Vương. Chế độ lập đích tử từ đó được Chu Công, một chính trị gia có tài, em của Vũ Vương, quy định, rồi dần dần ngày càng được hoàn thiện, bổ sung; trong sử gọi là tôn (cũng đọc là tông) pháp: (宗法).
Vua (thiên tử hay chư hầu) lựa một người con mà truyền ngôi cho - theo nguyên tắc đích tử là con trưởng của hoàng hậu - chỉ người đó được làm thiên tử hay vương còn những người khác thì lãnh những tước nhỏ hơn, lãnh địa cũng nhỏ hơn, hoặc làm chư hầu, hoặc làm khanh, đại phu.
Người con kế vị đó được gọi là tự vương hay tự quân, làm chủ tế trong tôn miếu; những người con khác chỉ làm bồi tế. Sự tiếm vị bị coi là một tội nặng, Khổng Tử rất ghét.
Các gia đình đại phu cũng vậy: người con kế nghiệp làm chủ tế, gọi là "đại tôn", những người khác làm tiểu tế, gọi là "tiểu tôn". Có những thể chế quy định từng chi tiết trong các cuộc tế đó.
Trong gia đình thường dân, người con trưởng luôn luôn được hưởng gia tài, giữ việc hương khói. Địa vị người đó quan trọng nhất trong nhà nhưng trách nhiệm cũng lớn nhất: lo cho mọi người trong nhà đủ ăn đủ mặc, dạy bảo người dưới, chịu sự chê trách của gia tộc, xã hội nếu trong gia đình có kẻ nghèo đói hoặc hư hỏng, bị tội, làm nhục tổ tiên.
Ngược lại, người đó và cả vợ nữa, được người trên nể, người dưới tuân lời. Khi em còn nhỏ, ở chung nhà thì anh có quyền thay cha (đã mất); em lớn rồi, ra ở riêng, may mà giàu có, sang trọng hơn anh thì về nhà vẫn phải lễ phép với anh, có bổn phận giúp đỡ anh, mà không được khoe giàu sang trước mặt anh.
Con gái không được quyền thừa kế[5], ra ở riêng rồi thì không còn địa vị gì trong nhà nữa, thành người của gia đình bên chồng (nữ nhân ngoại tộc). Do đó có tinh thần trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô).
Tổ chức đại gia đình đó rất thích hợp với chế độ nông nghiệp để đất đai của gia đình không bị phân tán vào tay người ngoài, mà sự khai thác chung được dễ dàng, sự tiêu pha đỡ tốn kém. Nó tạo nên tinh thần gia tộc: giúp đỡ lẫn nhau, giữ danh dự chung cho nhau. Nhưng nó cũng gây nhiều tệ mà non nửa thế kỷ trước nhóm Tự Lực văn đoàn của ta đã vạch ra: nó bó buộc cá nhân quá, gây nhiều sự bất công, bất bình nếu gia trưởng không đàng hoàng, nó không khuyến khích tinh thần tự lập, nhiều kẻ hoá ra ăn bám.
Muốn cho chế độ tôn pháp được vững, đời Chu tạo ra chữ hiếu và đề cao hiếu đễ: con phải hiếu với cha mẹ, kẻ dưới phải tôn kính người trên và ai cũng nhận rằng dân tộc Trung Hoa là dân tộc coi trọng chữ hiếu nhất. Vì trọng chữ hiếu, nên họ chú trọng đến tang lễ, tế tự. Sự thờ phụng tổ tiên gần thành một tôn giáo.
Chế độ tôn pháp rất quan trọng về chính trị: nó chấm dứt chế độ thị tộc mà thay bằng chế độ gia tộc. Ngôi vua không còn do cả thị tộc lựa người tài năng nhất nữa, mà do cha truyền cho con, không truyền hiền nữa mà truyền tử. Chế độ đó theo truyền thuyết, có từ đời Hạ, nhưng đời Chu mới quy định nó rõ ràng. Khi còn là một bộ lạc vài vạn người là cùng thì có thể truyền hiền được; khi đã phát triển thành một nước có cả triệu người thì sự truyền tử (quân chủ) là một giai đoạn cần thiết, trước khi nhân loại tiến bộ, có đủ điều kiện để thành lập chế độ dan chủ, đại nghị.
Nhưng nó cũng có nhiều cái hại. Anh em, chú cháu tranh giành nhau, chém giết nhau, không triều đại nào tránh khỏi, mà hoàng tộc là họ có nhiều kẻ bị bất đắc kỳ tử nhất; lại thêm cũng vì ham ngôi báu mà vợ vua xen vào việc nước, lấn hết quyền hành của người chồng nhu nhược, hiếu sắc, hoặc là của con, nhất là khi nó còn nhỏ, nạn đó là nạn ngoại thích; nạn thứ ba là phải dùng toàn hoạn quan ở trong cung, sợ mất huyết thống mà ngôi báu vào tay một kẻ không cùng dòng máu với mình. Hai nạn ngoại thích và hoạn quan đã xảy ra từ đời Chu (có thể từ đời Thương nữa) và càng về sau càng tệ: có thời trong cung vua có tới ba ngàn hoạn quan, có ông vua sợ viên thái giám như sợ cha; nếu mẹ vua mê một thầy chùa giả làm hoạn quan thì triều đại bị hai cái tệ ngoại thích và hoạn quan một lúc, nhất định là phải sụp đổ trong sự nhục nhã.
Từ đời Chu, có người đã cảnh cáo vua chúa về hai nạn đó, và triều đại nào cũng có một hai ông vua tìm cách cấm ngặt bọn hoạn quan xen vào việc nước, đặt ra những hình phạt rất nặng để trừng trị bọn họ, nhưng không hiệu quả, vì như vậy chỉ là trị ngọn; gốc là chế độ quân chủ chuyện chế, chế độ đa thê, chế độ tôn pháp. Ả Rập, Ba Tư, Ai Cập ... đều bị nạn đó cả; phương Tây thì không có hoặc có mà rất ít, vì họ không có chế độ đa thê và chế độ tôn pháp.
*
Tôn giáo
Cũng như hầu hết các dân tộc khác, người Trung Hoa cho rằng trong vũ trụ phải có một đấng sinh ra vạn vật, làm chủ hết cả. Chắc hồi đầu họ có đấng đó như một nguyên hậu, có tai, mắt, ý chí, tình cảm như người, yêu dân, cứu giúp dân, sinh ra các giống lúa, mưa thuận gió hoà để nuôi dân,và họ gọi đấng đó là đế, Thượng Đế. Thượng Đế cai quản các quỷ thần, cũng như vua có bách quan.
Nhưng từ cuối đời Thương, nhiều người không tin rằng trời có hình dáng như người nữa, chỉ là một cái lý rất linh diệu và họ lờ mờ đưa ra thuyết âm dương biến hoá.
Họ lại nghĩ rằng người được bẩm sinh cái thiên lý, làm việc gì hợp với lẽ trời là phải, nghịch với lẽ trời là trái; thiên đạo và nhân sự quan hệ với nhau. Quan niệm "thiên nhân tương dữ" đó là một nét đặc biệt của tín ngưỡng Trung Hoa.
Dù không tin Thượng Đế có hình dáng như người nữa, nhưng họ vẫn cho rằng vua được Thượng Đế giao cho việc trị dân, vua như con cả của trời (thiên tử), phải cúng tế trời, và chỉ vua mới có quyền thay muôn dân mà cúng tế trời thôi (tế giao); còn chư hầu thì ai ở phương nào cúng tế các thần ở phương ấy: thần xã (đất đai), tắc (mùa màng: Thần Nông), thần núi, sông...; kẻ sĩ và dân thường thì tế tổ tiên của mình, cúng ông Táo, thần tài, thần sinh sản (để có đông con, được mùa)... Ngoài ra, cũng như mọi dân tộc thời đó, dân Trung Hoa rất tin bọn đồng cốt, thầy pháp (họ gọi là vu hích) và cúng ma quỷ để chúng khỏi làm hại mình. Họ có điểm này khác: việc gì còn nghi ngờ, họ cũng hỏi tổ tiên, quỷ thần rồi mới quyết định.
Đại khái tín ngưỡng của người Trung Hoa đời Chu như vậy. Có thể coi như một tôn giáo được không? Nếu là tôn giáo thì gọi nó là gì? Đa thần giáo? Thượng đế giáo (Déisme)? Nhưng ngoài Thượng Đế người Trung Hoa còn thờ cúng nhiều thần khác và tổ tiên nữa. Hay là vũ trụ giáo (?) như một học giả phương Tây - mà tôi quên tên - đã đề nghị?
Vả lại nó khác xa các tôn giáo Ki Tô, Do Thái, Phật, Hồi: không có giáo chủ (vua Trung Hoa chỉ thay mặt toàn dân mà tế trời thôi, không thuyết pháp cho dân), không có tổ chức giáo phẩm, chỉ có quan giúp vua coi về thiên sự:làm lịch, xem xét thiên tượng, định thời tiết cho việc canh nông, xem sao trên trời và quan thái bốc coi việc bói (bốc, phệ) để đoán việc cát hung; không có kinh kệ, không có giáo đường gì cả. Nhất là nó không quan tâm chút gì tới sự cứu rỗi, tế độ cá nhân, không nói đến lai sinh, không biết đến thiên đường, địa ngục, niết bàn...
Cho nên nhiều người đã bảo Trung Hoa thời đó không có tôn giáo; và Henri Maspéro trong cuốn La Chine antique (PUF - 1965) tuy nhận nó là một tôn giáo, nhưng cũng không đặt cho nó một tên nào cả, chỉ bảo nó là một tôn giáo có tính cách xã hội (religion sociale) - chữ xã hội này hiểu theo nghĩa trái với cá nhân - mục đích của nó là mưu hạnh phúc cho quốc gia, xã hội, toàn thể nhân dân: quốc gia được thăng bình, xã hội có trật tự mà nhân dân nhờ mưa thuận gió hoà mà được no ấm. Đó cũng là một đặc điểm nữa của dân tộc, của văn minh Trung Hoa.
Không có kinh kệ, không có giáo đường thì lòng tín ngưỡng của dân không mạnh, không có địa ngục thì dân không sợ; sử chép một ông vua đời Thương đã vác cung ra sân bắn trời và trong Kinh Thi có nhiều câu ca dao oán trời.
Ngay Khổng Tử rất kính trời mà cũng chỉ nhắc tới trời trong mỗi một câu: "Trời có nói gì đâu, bốn mùa thay đổi, vạn vật sinh sôi, trời có nói gì đâu," cơ hồ ông chỉ coi trời là luật thiên nhiên thôi.
Sau ông, Mặc Tử thấy tín ngưỡng của dân sa sút quá, muốn gây lại lòng tín ngưỡng thời Ân, Thương, lập một tổ chức như một giáo phái, quy tụ được một số tín đồ coi ông là giáo chủ, nhưng ít ai theo và chưa được trăm năm, ngay môn đệ của ông cũng bỏ luôn.
Phải tới đời Hán, Trung Hoa mới có một tổ chức tựa như một tôn giáo tế độ cho cá nhân, tôi sẽ xét ở sau.
D. Tổ chức hành chính
Triều đình - quan chế
Bên cạnh thiên tử có những chức quan lớn mà danh hiệu mỗi triều đại một khác, do đó mỗi sách chép một khác, có khi cùng một danh hiệu mà sách nay chỉ một chức vụ này, sách khác chỉ một chức vụ khác, ví dụ danh hiệu trủng tế chỉ một chức quan coi về các việc riêng (chắc là ở trong cung) của vua, theo Henri Maspéro (La Chine antique); mà trong Trung Quốc sử lược của Phan Khoang, lại chỉ một chức coi việc hành chính trong nước.
Chúng ta chỉ cần biết đại khái rằng đời Chu, triều đình đã có bốn chức như chức thượng thư đời sau: tư mã coi việc binh, tư khấu coi việc hình, tư đồ coi về canh nông, tư không coi về dân sự, ruộng đất, đê điều, đường sá ... (tức như bộ công thời sau)[6] - Vậy là chưa có hai bộ: bộ lại, bộ hộ, vì chưa cần thiết, có thể giao cho những quan nhỏ.
Ngoài ra có một chức coi về việc riêng của vua (trủng tế?); một chức coi về việc ăn uống của vua (thiện phu); một chức coi về kho lẫm (truyền phủ); một chức dạy thái tử (sư phó?); dĩ nhiên có một quan coi các hoạn quan nữa.
Ở triều đình có ba chức quan nhỏ: Chức coi về thiên sự, tế lễ, lịch; Thái bốc coi về bói...; và Sử coi về nhân sự, chép lại việc các đế vương đời trước, để lưu truyền những điều các tiên vương đã đặt ra. Những Kinh, Thi, Thư,Lễ, Nhạc đều do sử quan làm ra. Điểm này rất đặc biệt: không dân tộc nào chép sử kỹ như Trung Hoa.
Ngoài kinh đô, nước chia ra làm châu, rồi tới quận, lý (làng), giao cho đại phu hoặc kẻ sĩ cai trị.
Điền chế
Đất nào cũng là của nhà vua. Vua ban đất cho họ hàng, bề tôi để họ khai thác (đất đó gọi là đất phong); họ lại giao cho một người quản lý, gọi là tế. Viên này tuy là quản gia nhưng rất có quyền, những nông dân trong đất thuộc quyền của họ, phải nộp cho họ một phần mười hoa lợi.
Người ta thi hành phép tỉnh điền (xét ở sau), chia ruộng làm ba hạng: tốt, trung bình, xấu; đất trung bình thì số ruộng được chia bằng hai số ruộng tốt; đất xấu thì được bằng ba.
Tới đời Xuân Thu, một số nước như Tần cho mọi người được tự tiện khai phá đất hoang, do đó phát sinh một hạng chủ điền, một giai cấp mới giàu có, dần dần có học.
Binh chế
Nhà Chu cho phép trưng binh. Lính, chiến xa, ngựa, bò, dân phải nộp cho nhà nước theo định số. Quân đội chia làm ngũ (năm người lính), lượng (năm ngũ) do một tư mã cai quản, tốt (bốn lượng), lữ (năm tốt), sư (năm lữ) do một đại phu làm suý cai quản, quân (năm sư) do một viên tướng cai quản.
Theo nguyên tắc, thiên tử có sáu quân, chư hầu có ba hoặc hai, một tuỳ theo lớn nhỏ. Nguyên tắc đó ít khi được theo.
Pháp chế
Pháp chế của thời đó phân biệt hai giai cấp: quý tộc (đại phu) và dân thường (thứ dân).
Quý tộc mà phạm tội thì xử theo lễ, nghĩa là theo tục lệ của giới quý tộc; dân thường mà phạm tội mới bị triều đinh xét theo hình luật, tội nặng nhất thì bị nhục hình khắc chữ trên trán, cắt mũi, chặt chân, thiến, xử tử, xé thây, lăng trì, tru di tam tộc (họ cha, họ mẹ, họ vợ). Tội nhẹ hơn thì bị gọt đầu, hay đồ (đày đi xa).
Bọn quý tộc không bị nhục hình, hoặc bị thì được phép nộp tiền để chuộc tội, do đó có câu: con nhà giàu không bao giờ bị chết chém, phơi thây ở chợ.
Hình luật mới đầu không được ban bố trong dân gian, như vậy triều đình muốn áp dụng ra sao tùy ý, dân không được biết; dần dần về sau, mới được khắc lên đỉnh đồng cũng chỉ để ở trong cung thôi, rồi khắc lên gỗ treo ở kinh đô và các thị tứ[7].
Giáo dục
Từ đời Thương, Trung Hoa đã có chữ viết, mới đầu khắc trên giáp cốt, lên đồ đồng; rồi sau, từ đầu đời Chu (?) khắc bằng dao hoặc viết bằng sơn lên thẻ tre; su nữa lại viết bằng sơn trên lụa.
Có chữ viết thì có trường học. Tên trường học mỗi thời một khác. Ta chỉ cần biết là trường chia làm hai cấp: tiểu học cho những trẻ từ 8 đến 14 tuổi, đại học cho thiếu niên từ 15 đến 20 tuổi.
Tiểu học dạy cho trẻ cách ứng đối, kính nhường và học một số chữ. Đại học dạy lục nghệ tức lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngự (đánh xe), thư (viết chữ), số (toán học).
Con nhà bình dân thì học ở hương học (trường ở làng), con nhà quý tộc học ở trường quốc học (kinh đô). Sử chép như vậy, nhưng đầu đời Chu có lẽ chỉ con nhà quý tộc mới được học cấp đại học, biết lục nghệ để sau ra làm quan, còn con bình dân thì may lắm một số rất ít được học vài năm ở tiểu học thôi.
Tới gần cuối đời Xuân Thu, Khổng Tử là người đầu tiên mở trường tư thục để dạy trẻ em và thanh niên bất kỳ thuộc giai cấp nào. Có thể ông cũng dạy lục nghệ, nhưng ông chú trọng nhất tới sự đào tạo một số thanh niên tuấn tú (đa số trong giới điền chủ mới và quý tộc sa sút như chính ông), dạy họ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc (có thể cả Kinh Dịch nữa), để họ thành những người tài, đức thay giai cấp quý tộc mà giúp vua chúa. Một số môn sinh của ông đã giúp các vua và đại phu đương thời, thành những kẻ sĩ có danh vọng.
Sau ông, môn đệ của ông gần thì như Tăng Tử, xa thì như Mạnh Tử (học trò của cháu nội ông, Tử Tư), Tuân Tử và nhiều nhà khác như Mặc Tử, Trang Tử... noi gương ông mở trường dạy học, đào tạo được giai cấp kẻ sĩ; giai cấp này càng ngày càng đông, uy tín càng tăn, chiếm được những địa vị cao trong chính quyền, qua đời Hán thì gần như thay thế hẳn giai cấp quý tộc ở triều đình, trong dân gian.
Vậy chế độ huyết thống sớm chuyển qua quý tộc trí thức hai ngàn năm trước phương Tây, khiến người phương Tây rất ngạc nhiên và rất phục, khen văn minh Trung Hoa là vô cùng độc sáng. Người có công đầu là Khổng Tử; ông thật xứng được mang danh hiệu vạn thế sư biểu.
E. Xã hội
Nông dân
Đất nào cũng của nhà vua. Nhà vua chia đều cho nông dân theo phép tỉnh điền. Chế độ đó có từ đời Thương, nhà Chu không thay đổi, chỉ tăng thêm diện tích cấp cho dân thôi.
Phép đó như sau: người ta rạch ranh giới thành từng khu vuông vức 900 mẫu (đời Thương là 700 mẫu); mỗi mẫu có sách bảo tương đương 600 mét vuông, có sách cho là 1200 mét vuông. Mỗi khu chia làm chín phần bằng nhau, mỗi phần 100 mẫu. Tám phần chung quanh chia cho 8 nông dân từ 20 tuổi đến 60 tuổi để cày cấy và nuôi vợ con. Khi con trai được 20 tuổi thì được cấp cho một phần khác. Phần ở giữa để lại một ít làm chỗ ở cho 8 gia đình, còn lại bao nhiêu 8 gia đình cày cấy chung nộp lúa cho nhà vua. Hình miếng đất khi chia như vậy giống chữ tỉnh nên gọi là phép tỉnh điền. Theo một số học giả Trung Hoa gần đây thì phép đó là chế độ cộng sản nguyên thủy còn sót lại của Trung Hoa.
Dân phải lo cày cấy phần công điền ở giữa rồi mới cày cấy phần tư điền của mình. Như vậy số lúa nộp cho nhà vua cũng vào khoảng một phần mười số thu hoạch của mỗi gia đình.
Không được phép trồng cây lớn trong ruộng, sợ mất đất trồng lúa, nhưng được phép trồng dâu, rau, cây ăn quả chung quanh nhà. Cũng không được phép trông độc một giống lúa, sợ giống đó mất mùa thì sẽ đói. Dân Trung Hoa suốt mấy ngàn năm, thời nào cũng lo đói. Mỗi gia đình phải nuôi năm con gà mái và hai con lợn nái.
Nhưng còn những khu đất, vì lẽ này lẽ khác, nhà vua không chia cho dân, chẳng hạn rừng, đất lầy chỉ trồng được sậy, cỏ lác, đay. Những đất đó dân được tự ý khai thác nhưng phải đóng thuế cho vua. Họ đốt rừng, làm rẫy như đồng bào Thượng của ta, sau 4-5 năm đất cằn cỗi, họ đi kiếm đất khác. Đời sống nông dân rất vất vả. Trong Kinh Thi có nhiều bài dân phàn nàn phải săn chồn, mèo rừng, lợn rừng, hoặc hái lá dâu, dệt vải cho quý tộc. Mùa đông thì họ phải ra thị trấn làm mọi công việc lặt vặt cho giới đó mà thời xưa gọi là quân tử.
Dù sao chế độ đó cũng có lợi cho dân là được một đời sống đảm bảo. Khi tới 60 tuổi, không làm việc được nữa thì trả lại đất cho vua, chúa; và được nhà nước nuôi nấng. Những con côi, kẻ tàn tật cũng được trợ cấp? Nếu được vậy thì họ sướng hơn bọn nông nô (serf) của châu Âu thời Trung Cổ.
Đầu đời Chu nông cụ chưa tiến bộ, phần nhiều bằng đá mài, vì đồng hiếm, rất đắt, cho nên sự khai hoang cũng tiến chậm.
Đất ruộng là công điền, của triều đình và quý tộc (quý tộc được vua phong cho một khu lớn, nhỏ tuỳ chức tước); triều đinh và quý tộc chia đều cho dân làm, đủ cung cấp cho bề trên và dư sống, nên nhà Chu không cần dùng nô lệ như Roma thời cổ. (Lối sản xuất đó không giống lối sản xuất thời cổ ở phương Tây, Marx gọi là lối sản xuất của châu Á). Khi thắng một dân tộc nào, nhà Chu cũng bắt lính và một số dân của địch mang về, bắt làm nô lệ, nhưng không dùng vào việc sản xuất mà chia cho các quý tộc dùng làm nô tỳ. Bọn này tuy có thể bị chủ bán hay cho người khác được, nhưng thường được đối đãi một cách nhân đạo, tình cảnh không bi đát như nô lệ phương Tây.
Vả lại tiểu công nghệ chỉ mới hơi phát đạt, và có tính cách gia đình, cha truyền con nối, do đó có tục lệ lấy tên nghề làm tên họ (như trên tôi đã nói), mà nô lệ cũng không cần thiết trong công nghiệp.
Sự trao đổi sản vật giữa các nước dần dần thịnh lên, tạo nên một giới thương nhân có địa vị khá. Người ta dùng những miếng đồng, khúc lụa, những mảnh vàng, những viên ngọc làm tiền tệ để trao đổi hàng hóa[8]. Về sau người ta đúc tiền bằng đồng.
Đồng, sắt, vàng bạc thời đó gọi chung là kim (金). Vàng bạc gọi là quý kim, sắt, thiếc gọi là ác kim. Vậy đọc sách Trung Hoa thời cổ, nếu gặp chữ thiên kim (chẳng hạn tặng ai thiên kim, vật đáng giá thiên kim...) thì không nhất thiết là một ngàn lượng hay một cân vàng đâu, có thể chỉ là một ngàn đồng tiền bằng đồng, và thường thường thiên kim chỉ có ý nghĩa là quý giá thôi.
Giới quý tộc cai trị dân, bảo vệ nước... thời đó gọi chung là quân tử (con của vua, cũng như thiên tử là con của trời), bắt dân cung cấp đủ thứ; họ có trường học cho con cháu, có những tục lệ riêng và rất ham săn bắn như quý tộc phương Tây. Chỉ họ mới thường có thịt để ăn, còn dân thì ăn rau, cá. Người ta gọi họ là "bọn ăn thịt" (thực nhục giả). Điểm đó cũng giống phương Tây nữa.
Cưới hỏi
Ruộng thường cách xa làng xóm. Cuối thu đầu đông công việc đồng áng đã xong, nông dân trở về làng ở, làm các viêc thủ công. Mùa xuân họ lại trở ra ruộng, sống chung trong nhiều trại ruộng. Khi thiên tử làm lễ tế giao rồi thì mùa làm ruộng bắt đầu; và lúc đó cũng là mùa hội hè của nông dân.
Một viên quan gọi là môi sĩ (hay môi sư: mei che) hoặc cao môi tuyên bố rằng trai gái được phép tự do hội họp với nhau. Thanh nam thiếu nữ từ 15 tuổi trở lên họp với nhau thành từng nhóm hay từng cặp, ra những chỗ ngoài đồng mà tục lệ đã định trước, để cùng nhau ca hát, tỏ tình, giao hợp ở giữa trời[9]. Cả mùa xuân và mùa hè, họ được tự do ái ân như vậy, qua thu đông thì bị cấm. Tới mùa thu nếu thiếu nữ có mang thì cặp trai gái làm lễ cưới nhau (có thể mời môi sĩ làm chủ lễ), và cô dâu về nhà chồng. Có chồng rồi thì mùa xuân họ không ra đồng hát nữa.
Nếu mùa thu, thiếu nữ không có mang, thì mùa xuân sau họ lại đi hát với chàng trai cũ hay một chàng trai nào khác, tuỳ ý. Nam được phép "chơi xuân" theo cách đó tới 30 tuổi, nữ tới 20 tuổi. Và hễ thành gia thất rồi thì thôi, họ không đi hát nữa.
Trong Kinh Thi, phần Quốc phong (gồm ca dao trong dân gian của các nước) có một số bài chép về tục đó, chẳng hạn bài Đông môn chỉ văn (cao dao của nước Trần) mà tôi trích dưới đây bốn câu do Tạ Quang Phát dịch (Thi kinh tập truyện - Sài Gòn 1969):
...Chọn tìm buổi sáng tốt lành,
Phương nam đồng phẳng để dành hội nhau.
Gai thời chẳng kéo dệt đâu,
Họp cùng múa hát ở ngoài chợ thôi...
hoặc bài Trăn Dữ Vị (ca dao của nước Trịnh), tôi trích và dịch nghĩa như sau:
...Phía bên kia sông Vị,
Có một chỗ rộng rãi thích thú.
Trai gái tới đó,
Cùng nhau nô đùa,
Tặng nhau hoa thược dược.[10]
Tục đó rất giống tục Thái trắng và Thái đen ở Bắc Việt gần đây[11], chỉ khác là người Thái thì sang hay hèn đều tới mùa xuân là ra đồng giao duyên với nhau, còn ở Trung Hoa thời xưa chỉ là hạng thường nhân, nông dân mới lựa bạn trăm năm theo cách đó[12]. Giới quý tộc nghiêm khắc hơn: từ 10 tuổi, con trai con gái dù là anh em ruột thịt, cũng phải sống cách biệt; khi cưới hỏi, phải nhờ ông mai hay bà mai làm trung gian. Riêng bọn vua chúa có tục này cũng lạ: một công chúa nước này được một ông vua hay một hoàng tử nước khác cưới, thì khi về nhà chồng dắt theo một em gái và dăm ba thị nữ để hầu hạ mình và cả chồng mình ở nước người nữa. Vậy là em gái và thị nữ có thể thành cung phi của chồng.
Chôn cất
Người ta khai quật được một số mộ các vua chúa đời Thương thấy ông vua nào chết cũng có nhiều người bị chôn sống theo. Nhà Chu bỏ tục đó và cả tục giết người để tế thần nữa. Những người bị chôn sống theo vua được thay bằng những tượng gỗ, đá, đồng.. Rồi những đời sau lại thay bằng những bộ đồ vàng mã. Tục này truyền qua nước ta, ngày nay vẫn chưa bỏ được. Sự mê tín sống dai thật!
Đọc Kinh Lễ chúng ta thất sự chôn cất đời Chu theo những nghi thức rất phiền phức, và nhiều khi rất xa xỉ, nhất là trong giới quý tộc. Phải dùng một lớp quan (tài) ở trong, một lớp quách ở ngoài, tốt xấu, dày mỏng tuỳ cấp bậc. Người ta bỏ nhiều châu báu vào trong quan tài, đồ đạc thường dùng của người chết được chở ra mộ để bày hoặc đốt, thành thử một đám tang có vẻ như một đám rước, dài cả cây số.
Đầu đời Chiến Quốc, Mặc tử chỉ trích mạnh thói đó.
3.Thời Đông Chu
A. Nguyên nhân suy vi
Dưới chế độ quân chủ thế tập (cha truyền con nối) mà không lập hiến thì triều đại nào cũng chỉ được vài ba ông vua giỏi, còn thì toàn là hạng tầm thường hoặc u mê, dâm loạn, tàn bạo. Triều đại nào may lắm thì khi sắp bị diệt, được một người trong hoàng tộc có tài năng cứu vãn mà phục hưng được trong một thời gian như nhà Hán ở Trung Hoa.
Trong lịch sử nhân loại chỉ người Roma được hưởng một cảnh thịnh trị dài từ năm 30 TrCN đến năm 180 sau CN, nhờ một loạt minh quân tài giỏi nối tiếp nhau nắm quyền: Nerva, Trajan, Hadrian, Antonius và Marcus Aurelius. Được vậy là nhờ Trajan, Hadrian đều không có con, còn các con trai của Antonius thì chết sớm; và các ông vua đó lựa một người có tài năng, nhận làm con nuôi, chỉ bảo cho việc trị nước, rồi dần dần giao phó quyền hành cho. Tới đời cuối cùng, Marcus Aurelius (một hiền triết nổi tiếng) có một người con trai là Commodus, nối ngôi ông vì ông quên không chỉ định người kế vị, tức thì cảnh hỗn loạn bùng phát lập tức, mà nền hoà bình Roma (Pax Romana) cũng chấm dứt. Vậy thời rực rỡ của Roma là nhờ chế độ quân chủ không có tính cách thế tập mà có tính cách truyền hiền.
Theo truyền thuyết thì dân tộc Trung Hoa cũng được một thời thịnh trị như vậy trong ba đời vua: Nghiêu, Thuấn, Vũ. Nghiêu không truyền ngôi cho con mà truyền ngôi cho một hiền thần là Thuấn. Thuấn cũng truyền ngôi cho một hiền thần là Vũ, rồi từ Vũ trở đi, không truyền hiền nữa mà truyền tử. Khổng Tử cho thời Nghiêu, Thuấn là thời đại hoàng kim của Trung Hoa, coi hai ống đó là thánh, mẫu mực cho các đời vua sau; như vậy là ông cho rằng chế độ truyền hiền tốt nhất, chế độ truyền tử của Hạ, Thương, Chu đều không bằng, ông tạm phải theo vậy thôi.
Nhà Chu chỉ thịnh được trong khoảng trăm năm đầu, rồi từ đời Mục vương thế kỷ X trước tây lịch, các vua đều tầm thường, tới đời vua thứ 12, U vương (thế kỷ VIII TrCN) thì vào hạng Kiệt, Trụ, vì mê nàng Bao Tự, bị rợ Khuyển Nhung ở phía tây vào chiếm kinh đô rồi giết[13], chư hầu lập con là Bình vương lên thay.
Bình vương sợ bị rợ phía tây tấn công nữa, năm 770 TrCN dời đô sang phía đông, tới Lạc Ấp, nơi Vũ vương đã cho lập một thị trấn để dời một số dân nhà Thương lại đó vì ngại họ nổi loạn.
Từ đây bắt đầu thời Đông Chu, và cũng bắt đầu thời suy vi của chế độ phong kiến.
Chế độ này tuy có ưu điểm như tôi đã kể nhưng cũng có nhược điểm.
- Nó không thể vững lâu được vì phải dựa vào quyền của thiên tử nhà Chu. Mà nhà Chu thì phải cắt dần đất đai phong cho các vương hầu công khanh nên mỗi ngày một hẹp lại, trông vào sự cống hiến của chư hầu thì không được bao nhiêu, vì danh nghĩa còn phải giúp lương thực cho chư hầu những năm họ mất mùa hoặc có chiến tranh, do đó càng ngày càng nghèo đi.
Chư hầu trái lại, ở xa kinh đô nhà Chu, tự ý mở mang đất đai, thôn tính kẻ yếu ở chung quanh, hùng cứ một phương. Vì vậy số bộ lạc cứ giảm dần từ 1600 xuống 1000, 500... 100, mà các chư hầu hùng cường đất đai mỗi ngày một rộng, gấp năm gấp mười thiên tử. Những chư hầu nhỏ bị chư hầu lớn ức hiếp, cầu cứu với thiên tử, thiên tử không cứu nổi, thế là chế độ chỉ còn có cái danh mà không có cái thực.
- Một lẽ nữa là đế quốc rộng quá, sự cai trị khó quá. Các chư hầu lo giải quyết những khó khăn của chính họ, khuếch trương thế lực của họ, không quan tâm tới chính quyền trung ương nữa, không biết tới thiên tử nữa.
Do những lẽ kể trên mà nhà Chu ở Lạc Dương mỗi ngày một thu nhỏ lại, nhà vua chỉ còn cái danh là thiên tử, mất hết quyền hành, không có quân đội, tuy khỏi lo bị các rợ xâm chiếm vì có các chư hầu ở Bắc và Tây che chở, nhưng lại phải tuỳ thuộc bọn chư hầu hùng cường đó, có khi chính họ đặt mình lên ngôi thiên tử nữa để thi hành mỗi một chức vụ là tế Trời, Đất mỗi năm và lâu lâu đóng một vai trò trọng tài bất lực và bất đắc dĩ trong những vụ xung đột nhỏ giữa các chư hầu. Triều đình nhà Chu chỉ có một số quan ít ỏi và vô tài, chẳng có việc gì để làm và quyền hành không lan ra khỏi miền lân cận của kinh đô. Tới thời Chiến Quốc (coi ở sau), Tần có lần đòi chín cái đỉnh của Chu, Triệu lấy tế điền (ruộng mà hoa lợi dùng vào việc tế lễ) của Chu; và khi các chư hầu đều tự xưng vương cả - tức tự coi mình ngang hàng với vua Chu - thì vua Chu cũng phải khép nép tâng họ lên là vương mà tự xưng là tiểu quốc.
B. Thất Bá
Nhà Chu suy thì chư hầu nào mạnh nhất sẽ đứng ra thay quyền thiên tử, làm bá chủ các chư hầu, liên kết họ để bảo vệ Chu, chống ngoại xâm, và cũng để giải quyết những xích mích giữa họ với nhau.
Thế kỷ VII và VII TrCN là thời đại của các bá chủ đó. Sử gia thời xưa chỉ nói tới ngũ bá, tức:
- Hoàn công nước Tề.
- Văn công nước Tấn.
- Mục công nước Tần.
- Tương công nước Tống.
- Trang vương nước Sở.
mà không kể tới hai vị bá ở cuối đời Xuân Thu:
- Hạp Lư nước Ngô.
- Câu Tiễn nước Việt.
Có lẽ vì hai nước Ngô Việt ở phía đông nam, dưới sông Dương Tử, tuy hùng cường một thời nhưng không văn minh như các nước ở lưu vực sông Hoàng Hà.
Tề Hoàn công
Nước Tề ở miền Sơn Đông ngày nay, thời đó đã chiếm được hết bán đảo Sơn Đông, nên đất đai rất rộng, có núi, có biển, có nhiều tài nguyên (quan trọng nhất là muối), kinh tế và thương mại thịnh nhất: chở đồng, sau này thêm sắt nữa, từ phương nam lên bằng thuyền theo các con sông, để bán cho cả miền bắc Trung Hoa; muối thì bán cho cả miền Đông Trung Hoa. Tề lại đúc những đồng tiền đầu tiên. Nhờ vậy mà Tề giàu nhất, và hễ giàu thì văn hoá cũng cao, vượt hẳn nhà Chu.
Những tiến bộ đó phần lớn là công lao của Quản Trọng, nhà chính trị có tài nhất thời Xuân Thu, được vua Tề rất tin và trọng. Tuy Quản Trọng xuất thân trong giới bình dân mà Hoàn công dùng làm tướng quốc, quyền hơn cả các "cha anh" của nhà vua.
Quản Trọng biết trọng lễ nghĩa liêm sỉ, lại có sáng kiến hiệu triệu các chư hầu trước sau chín lần (hay mười một lần) thề với nhau (minh thệ) cùng "tôn vương" (tức tôn vua Chu) và "nhương di" chống sự xâm lăng của các "ngoại tộc" (các dân tộc ở ngoài).
Ông đem quân đuổi rợ Địch, giúp Vệ lập lại được nước, nên được chư hầu tin. Nước Sở vì bội lỗi thề, ông họp chư hầy đem quân phạt Sở. Như vậy, bất chấp thiên tử mà ra lệnh cho chư hầu, nhưng ông có công với Trung Hoa, cho nên đời sau, Khổng Tửcũng phải khen ông trong Luận ngữ: "Quản Trọng giúp Hoàn công, khiến Hoàn công làm bá các chư hầu, thiên hạ quy về một mối, nhân dân đến ngày nay còn mang ơn ông. Nếu không có ông thì ngày nay chúng ta phải gióc tóc, mặc áo có vạt bên trái (như người Di Địch) rồi."
Tài chính trị của ông ở điểm ông đã lập ra lệ "minh thệ" (ăn thề) và giữ nó được suốt đời. Không ai sợ thiên tử nữa thì ông lợi dụng lòng sợ quỷ thần của mọi người. Các vua chư hầu hoặc các đại diện của họ tới dự "minh thệ" khì không ai được xâm phạm, vì được quỷ thần che chở rồi; và các chư hầu phải trừng trị kẻ phản ước.
Giữa các chư hầu liên minh, có tình anh em với nhau, giúp đỡ nhau, chết thì phải phúng điếu.
Lễ nghi rất tôn nghiêm. Các chư hầu họp nhau trên một cái "đàn", người ta lớn tiếng khấn quỷ thần, đọc bản văn lời thề, giết một con trâu rồi chôn bản văn đó với xác con trâu hay máu của nó. Mỗi người quệt vào môi một ít máu trâu rồi lớn tiếng thề.
Cần nhất là phải giữ chữ tín, thì các chư hầu mới đoàn kết và xã hội mới khỏi loạn. Có thể vì vậy mà sau này Khổng Tử đề cao đức tín, đặt nó gần ngang hàng với nhân, lễ, nghĩa, coi nó là đức cần thiết của người quân tử (người trị dân). Đó là một nét đặc biệt của đạo Khổng, và một số học giả phương Tây ngày nay cũng nhận rằng không dân tộc nào trọng đức tín bằng dân tộc Trung Hoa.
Quản Trọng đủ tư cách, tài năng để bắt các chư hầu giữ chữ tín (ông họp chư hầu để phạt Sở, nước bội tín), nhưng đời sau (thế kỷ VI TrCN), có nhiều chư hầu, nhất là Sở, lợi dụng lệ "minh thệ" để chinh phục một nước nhỏ hơn, sau cùng "minh thệ" mất hết ý nghĩa và bị bỏ luôn.
- Sau Tề Hoàn công, Tấn Văn công lên thay làm bá, Chu lại bị rợ Xích Địch quấy nhiễu, hội chư hầu đánh dẹp rồi rước thiên tử về ngôi; Sở lúc đó bị coi gần như Di Địch vì chưa văn minh, tranh dành với Tấn, ông thắng họ rồi hội chư hầu mà thề "tôn nhà vua, không được hại lẫn nhau".
Qua đời sau, Tấn và Tần tranh nhau địa vị bá. Tần Mục công được Bách Lý Hề làm tướng, đuổi được rợ Tây Nhung, mở rộng thêm đất; xưng bá, nhưng chưa đủ sức tranh ngôi minh chủ của Tấn.
Tống Tương công, sau khi Hoàn công chết, định thay làm minh chủ, hội chư hầu mà việc không thành, sau lại hội một lần nữa, bị Sở bắt, cuối cùng đem quân đánh Sở, thua, chết. Có sử gia loại ông ra khỏi hàng ngũ bá.
Sở Trang vương ở phương Nam mạnh nhất, đất rất rộng, diệt được vài rợ, khai thác thêm đất đai, đánh Tống, phá Tấn, làm bá chủ chư hầu, tự xưng vương, có ý nhòm ngó chín cái đỉnh của nhà Chu.
Cuối thời Xuân Thu, vua nước Ngô là Hạp Lư dùng một vong thần của Sở là Ngũ Tử Tư, đánh nước Sở, đại thắng, oai danh lừng lẫy, sau đánh với Câu Tiễn bị thương rồi chết.
Câu Tiễn, vua nước Việt, bị cháu Hạp Lư là Phù Sai đánh thua, phải xin hoà, sau tủi nhục sống mười năm mưu tính chuyện báo thù, được Phạm Lãi giúp, bày mưu dâng nàng Tây Thi cho Phù Sai để Phù Sai mê sắc mà bỏ bê việc nước; rốt cuộc Câu Tiễn diệt được Ngô, thanh thế chấn động khắp nơi (thế kỷ V TrCN), thành bá chủ miền Đông Nam. Phạm Lãi biết trước Câu Tiễn sẽ giết công thần khi kẻ thù đã bị diệt nên bỏ đi ở ẩn. Có thuyết nói ông dắt theo nàng Tây Thi đi chu du Ngũ hồ; có thuyết bảo ông qua xứ Đào (?) đổi tên là Chu công, khai phá đất đai, mục súc, buôn bán mà giàu lớn.
Vậy thời Xuân Thu, các bá hiệu triệu "tôn Chu, nhương Di", mà sự thực chỉ là một cớ để khuếch trương thế lực, thôn tính các nước nhỏ, mở mang đất đai, càng ngày càng gây thêm sự mất quân bình giữa lực lượng các nước lớn, nhỏ. Đầu đời Chu, có 1800 nước (có sách nói 800 nước), tới đầu thời Xuân Thu còn khoảng 150 nước, cuối đời Xuân Thu còn lại khoảng bốn chục nước mà chỉ có bảy nước là mạnh, còn những nước khác như Vệ, Trịnh, Đằng, Cử... đều thành nước phụ dung của bảy nước mạnh cả.
Xuân Thu cũng là thời xung đột, đối lập giữa Nam và Bắc. Bắc gồm những nước cũ trên lưu vực sông Hoàng Hà, văn minh rồi, phải ngăn chặn sự xâm lấn của các nước phương Nam, nhất là của Sở, một dân tộc bán khai, không có lễ nghĩa, hung hăng, hiếu chiến, chỉ muốn bành trướng. Nếu Sở thời đó diệt được các nước phương Bắc thì văn minh Trung Hoa chắc thụt lùi một thời khá lâu.
C. Thời đại đồ sắt
Mỗi phát minh lớn về kỹ thuật đều có ảnh hưởng tới xã hội, làm thay đổi cả nếp songs, nếp suy tư, tâm tính con người, khiến cho nền văn minh qua một khúc quẹo, có vậy thì lịch sử nhân loại mới tiến được. Thời trung cổ, phương Tây phát minh ra súng đại bác mà hậu quả là chiến tranh Thập tự quân[14]. Thế kỷ XVIII sự phát minh ra máy chạy bằng hơi nước, đánh dấu bước đầu của văn minh cơ giới và gây ra các cuộc cách mạng ở châu Âu. Thế kỷ của chúng ta tìm ra được cách lọc dầu mỏ và chế tạo được phi cơ dùng trong thế chiến thứ nhất; hiện nay là thời đại của năng lượng nguyên tử và điện tử, và qua đầu thế kỷ sau thế giới sẽ có những biến chuyển lớn lao vô cùng không ai tiên đoán được.
Sự biến chuyển nào mới đầu cũng gây cảnh hỗn loạn trong xã hội, người thủ cựu thì chán nản, bi quan,người tin tưởng thì hung hăng tàn nhẫn, nhưng dần dần - thời xưa phải vài ba trăm năm hay hơn, thời nay chỉ khoảng dăm bảy chục năm, một trăm năm - xã hội sẽ ổn định theo một trật tự mới, như vậy là tiến được một bước mới. Một thời gian sau lại có những phát minh quan trọng nữa, xã hội lại thay đổi nữa, có điểm tốt hơn mà có thể có điểm xấu hơn trước. Con đường tiến hoá của nhân loại như vậy. Đời người trung bình chỉ được 60 - 70 năm, có là bao. Đọc lịch sử nhân loại chúng ta mới cảm thông được với cổ nhân và với người thời đại chúng ta nữa.
Ở Trung Hoa sự xuất hiện của đồng đã đánh dấu bước đầu văn minh đời Thương; rồi khoảng 1.200 năm sau, sự xuất hiện của đồ sắt còn quan trọng hơn nhiều, chỉ trong khoảng 250 năm, làm cho xã hội Trung Hoa xáo trộn về mọi phương diện, nhưng chính nhờ đó mà cảnh hỗn loạn thời Xuân Thu và Chiến Quốc mau chấm dứt được để rồi thống nhất thành một đế quốc rất lớn.
Theo các sử gia thì thư tịch cổ nhất nói về kỹ thuật nấu sắt viết vào năm 513 TrCN, mà theo những cuộc khai quật gần đây thì những đồ bằng gang xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ thứ V TrCN. Vậy có thể nói rằng thời đại đồ sắt của Trung Hoa bắt đầu vào khoảng 500 năm trước Tây lịch, mà kỹ thuật nấu sắt ở Trung Hoa đã có trước phương Tây non 1.600 năm[15] (Gernet, sđd, tr. 79).
Trước đó, Trung Hoa chỉ có đồ bằng gang dễ gãy. Từ khi nước Việt và nước Ngô tìm được phương pháp kết hợp sự nấu sắt và rèn sắt thì sắt ở phương Nam tốt hơn ở phương Bắc nhiều, bén hơn mà không dễ gãy; đến nỗi có truyền thuyết về hai thanh gươm Mạc Da và Can Tương của nước Ngô. Chồng là Can Tương, một thợ luyện kim, nấu mãi, sắt không chảy; vợ là Mạc Da, thấy vậy cắt tóc và móng tay bỏ vào lò (có thuyết bảo là nhảy vào lò), lúc đó sắt mới chảy, và họ luyện được hai cây gươm rất tốt, một cây lấy tên chồng, một cây lấy tên vợ.[16]
Nhờ kỹ thuật đó, người ta mới có được những công cụ rất tốt như cày, bừa, cuốc, đào sâu được, những dao búa để phá rừng, khai hoang, những đồ để đào kênh làm thủy lợi. Diện tích đất canh tác được tăng lên rất nhiều. Muốn mở mang cho mau, người ta bỏ phép tỉnh điền đi, cho dân tự do khai phá thêm, những đất mới, để thu thuế bằng lúa cho được nhiều. Không còn cái cảnh tám gia đình cùng làm chung một khoảnh ruộng công nữa. Theo Maspéro (La Chine antique) thì Tấn là nước đầu tiên bỏ tỉnh điền từ đời Xuân Thu, nhưng theo Từ Hải thì Tần mới bắt đầu bỏ phép đó từ năm 350 TrCN. Mạnh Tử đi chu du các nước khuyên các vua chư hầu dùng trở lại phép tỉnh điền, nhưng không ai theo: lỗi thời rồi. Thấy phương tiện làm giàu được thì ai mà chẳng muốn làm giàu. Nhà cầm quyền cũng muốn cho dân giàu, dân có giàu thì mới thu thuế được nhiều mà nước mới mạnh.
Công việc thủy lợi: đào kênh dẫn nước và tháo nước nhiều vô kể. Nước Ngô là nước đầu tiên đào những con kênh lớn nối sông Dương Tử với sông Hoài (486 TrCN), rồi bốn năm sau lại đào nối nó lên tới con sông ở phía nam Sơn Đông; nước Ngụy noi gương, cũng đào nhiều kênh ở ranh giới Hà Nam và Hà Bắc, một con kênh nối một hồ lớn với sông Hoàng Hà, một kênh khác ở miền Khai Phong ngày nay (339 TrCN). Cuối thế kỷ III TrCN, Tần đào một con kênh lớn ở phía Bắc sông Vị, song song với nó, làm cho đất canh tác tăng lên rất nhiều, mà Tần trở nên rất giàu.
Những nơi trũng, thấp thì đào sâu thêm, vét, để làm hồ chứa nước. Người ta đắp đê để chống lụt, xây đập, để đổi hướng của dòng nước, xây cửa cống để điều chỉnh lưu lượng của một con sông. Công trình thủy lợi lớn nhất thời đó được làm vào khoảng 300 TrCN ở thượng lưu sông Minkiang (Mân giang?), một nhánh lớn của sông Dương Tử. Sau khi Tần chiếm được cánh đồng Thành Đô (Tứ Xuyên); một cái đập lớn ngăn dòng Minkiang bắt nó chảy vào một hẻm núi đào xuyên qua một ngọn núi. Từ đó Thành Đô thịnh vượng lên, cày cấy được mà không sợ ngập lụt nữa.
Tới thế kỷ IV và III TrCN, tất cả các nước đều đua nhau phát triển thủy lợi. Nhờ vậy dân số Trung Hoa tăng lên. Có sách nói rằng dân số thời Xuân Thu là 20 triệu, khi nhà Tần thống nhất Trung Hoa rồi, được 40 triệu, đời Hán, đầu kỷ nguyên Tây lịch, 60 triệu, đông nhất là miền Tứ Xuyên, Thiểm Tây. Tứ Xuyên nhờ công việc thủy lợi thành một miền giàu có, lớn bằng cả nước Pháp, khí hậu tốt, có đủ các nguồn lợi thiên nhiên, đời sau sinh được nhiều nhân tài.
Công nghiệp, nhờ có sắt mà phát triển mạnh, nhà nào cũng muốn có cày, dao, búa bằng sắt, chính quyền thì muốn có khí giới bằng sắt.
Thương mại rất thịnh. Hàm Dương ở Tần, Lâm Tri ở Tề, Hàm Đan ở Triệu, Đại Lương ở Ngụy đều là những thị trấn phát đạt về thương mại, dân chúng các nơi di cư lại thành một hạng thị dân rất đông. Lâm Tri có tới 300.000 dân. Bọn phú thương có tên tuổi ghi trong sử như Phạm Lãi, Đoan Mộc Tứ. Họ chẳng những muốn buôn hàng hoá mà còn muốn buôn cả vua nữa như Lã Bất Vi. Chính bọn đó rất mong muốn thống nhất Trung Quốc để hàng hoá dễ lưu thông từ miền này qua miền khác, khỏi phải trả thuế khi phải qua nhiều cửa ải vào một nước khác.
Nông vẫn còn là "bản" (gốc), nhưng công thương không còn là "mạt " (ngọn) nữa, không còn chủ trương "ức thương" được nữa, vì có nhiều ông vua thiếu tiền phải vay của họ, nhiều công tử (con vua) khi còn nghèo, làm con tin phải nhờ họ giúp tiền, giúp sức rồi mới về được nước mà lên ngôi.
Ngoài các thứ tiền đồng mà mỗi miền dùng một kiểu (miền Hà Bắc dùng một kiểu giống lưỡi, miền Sơn Đông dùng đao tiền - như lưỡi dao - miền Thiểm Tây dùng đồng tiền tròn có lỗ cũng tròn), người ta còn dùng một thứ tiền vàng ở nước Sở.
Người ta lập với nhau những giao kèo bằng gỗ hay tre, ghi những lời giao hẹn của hai bên, rồi chẻ đôi, mỗi bên giữ một nửa, khi ghép lại với nhau vừa khít thì là đáng tin. Cách đó chính là cách triều đinh dùng phù tiết để ban lệnh quan trọng cho các tướng ở ngoài mặt trận.
Thương nhân có nhiều tiền thì mua đất của những quý tộc sa sút, và sống như các quý tộc.
Triều đình nhiều khi phải nhờ họ đi thu thuế ruộng. Họ giàu, dư tiền, thường mua lúa để trữ, có thể ứng trước một số lúa cho triều đình rồi trừ vào số lúa họ sẽ thu được. Cách đó lợi cho cả hai bên, nhưng dân góp lúa cho họ rồi, dần dần phụ thuộc vào họ, và chẳng bao lâu họ có quyền ngang với những quan lớn nhất của tỉnh, như bọn fermiers généraux (quan trưng thuế) của Pháp thời trung cổ.
Các thị trấn mỗi ngày một đông, mở rộng ra: Lâm Tri, kinh đô của Tề gồm 7 vạn gia đình, trên 30 vạn dân. Mỗi nghề có một khu riêng: khu đồ gốm, khu đồ đồng, khu thương mại...; có cả một khu cho bọn mãi dâm nữa, tương truyền do Quản Trọng lập ra để phục vụ sứ đoàn các nước.
Vòng thành các đồn thời Xuân Thu chỉ dài từ 400 đến 600 mét. Thế kỷ IV và III TrCN đã có những vòng thành dài ba cây số, như vậy dân trong thành có tới mấy vạn người. Có khi thêm một vòng thành nữa gọi là quách.
Chế độ cai trị thay đổi
Thời Xuân Thu, vua các nước chư hầu theo chế độ phong kiến của nhà Chu, dùng bọn cha anh để đảm nhiệm triều chính, phong cho họ những chức tước như tướng quốc, khanh, đại phu... rất ít khi dùng người ngoài công tộc. Một số cha nha được chia cho một khu trong nước để cai trị, họ như một ông vua nhỏ.
Tôi lấy ví dụ nước Lỗ thời Khổng Tử. Khi Khổng Tử làm Á tướng( trường hợp đó hơi đặc biệt vì ông không phải là người trong công tộc, chỉ nhờ có tài, đức mà được cất nhắc như vậy), Lỗ có ba "nhà" gọi là tam Hoàn: Quý Hoàn Tử, Thúc Hoàn Tử và Mạnh Hoàn tử (đều là hậu duệ của Lỗ Hoàn công). Họ lấn hết quyền của vua Lỗ (Chiêu công). Họ Quý mạnh nhất, chiếm tới nửa nước, có thành phố ở phía đông; họ Thúc chiếm phía Tây, họ Mạnh chiếm phía bắc, miền biên giới Tề-Lỗ. Họ thu thuế, nắm binh quyền, có gia thần (bề tôi riêng), triều đình riêng, thành trì, quân đội riêng; ngênh ngang, hống hách, sống xa xỉ hơn vua Lỗ. Nhất là họ Quý muốn tiếm lễ thiên tử, tước chỉ là đại phu của một chư hầu mà dùng vĩ (điệu múa) Bát Dật của thiên tử (Luận ngữ, III- 1); cả ba nhà đều cho hát thơ Ung khi dẹp đồ tế lễ trong nhà họ, mà theo lễ chỉ thiên tử khi tế ở tôn miếu mới cho hát thơ đó.
Khổng tử bất bình, muốn dẹp thành trì, triều đình của họ mà không được. Một phần vì vậy mà ông không giúp Lỗ nữa, đi tìm một ông vua khác.
Như vậy là quyền của nhà vua bị phân tán, nếu vua nhu nhược, bất tài thì chỉ còn hư vị, nước sẽ yếu.
Tới thời Chiến Quốc, thế kỷ V, IV TrCN, nhiều nước muốn mạnh lên, thay đổi chính sách, dẹp các nhà có quyền hành lớn, đặt ra các quận, huyện , dùng những quan lại trực thuộc triều đình để cai trị mỗi quận huyện. Bọn quan lại đó được trả lương bằng lúa, cuối mỗi năm phải báo về triều đình công việc cai trị của mình, họ có thể bị cách chức nếu bất lực hoặc tham nhũng.
Ngụy ở cuối thế kỷ V TrCN cải cách hành chính mạnh hơn cả, các nước khác bắt chước. Đó là bước đầu tiến tới sự trung ương tập quyền, để thống nhất quốc gia, một đòn mạnh đánh vào chế độ phong kiến, sau này sẽ đưa tới sự thống nhất Trung Quốc.
Đảo lộn địa vị xã hội
Đời Xuân Thu, vài ba vị bá còn mượn danh thiên tử nhà Chu tập hợp chư hầu để mưu tính cái lợi chung cho chư hầu (như Tề Hoàn công), hoặc lợi riêng cho mình; qua đời Chiến Quốc họ không thèm mượn danh thiên tử nữa, không biết có vua Chu nữa, mà vua Chu cũng chỉ cần họ để yên cho mình giữ chín cái đỉnh (tượng trưng cho cửu châu, toàn thể thiên hạ) được thêm năm nào hay năm ấy. Thậm chí kẻ sĩ danh tiếng như Hàn Phi, các bậc quân tử như Lỗ Trọng Liên cũng không một ai lên tiếng nhắc nhở thiên hạ trọng nhà Chu cả. Ngay đến Mạnh Tử, noi gương Khổng Tử muốn duy trì chế độ phong kiến, mà cũng quên vua Chu đi; ông đi thuyết phục khắp các vua chư hầy, kể cả một nước rất nhỏ như nước Đằng, vậy mà không bao giờ ghé Chu, chỉ muốn tìm một ông vua nhân từ, không ham giết người để thờ.
Số chư hầu đã giảm nhiều. Mỗi khi một nước nhỏ bị thôn tính là một số quý tộc bị mất địa vị, tụt xuống hàng sĩ hay dân thường. Trong xã hội, thêm giai cấp phú nông, phú thương mà quyền hành lấn bọn quý tộc.
Điều đáng kể nhất là sự thăng tiến của kẻ sĩ. Giai cấp sĩ một phần là quý tộc bị mất địa vị, một phần là do Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử gây phong trào giáo dục bình dân, đào tạo nên. Họ mỗi ngày một đông, tới đời Chiến Quốc gồm ba hạng chính:
- Học sĩ như các nhà theo Nho, Mặc, Lão.
- Sách sĩ, cũng gọi là biện sĩ, tức các nhà giỏi biện luận, du thuyết bọn cầm quyền, thường theo phái danh gia, pháp gia (tôi sẽ giới thiệu ở sau) như Tô Tần, Trương Nghi.
- Phương sĩ hoặc thuật sĩ gồm những thiên văn gia, y gia, nông gia (ngày nay ta gọi là kỹ thuật gia) và những nhà chuyện bói toán, nghiên cứu về âm dương, cách luyện đan...
Địa vị của hạng sĩ đó mỗi ngày một tăng. Các vua chư hầu tìm cách thôn tính lẫn nhau, nước nào muốn tồn tại được thì cũng phải dùng quân sư, các nhà ngoại giao, quân sự, kinh tế, bất kỳ trong giai cấp nào, miễn là có tài, và ông vua nào cũng đua nhau chiêu hiền, đãi sĩ.
Ngay thời Mạnh Tử đã vậy rồi. Ông tới nước nào cũng được tiếp đãi cực kỳ trọng hậu. Mỗi khi qua nước nào ông "dắt theo cả mấy chục cỗ xe và mấy trăm người tuỳ tùng, vua nước ấy phải cung cấp lương thực", tới khi ông rời nước nào thì vua còn "dâng ông chút ít" - hàng chục dật vàng (mỗi dật là 20 hay 24 lượng) để thầy trò ông lên đường.
Tề thời đó giàu nhất, văn minh nhất. Kinh đô Tề, Lâm Tri, là nơi tụ họp những danh sĩ bậc nhất Trung Quốc. Vua Tề cho họ ở những ngôi nhà lộng lẫy ở cửa tây kinh đô, tặng họ chức tước, bổng lộc rất hậu, chỉ để thỉnh thoảng hỏi ý họ về việc nước, hoặc mời họ vào triều giảng về đạo lý, viết sách truyền bá đạo của họ.
Kẻ sĩ nào ưu thời mẫn thế cũng muốn tìm một giải pháp để cứu vớt dân, dẹp loạn, lập lại trật tự cho xã hội: phái thì chủ trương nhân trị, tư cách người cầm quyền quan trọng hơn hiến pháp, chế độ,hễ người trên yêu dan, làm gương cho kẻ dưới thì nước sẽ trị; phái thì bảo nếu người nào cũng yêu người khác như người thân của mình thì không còn ai tranh giành với ai nữa mà xã hội sẽ yên; phái lại bảo phải trở lại thời thượng cổ, nhà cầm quyền không can thiệp vào việc của dân, để cho dân sống một đời chất phác, rất ít ham muốn, thì hết sự ham muốn, tranh giành; kẻ lại bảo phải dùng pháp luật cho nghiêm, thưởng phạt công bằng thì nhà cầm quyền chẳng cần tài đức mà nước cũng trị, phái đó là phái dùng pháp trị... Phái nào - trừ pháp gia - cũng có một nhóm người theo, và thầy trò dắt nhau đi chu du khắp các nước tìm một ông vua dùng mình để thực hiện chính sách của mình. Thuyết nào cũng được bọn cầm quyền trọng mặc dầu có thuyết bị chê là vu khoát, không theo được. Cho nên thời Chiến Quốc là thời đại hoàng kim của triết học, ngôn luận được hoàn toàn tự do, tất cả các đời sau, cho tới ngày nay không thời nào bằng, và được gọi là thời "bách gia tranh minh" (trăm nhà đua tiếng). Hậu quả là: 1. Các học thuyết rất phát triển, khoa học kỹ thuật tiến bộ. 2. Một số kẻ sĩ được trọng dụng ở triều đình, giành được địa vị của bọn quý tộc, thành một giai cấp mỗi ngày một thăng tiến trong xã hội, một thứ dung hoà chế độ quý phái do huyết thống và chế độ quý phái do tài đức.
Cuối thời Xuân Thu và đầu thời Chiến Quốc, xã hội chưa loạn lắm, phái nhân trị còn có ảnh hưởng ít nhiều, rồi càng về sau, đạo đức càng suy, người ta ham lợi, trọng sức mạnh thì phái pháp trị càng được nhiều vua theo. Tôi sẽ trở lại điểm này trong một đoạn sau.
Cách mạng về chíên thuật
Sắt đã làm nông, công, thương phát đạt, vua chúa mở mang đất đai, nước giàu, dân đông, thì phải thay thế chế độ hành chính để thống nhất quốc gia, nhất là phải thay chính sách võ bị. Ai cũng thấy chỉ chiến tranh mới giải quyết được mọi mâu thuẫn. Ngay từ thời Mạnh Tử, chiến tranh đã khốc liệt rồi, người ta "đánh nhau để tranh đất, giết người đầy đồng; đánh nhau để tranh thành, giết người đầy thành."
Từ thời các bá đã không còn chiến tranh nô lệ nữa; thời Chiến Quốc tướng không tuyển trong giới quý tộc nữa, mà trong bọn "binh gia": Tôn Vũ, Ngô Khởi, Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Nhạc Nghị, Bạch Khởi.
Khí giới bằng sắt bén hơn, giết được nhiều hơn, mau hơn; sử chép thế kỷ thứ III TrCN, tướng Tần là Bạch Khởi giết (chôn sống?) 40 vạn quân Triệu đã đầu hàng (con số đó chắc quá đáng).
Dân đông rồi, người ta mới bắt lính nhiều được. Nước nào cũng có vài trăm ngàn quân. Tần, thế kỷ thứ IV TrCN, bắt tất cả đàn ông từ 15 hay 20 tuổi tới 60 tuổi phải nhập ngũ, như vậy là chỉ còn đàn bà con nít là khỏi phải ra trận. Chính sách ngụ binh ư nông được phổ biến: người dân nào cũng thời bình thì làm ruộng, tập võ nghệ, thời chiến thì thành lính.
Có khi đàn bà người già cũng không được ở yên, phải đi xây trường thành để ngăn xâm lăng. Sở xây trường thành ở Hà Nam, Tề ở Sơn Đông, các nước khác như Ngụy, Tần cũng bắt chước. Những trường thành đó chỉ bằng đất, có khi chỉ là một con đê được đắp cao hơn, rất ít khi bằng đá, nhưng cũng có những đồn nhỏ do một số lính giữ, thấy địch tới thì đốt khói ban ngày, đốt lửa ban đêm báo cho các đồn khác biết. Triệu xây một trường thành ở phía Bắc, Yên cũng vậy, để chống lại các rợ; các thành đó sau này Tần Thuỷ Hoàng sửa sang lại, nối liền với nhau thành Vạn Lý trường thành (coi bản đồ Trung Hoa vào khoảng 350 TrCN ở sau).
Dĩ nhiên phải đắp đường để vận lương cho lính và để nối các thị trấn với nhau, và phải đào thêm kênh như trên tôi đã nói.
Về khí giới, người ta chế tạo nỏ và nỗ pháo (catapult) để bắn đá (thế kỷ V TrCN). Nỏ mạnh hơn và bắn xa hơn cung, có thể được non một cây số theo sách thời đó chép. Thời Mặc Tử, Công Thâu Ban đã chế tạo được thang mây để đánh thành. Sở dĩ có tên đó vì thang rất cao.
Chiến xa lỗi thời rồi, người ta dùng bộ binh, rồi kỵ binh. Hai nước Ngô, Việt có nhiều hồ, đầm lầy, không dùng chiến xa được, cho nên đã đầu tiên dùng bộ binh. Tấn mới đầu chê chiến tranh dùng bộ binh không có vẻ "quý tộc" nhưng rồi Trịnh theo, và dần dần các nước khác cũng theo. Để điều khiển một đoàn bộ binh thì phải có thứ tự, kỷ luật, mà những quy tắc, chiến thuật mới xuất hiện. Bộ binh lại chia làm nhiều hạng (như binh chủng ngày nay), hạng chuyện dùng cung, hạng chuyên dùng nỏ, dùng giáo.
Về kỵ binh, Trung Hoa bắt chước các rợ phương Bắc và phương Tây. Năm 307 TrCN Triệu là nước đầu tiên dùng kỵ binh, nhờ vậy mà mạnh lên được một thời. Họ phải thay đổi nhung phục cho gọn gàng (bận quẩn, bỏ áo giáp dài đi), và phải tập bắn cung trong khi ngựa phi y như Hung nô.
D. Thất Hùng
Các sử gia cho thời Chiến Quốc bắt đầu từ năm 376 TrCN, năm mà nước Tấn bị ba đại phu chia nhau thành ba nước Ngụy, Triệu, Hàn. Sự thực thì biến cố đó không quan trọng gì mà xã hội Trung Hoa vẫn biến chuyển đều đều từ thời Đông Chu đến đầu đời Tần. Sự phát minh ra thuật nấu sắt vào khoảng 500 TrCN có ý nghĩa hơn nhiều như tôi đã trình bày ở trên.
Kể cả ba nước Ngụy, Triệu, Hàn (sử gọi là Tam Tấn) mới thành lập đó thì đời Chiến Quốc có trên mười chư hầu, nhưng không kể những nước nhỏ như Tống, Lỗ, Trâu, Đằng, Trung Sơn... mà một số thành những nước phụ dung của các nước lớn, thì chỉ còn bảy nước đáng kể, sử gọi là Thất hùng: Yên, Tề, Hàn, Ngụy, Triệu, Sở và Tần.
Trong số bảy nước đó, yếu nhất là Yên, mà mạnh nhất là Tề, Sở, Tần vì đất đại đã rộng mà tài nguyên lại nhiều. Tề văn minh hơn hết, Sở rộng nhất, Tần là nước có tổ chức hơn hết.
Bảy nước đó tổ chức những liên minh để đánh lẫn nhau. Có hai kế hoạch liên minh lớn nhất: kế hoạch "hợp tung" của Tô Tần và kế hoạch "liên hoành" của Trương Nghi. Tung có nghĩa là đường dọc, hoành có nghĩa là đường ngang. Các nước từ bắc tới nam tức từ Yên tới Sở liên hiệp với nhau thành một trục dọc để chống lại Tần nên gọi là hợp tung. Để chống lại thế đó, Trương Nghi thuyết phục một số nước ở phía Đông Tần cắt đất cầu hoà với Tần thành một trục ngang để đánh các nước kia cho nên gọi là liên hoành. Tần mỗi ngày một mạnh lên, rốt cuộc mâu thuẫn tập trung lại thành mâu thuẫn giữa Tần và sáu nước (lục quốc): Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở.
Tần sở dĩ mau mạnh một phần là nhờ địa thế: ở lánh về phía Tây, ít bị các nước láng giềng ở phía đông dòm ngó, được tự do phát triển, lại có cửa Hàm Cốc rất hiểm trở, "một người giữ cửa đó thì cự được vạn người", nên Tần có thể qua cửa đó để tấn công các nước phía đông, chứ các nước này không dám mạo hiểm qua cửa đó để tấn công Tần.
Nhưng lý do quan trọng nhất là Tần, một nước mới, dám làm những cải cách quan trọng, triệt để, một cách đều đều, liên tục, có phương pháp ở giữa thế kỷ IV TrCN. Giới quý tộc của Tần yếu, nghèo, không chống nổi, cản trở nổi vua Tần. Từ 356 đến 348 TrCN, Tần lập 41 huyện trên khắp cõi. Thương Ưởng, cũng gọi là Vệ Ưởng, một pháp gia, làm tướng quốc Tần khuyên vua Tần đánh những đòn rất mạnh vào giai cấp quý tộc, tước dần quyền của họ; tạo ra một giai cấp quý tộc mới gồm những quân nhân có tài; hễ chém được nhiều đầu giặc thì được chức cao. Ông lại lập chính sách khẩn hoang, cho dân chúng làm chủ những đất họ khai phá được, do đó có thêm bọn phú nông xuất hiện, bọn này với bọn phú thương sẽ tranh quyền với bọn quý tộc cũ. Ông còn cả gan bãi bỏ tục quý tộc không bị hình phạt như thứ dân, mọi người đều bình đẳng về pháp luật mà pháp luật được công bố cho toàn dân được biết. Từ thời Xuân Thu đã có vài nước công bố "hình thư", nghĩa là khắc hình luật trên các đỉnh đặt ở triều đình hoặc trên những bảng gỗ treo ở kinh đô, như vậy để bỏ cái lệ hễ bọn quý tộc bị tội thì triều đình xử kín theo lệ riêng của họ với nhau, còn dân chúng bị tội thì bị xử theo hình pháp một cách nghiêm khắc hơn. Hình thư dần dần được các nước khác theo, nhưng luật pháp không nước nào khốc liệt như ở Tần. Dân không được lang thang đi đâu tuỳ ý. Người nào cũng phải có một cái thẻ như thẻ chứng minh nhân dân ngày nay họ gọi là "bằng cứ", muốn vào quán trọ nào phải trình thẻ, chủ quán không dám chứa những người không mang thẻ. Bọn du thủ du thực bị bắt thì làm nô lệ hết. Các thư, kinh bị đốt hết.
Làng xóm tổ chức lại hết. Cứ năm hay mười nhà họp thành một liên gia có bổn phận phải phòng kẻ gian, tố cáo kẻ có tội,nếu không thì chịu trách nhiệm chung. Mặc Tử một thế kỷ trước đó cũng đã có ý đó (coi đoạn sau) nhưng chính sách của Thương Ưởng triệt để hơn: làm thay đổi cả tổ chức hương thôn, chia lại đất đai canh tác, phá bỏ hàng rào cũ, do đó mà thay đổi hẳn lối sống, phong tục, có thể gọi là một cuộc cách mạng, ngày nay nhiều nước cộng sản, độc tài bắt chước.
Các luật thưởng phạt quân nhân rất nghiêm, thứ dân có chiến công thì được chức tước, quý tộc mà không có chiến công thì bị giáng xuống thành thứ dân. Tất cả cải cách đều nhằm mục đích duy nhất là sản xuất lúa cho nhiều để nuôi binh, là luyện binh cho mạnh để xâm chiếm nước khác. Khi Tần Hiếu công chết (338 TrCN), bọn quý tộc oán Thương Ưởng và Thương Ưởng bị phanh thây. Nhưng non một thế kỷ sau, vua Tần tên là Chính (tức Tần Thủy Hoàng) áp dụng lại chính sách độc tài đó mà làm cho Tần mạnh nhất trong số thất hùng.
Tần đầu thế kỷ IV TrCN còn yếu mà năm 299 TrCN thắng được Sở, giam cầm Hoài vương: Khuất Nguyên, một đại phu Sở, buồn rầu vì Hoài vương không nghe lời mình, uất hận vì tổ quốc suy nhược, viết thiên Li Tao rồi đâm đầu xuống sông Mịch La. Năm 278 TrCN, tướng Tần là Bạch Khởi đánh Sở, hạ được đất Dĩnh, Sở phải dời đô; rồi từ đó Tần thắng liên tiếp các nước Triệu, Ngụy (bốn chục vạn quân Ngụy đầu hàng năm 260 TrCN); năm 256 TrCN, Tần tấn công nước Chu, Chu dâng đất cho Tần. Nhà Chu chấm dứt.
Từ đây nước nào cũng thấy nguy cơ sắp bị diệt. Hàn triều phục Tần. Một cuộc hợp tung cuối cùng của năm nước do Tín Lăng Quân nước Ngụy cầm đầu thắng được một trận.
Năm 242 TrCN, Tần Thuỷ Hoàng lên ngôi, dùng Lã Bất Vi làm tướng quốc, sau bãi chức Lã, dùng Lý Tư (một môn sinh của Tuân Tử) và chỉ trong khoảng mười năm diệt Triệu, Ngụy, Sở, Yên. Vua Yên phải nhẫn tâm giết thái tử Đan - vì Đan dùng Kinh Kha mưu sát Tần Thuỷ Hoàng không thành - dâng thủ cấp cho Tần Thuỷ Hoàng, mà Tần Thuỷ Hoàng cũng không tha, san phẳng kinh đô Yên. Chỉ còn mỗi nước Tề, hai năm sau (221 TrCN) cũng bị diệt nốt. Tần thống nhất được Trung Hoa. Lời của Mạnh Tử nói với Lương Tương vương: "Ai không thích giết người thì thống nhất được thiên hạ" đã hoá sai. Nhân trị không công hiệu bằng pháp trị. Tần đã thành công nhờ chính sách độc tài, sự tổ chức chặt chẽ, chiến thuật đại tài, mà cũng nhờ mưu mô xảo quyệt: dùng một bọn do thám cho lẻn vào tất cả các nước, vung tiền ra mua chuộc các đại phu, tướng quân của địch, mua chuộc không được thì ám sát. Những cách đó thành công rồi, Tần mới đưa quân vào. Hàn (230), Triệu (228), Ngụy (225), Sở (223), Tề (221 TrCN) đều vì vậy mà bị diệt.
Sự thành công của Tần là sự thành công của bọn pháp gia, mà người tập đại thành của các pháp gia là Hàn Phi, bạn học của Lý Tư, cả hai đều là môn sinh của Tuân Tử. Có sách chép rằng Tần Thuỷ Hoàng đọc tác phẩm của Hàn Phi, phục lắm, chỉ ước ao được gặp, nhưng khi Hàn Phi tới Tần được ít lâu thì bị Lý Tư gièm pha mà bỏ mạng ở trong ngục.
*
Từ khi Mao Trạch Đông diệt xong Quốc dân đảng, người ta mới thấy ảnh hưởng của Thương Ưởng rất lớn, hơn cả Khổng Tử nữa, hầu hết đường lối và những cải cách lớn lao đều mang dấu vết của Ưởng, đáng lẽ người ta phải đưa ông ta lên hàng vĩ nhân của Trung Hoa mới phải.
Thật lạ lùng, hai chính trị gia đó,chủ trương trái ngược hẳn nhau, mà dân tộc Trung Hoa đều thờ được cả.
---
[1] Khổng Tử trong Luận Ngữ khen Bá Di, Thúc Tề (chương VII, bài 14) là người hiền; và chê nhạc Võ của Vũ Vương là "cực hay nhưng chưa cực tốt lành" như nhạc Thiều của vua Thuấn, vì vua Thuấn được vua Nghiêu nhường ngôi, còn Vũ Vương phải dùng vũ lực để diệt vuaTrụ. Khổng Tử phục Văn Vương hơn Vũ Vương vì lẽ Vũ Vương không chiếm ngôi của Trụ. Tôi ngờ rằng thuyết Trụ tự thiêu, chứ không bị Vũ Vương giết, cũng do các nhà Nho tạo ra để Vũ Vương khỏi mang tội thí quân)
[2] Mỗi chiến xa chở ba người: một người đánh xe ngồi giữa, hai người đứng hai bên, một người cầm cung, một người cầm thương; và phải dùng bốn con ngựa để kéo, vì dây cương cột vào cổ ngựa, chứ chưa biết quàng vào vai ngựa. Như vậy một nước vạn thặng phải có ít nhất bốn vạn con ngựa, ba vạn chiến sĩ. Chiến sĩ đều ở trong giới quý tộc, phải học nghề đánh xe (ngự), bắn tên (xạ); dân thường chỉ theo chiến xa để đốn cây, sửa đường, bắc cầu... và đứng ngoài mà nhìn, hò hét trong khi chủ tướng giao chiến với địch. Nếu thắng thì họ ùa theo xe cướp bóc, bắt tù binh...
[3] Chỉ giới quý tộc mới có tên họ vì tổ tiên thuộc một thị tộc nào đó; thường dân thường không có tên họ, lấy tên nghề làm tên họ, như tổ tiên làm đồ gốm thì lấy họ là Đào, tổ tiên đánh giặc, thì lấy họ là Tư Mã.
[4] Từ nghĩa gốc đó mà về sau phong có nghĩa là phong tước vì khi phong tước cho ai thì vua ban đất và chỉ ranh giới cho họ để họ đắp mô đất.
[5] Tục này khác hẳn nhiều nước phương Tây, nên Trung Hoa cũng như Pháp, không có nữ hoàng (các nữ hoàng Trung Hoa đều là tiếm vị); không có trường hợp một ông vua làm vua hai ba nước, đã thừa kế của cha lại thừa kế của mẹ, của vợ, gay ra nhiều rắc rối, tranh chấp ở châu Âu cho tới đầu thế kỷ XIX
[6] nhưng có sách lại bảo là coi về lễ, giáo, tức như bộ lễ đời sau
[7] Chế độ “hình bất thướng đại phu, lễ bất há thứ nhân” kể ở trên rất bất công, không nờ đến ngày nay còn áp dụng ở Trung Quốc: các đảng viên cũng thành một giai cấp như đại phu đời Chu, hễ phạm tội thì tòa án nhân dân không được bắt giam và xử họ nếu không được đảng cho phép, mà phải để cho đảng xử trước đã; hoặc cảnh cáo, hoặc đổi đi nơi khác, cho hạ tầng công tác...; tội nặng lắm đảng mới đưa ra tòa án xử (cả chục năm mới có một trường hợp như vậy). Đảng viên gần ra bất khả xâm phạm; ngay cả đến bác sĩ cũng không dám mổ mắt một đảng viên quan trọng, nếu không xin phép đảng trước, sợ nếu mổ lỡ mà họ hóa đui thì mang tội nặng.
[8] đời Thương hoặc trước nữa, người ta dùng vỏ sò, chữ Hán là bối (貝), vì vậy mà các chữ nói về việc buôn bán thường có bộ bối
[9] Tục giao hợp ở giữa trời này thời cổ rất phổ biến; có nơi nó gần như một nghi lễ để cầu cho ruộng nương được mùa
[10] Theo chú thích của Chu Hi thì thược dược là một loại cỏ thơm, không phải hoa thược dược của ta ngày nay, có sắc mà không hương.
[11] Tục hát quan họ của ta ở Bắc Ninh có phải là một biến thể, một di tích của tục đó không?
[12] Những điều tôi chép ở trên rút từ cuốn La Chine antique của Henri Maspéro ra, mà Maspéro lại mượn của Marcel Granet trong Fêtes et chansons anciennes de la Chine. Nó giúp chúng ta hiểu Kinh Thi hơn. Trong bộ Sử Lý Tư Mã Thiên viết đại ý rằng ngày xưa Kinh Thi có 3000 thiên (do các viên sử nhà Chu sưu tập được), Khổng Tử san lại, chỉ lựa 305 thiên "hợp với lễ nghĩa" thôi. Đời sau, Khổng Dĩnh Đạt, Chu Hi ... nghi ngờ thuyết đó vì Khổng Tử không bao giờ bảo rằng mình san dịch Kinh Thi, vả lại lựa mà sao bỏ đi tới 9 phần 10, như vậy khác gì phá hoại kho tàng văn học của thời trước; huống hồ đã lựa những thiên "hợp với lễ nghĩa" thì tại sao lại giữ mấy chục thiên mà ai cũng nhận là dâm bôn của nước Bội (Tình nữ), nước Dung (Tang trung, Thuần chi bôn bôn...), nước Trần (Đổng môn chi văn, Trăn dữ vị... đã dẫn ở trên), nhất là của nước Trịnh (Sơn hữu phù tổ, Thác hề, Giáo đồng, Phong, Tử Khâm...). Nay đọc Marcel Granet chúng ta mới biết Khổng Tử có tinh thần khảo cổ của một nhà xã hội học, phong tục học, giữ lại hết những ca dao thời trước, dù nó trái với đạo đức thời ông, giữ lại để cho đời sau biết tâm lý và đời sống người xưa ra sao. Ông biết rằng những thiên Quốc phong đó, môn sinh của ông có thể hiểu nhầm, nên cảnh cáo họ rằng đọc Thi thì phải "tư vô tà", nghĩa là "đừng nghĩ bậy", mà phải nhớ rằng tục thời xưa như vậy đó, nên tìm hiểu chứ không nên hấp tấp chê cổ nhân.
[13] Tương truyền thời đó có lệ hễ thiên tử bị một rợ nào tấn công thì nổi lửa lên, các chư hầu ở gần tức thì đem quân lại cứu. Bao Tự lúc nào cũng ủ rũ, U vương muốn thấy nàng cười, bày ra một kế: khi không nổi lửa lên, quân chư hầu vội vàng tới, biết là bị lừa, xấu hổ và bực mình quay về, Bao Tự thấy nét mặt của họ mà cười lớn, U vương thích lắm. Nhưng khi Khuyển Nhung tấn công thật, ông ta nổi lửa lên thì không chư hầu nào tới cứu nữa.
[14] Chi tiết này cụ NHL hình như nhầm, Thập tự chinh kéo dài từ khoảng 1095 đến 1291(hay 1299), mà lần đầu tiên lịch sử châu Âu ghi nhận việc sử dụng đại bác là của người Anh trong trận Crécy năm 1346 trong chiến tranh một trăm năm, đoạn này viết hơi ngược chăng? (chú thích - Seahawk1)
[15] nói chính xác hơn chắc là kỹ thuật luyện thép mới phải? (chú thích - Seahawk1)
[16] Trên mười thế kỷ sau, sắt Trung Hoa còn nổi tiếng ở Ba Tư, tác giả "Nghìn lẻ một đêm" coi nó là một bảo vật.