Các nhà lãnh đạo cộng sản đầu tiên của Trung hoa bắt chước kiểu mẫu cách mạng của cộng sản Nga sô, lấy công nhân thành thị làm thành phần căn bản. Họ chọn Thượng Hải, một thành phố kỹ nghệ nhiều công nhân nhất của Trung hoa, làm địa điểm đầu tiên thành lập đảng cộng sản. Hoạt động của cộng đảng Trung hoa tuy rất kín đáo, nhưng cũng lọt vào tai mắt của giới anh chị chuyên kiếm sống trên đầu dao mũi súng, bằng cách đòi tiền bảo vệ của giới thương gia giầu có, hoặc bằng cách buôn thuốc phiện lậu độc quyền. Chủ nghĩa cộng sản rất bất lợi cho giới thương gia, và quyền lợi của giới thương gia gắn liền với quyền lợi của các tay anh chị sống ngoài vòng pháp luật. Chính vì thế giới giang hồ chuyên đâm thuê chém mướn tại Thượng Hải rất thù ghét cộng sản, và chính họ đã đánh bại cộng sản ngay tại Thượng Hải, một thành trì của giới thợ thuyền.
Người đứng đầu các tổ chức tội ác tại Thượng Hải là Bố già Hoàng Ứng Vĩnh, có biệt danh là Hoàng Mặt Rỗ. Hoàng Mặt Rỗ thuộc tổ chức Hồng Hội, và hoạt động trong khu tô giới Pháp. Vào thời kỳ đảng cộng sản Trung hoa thành lập tại Thượng Hải thì Bố già Hoàng Mặt Rỗ cũng đã già rồi, và một nhân vật khác, một thứ Bố già hàng nhì bắt đầu nổi bật, đó là Đỗ Nguyệt Thăng, có biệt hiệu là Đỗ Đại Nhĩ. Đỗ Đại Nhĩ nắm trong tay một tổ chức chống cộng mãnh liệt nhất Lục Hội. Lục Hội dùng màu xanh lá cây làm biểu tượng, và vì thế được gọi là Lục Hội.
Đỗ Đại Nhĩ là một nhân vật rất đặc biệt, một người của tội ác, sinh ra để tác yêu tác quái. Đỗ Đại Nhĩ sinh năm 1888 tại Thượng Hải trong một gia đình bần cùng nhất của thành phố, và có một tuổi thơ ấu vô cùng khốn nạn. Thân phụ Đỗ Đại Nhĩ là một cu li trong một tiệm gạo. Khi hắn được vài tuổi thì cha mẹ chết, và hắn thuộc về người cậu ruột. Người cậu của Đỗ Đại Nhĩ rất thính đánh đập hắn, và coi đó là một thú tiêu khiển. Vì bị đánh đấm khá nhiều ngay từ lúc còn nhỏ, nên Đỗ Đại Nhĩ có một khuôn mặt méo mó, và thân hình gầy gò.
Khi Đỗ Đại Nhĩ được 15, 16 tuổi thì đã tỏ ra một thiếu niên rất quen thuộc với việc giết người, và không từ một tội ác nào mà không làm. Điểm đặc biệt nhất của Đỗ Đại Nhĩ là hai cái tai rất to, như hai cây nấm vươn lên từ một cái đầu lúc nào cũng cạo trọc. Chính cái nét đặc biệt có hai tai to mà Đỗ Nguyệt Thăng có biệt danh là Đỗ Đại Nhĩ. Hai cánh tay của Đỗ Đại Nhĩ rất dài, như tay của loài vượn, một hàm răng rất dài, lúc nào cũng vàng khè và cặp mắt nhỏ nhưng sắc như mắt chuột. Đỗ Đại Nhĩ gia nhập Lục Hội từ lúc chưa đầy 15 tuổi, và tỏ ra một tay anh chị đáng sợ.
Đỗ Đại Nhĩ tìm cách ra mắt với Bố già Hoàng Mặt Rỗ, chúa trùm giới giang hồ lúc đó. Hắn lân la chầu chực trong bếp của nhà Hoàng Mặt Rỗ, và dần dà làm quen được với người tình nhân cưng nhất của Hoàng Mặt Rỗ. Hoàng Mặt Rỗ nhận thức được khả năng đặc biệt của Đỗ Đại Nhĩ và thu nhận hắn làm đàn em. Đỗ ĐạI Nhĩ thi hành mệnh lệnh của Bố già rất ngon lành sắc gọn. Đỗ Đại Nhĩ có tài làm quen với mọi người một cách dễ dàng vì bản chất của hắn rất rộng rãi về tiền bạc, và lúc nào cũng sẵn sàng "giúp đỡ người anh em một tay" khi cần. Đỗ ĐạI Nhĩ rất thích bầy tỏ quyền lực bằng cách bênh vực các người bán hàng rong bị chủ nợ là các tiệm cầm đồ làm khó dễ. Đỗ Đại Nhĩ đã từng gây kinh hoàng cho giới cầm đồ tại Thượng Hải.
Nhưng khả năng xuất sắc nhất của Đỗ Đại Nhĩ là giải quyết việc buôn bán thuốc phiện. Hắn muốn các nhóm buôn thuốc phiện đối lập nhau nên tập hợp thành một tổ chức chung, và do đó có thể bảo nhau tăng giá thuốc phiện và thu lợi được nhiều hơn. Hoàng Mặt Rỗ giao cho Đỗ Đại Nhĩ thi hành kế hoạch này -- có nghĩa là hắn sẽ thương thuyết với một vài thủ lãnh bang hội này, và ám sát một số lãnh tụ bang hội khác. Thủ lãnh của Lục Hội không đồng ý liền bị hắn giết chết và hắn trở thành Bố già của Lục Hội. Người thủ lãnh của Thanh Hội là Trương Hiếu Liêm khôn ngoan cộng tác với Đỗ Đại Nhĩ, và từ đó ba người, Hoàng Mặt Rỗ, Đỗ Đại Nhĩ và Trương Hiếu Liêm ngự trị thế giới anh chị của Thượng Hải và Chiết Giang, và toàn cõi lưu vực sông Dương Tử.
Trong các tô giới ngoại quốc, việc buôn bán thuốc phiện vẫn thuộc Tam Hòa Hội của người Triều Châu do Vương Sung lãnh đạo. Đỗ Đại Nhĩ thành công "nói phải quấy" với họ Vương, bắt họ Vương phải gia nhập tổ chức buôn thuốc phiện chung của hắn. Cuối cùng Đỗ Đại Nhĩ thâu tóm luôn Tam Hòa Hội. Tài sản của Đỗ Đại Nhĩ lúc đó lên tới 40 triệu mỹ kim. Đỗ Đại Nhĩ là người rất hào phóng về tiền bạc, sẵn sàng chia xẻ cho bạn bè. Nếu ai có lý do chính đáng cần tiền, hắn không ngần ngại ra tay giúp đỡ ngaỵ Nhiều lần hắn đã ra tay giúp đỡ các cô nhi và quả phụ nghèo khó, nhưng lúc nào hắn cũng có khả năng làm cho người khác phải khiếp sợ. Một khi hắn ra lệnh thì ai cũng phải thi hành cho đến nơi đến chốn.
Đỗ Đại Nhĩ không muốn thay thế Bố già Hoàng Mặt Rỗ, mặc dù hắn đủ sức hạ Bố già họ Hoàng dễ dàng. Hoàng Mặt Rỗ vẫn là thủ lãnh của nhóm ba người, nhưng Đỗ Đại Nhĩ là người trực tiếp chỉ huy mọi hoạt động của tổ chức. Mỗi khi Đỗ Đại Nhĩ ra lệnh thì cả thành phố phải nhảy theo lệnh của hắn. Dưới quyền của hắn là một số đông đảo thợ thuyền, từ những phu khuân vác bến tàu đến những cu li ngoài đường, nhân viên phát thư của bưu điện và nhân viên các ngân hàng. Các nhân viên phát thư cho phép người của Đỗ Đại Nhĩ đọc thư từ của người khác để nắm được mọi bí mật của giới chính trị và thương gia. Khi cần, Đỗ Đại Nhĩ có thể dùng những bí mật này để gây áp lực cho giới chủ nhân, bắt họ phải thần phục và nộp tiền bảo vệ. Người của Đỗ Đại Nhĩ cũng ra lệnh cho thợ thuyền của các hãng xưởng phải gia nhập một nghiệp đoàn riêng do người của Đỗ Đại Nhĩ lãnh đạo. Bề ngoài thì các nghiệp đoàn này có vẻ độc lập, nhưng khi cần Đỗ ĐạI Nhĩ giật dây là tất cả phải hành động theo đúng mệnh lệnh của hắn, như khi nào thì phải đình công chẳng hạn. Đỗ Đại Nhĩ cũng cần sự hợp tác làm ăn chung với giới tài phiệt. Người hợp tác đắc lực nhất với Đỗ Đại Nhĩ là Tống Ái Linh, mà nhiều người thường gọi là Bà Khổng.
Đỗ Đại Nhĩ thường đến tư gia của Tống Ái Linh vào sáng chủ nhật, sau khi Ái Linh đi lễ nhà thờ về, để bàn luận công việc làm ăn. Trong khoảng từ 1916 đến 1940, Đỗ Đại Nhĩ và Tống Ái Linh đã thành công đầu tư và đoạt được khá nhiều cơ sở thương mại kỹ nghệ tại Thượng Hải. Hai bên hợp tác với nhau đều có lợi. Ái Linh có tiền và thế lực trong khi Đỗ Đại Nhĩ có khả năng thi hành được mọi kế hoạch, dù khó khăn mờ ám thế nào cũng thành công. Đôi khi Đỗ Đại Nhĩ cũng gặp phải những người cứng đầu không sợ sự hăm doạ. Khi thấy sự hăm dọa ngầm của mình không được đối phương hiểu rõ, Đỗ Đại Nhĩ chỉ cần làm một cảnh cáo rất nhẹ nhàng: sai đàn em khiêng đến tận nhà đối thủ một cỗ quan tài chạm trổ rất đẹp đẽ. Lập tức mọi điều kiện của Đỗ Đại Nhĩ được chấp thuận ngay.
Một thú tiêu khiển của Đỗ Đại Nhĩ là hay lai vãng các xóm yên hoa. Chính tại các khu vực thanh lâu này mà Đỗ Đại Nhĩ gặp gỡ và kết thân với một thanh niên sống rất buông thả, tính tình hay cáu kỉnh. Người thanh niên đó là Tưởng Giới Thạch.
Tưởng Giới Thạch
Tưởng Giới Thạch lớn hơn Đỗ Đại Nhĩ một tuổi. Họ Tưởng sinh ngày 31-10-1887 tại Khê Khẩu, một thị trấn nhỏ về phía tây Thượng Hải, nằm dưới chân núi Vũ Lĩnh thuộc tỉnh Chiết Giang. Năm đó thân mẫu Tưởng 23 tuổi, và là vợ thứ ba của một thương gia buôn muối, và già gấp đôi tuổi bà. Năm 1895, khi Tưởng lên tám tuổi thì thân phụ qua đời. Tưởng rất quyến luyến và thương mẹ, một người đàn bà buồn nhiều hơn vui. Có lần Tưởng nhận xét bà mẹ là người "phải nuốt rất nhiều tủi nhục chua chát".
Hồi nhỏ Tưởng rất hay đau yếu và khó nuôi, do đó tính tình của Tưởng rất khó chịu. Chú bé họ Tưởng trở thành mục tiêu chế riễu trong làng, vì cái đầu của Tưởng méo mó giống như một hạt đậu phọng. Một thầy tướng số trông thấy Tưởng cũng rất kinh ngạc khi thấy cái đầu bất thường của Tưởng. Ông thầy tướng nói cái đầu rất lạ lùng của Tưởng là một quý tướng, làm nên nhưng tàn ác. Tưởng lớn lên mang trong người những chứng bệnh rất lạ lùng, khi thì khóc sướt mướt, khi thì giận dữ điên cuồng.
Trong nhà không có đàn ông nên gia đình nhà họ Tưởng thường bị nhà chức trách của triều đình nhà Thanh bắt nạt. Một hôm có người trong làng họ Vương, hàng xóm của nhà họ Tưởng, bỏ làng trốn vì không đủ tiền đóng thuế nông nghiệp. Nhà chức trách đến nhà họ Tưởng, lôi cổ Tưởng Giới Thạch lên cửa quan, và bắt Tưởng Giới Thạch phải bỏ tiền đóng thuế cho người họ Vương bỏ trốn. Mặc dầu nhà họ Tưởng đã đóng đủ thuế rồi, nhưng nhà chức trách cho biết cả làng phải chịu trách nhiệm về món tiền thuế thất thu của họ Vương. Mẹ của Tưởng đành phải lo tiền nộp thuế để Tưởng khỏi bị phạt tù. Nhưng Tưởng rất căm giận sự bất công phi lý của triều đình. Về sau Tưởng gọi đó là động lực đầu tiên thúc đẩy Tưởng đi vào con đường cách mạng.
Sau khi học hết trường tiểu học Khê Khẩu, Tưởng được mẹ gửi đến học trường trung học Long Giang tại Phụng Hóa. Khi Tưởng được 14 tuổi thì gia đình bắt Tưởng về nhà lấy vợ. Người vợ đầu tiên của Tưởng là Mao Phúc Mai, người cùng làng và lớn hơn Tưởng 4 tuổi. Tuy nhiên cuộc hôn nhân này không giữ Tưởng ở lại quê nhà. Tưởng không mấy quan tâm đến người vợ, và bằng lòng lấy vợ là để làm vừa lòng mẹ. Sau đó Tưởng trở lại trường học tại Phụng Hóa, trau giồi kiến thức để tìm cách tiến thân. Tưởng không có ý định ở lại Khê Khẩu suốt đời làm một thương gia bán muối.
Chính tại trường trung học Long Giang, Tưởng tìm đọc cuốn Binh Thư của Tôn Tử. Tôn Tử là một chiến lược gia danh tiếng sống thời Chiến Quốc. Đối với Tôn Tử, nghệ thuật cao nhất của chiến tranh là thắng được kể địch mà không cần phải giao chiến. Chiến tranh phải dựa trên mưu thuật. Xử dụng gián điệp là thượng sách. Xử dụng quân đội phải được coi như là biện pháp cuối cùng. Chiến tranh mà phải dùng đến quân đội để giao tranh là một sự phí phạm về kinh tế và nhân sự. Tuy nhiên Tôn Tử cũng cảnh cáo việc xử dụng gián điệp không phải là việc dễ dàng. Chỉ có những tướng tài, khôn ngoan, công bằng và nhân đạo mới dùng được gián điệp.
Tưởng rất say mê tư tưởng của Tôn Tử, và tư tưởng của Tôn Tử ảnh hưởng rất nhiều đến tương lai của Tưởng. Ngoài Tôn Tử, Tưởng còn tôn thờ danh tướng Nhạc Phi của nhà Tống, và Vương Dương Minh, một nho gia làm tới chức tể tướng đời nhà Minh. Sau này khi phải chạy ra Đài Loan, Tưởng đã đổi tên ngọn núi Thảo Sơn thành núi Dương Minh Sơn để tỏ lòng ngưỡng mộ Vương Dương Minh. Vị sư phụ của Tưởng cố gắng huấn luyện cho Tưởng tinh thần vị tha, tự kỷ và lúc nào cũng phải cố gắng về tinh thần. Từ trước, cuộc đời của Tưởng chỉ là một cố gắng để thoát ra khỏi cảnh nghèo và sự chế nhạo của người đời về cái đầu kỳ khôi của mình. Tại học viện này, Tưởng đặt cho mình một mục tiêu xa hơn nữa. Tưởng tập được một thói quen tốt, buổi sáng dậy thật sớm, đứng trước hàng hiên để trầm tư mặc tưởng mỗi sáng nửa giờ. Trong nửa giờ đó, Tưởng đứng thật nghiêm, thật thẳng, miệng mím chặt và khoanh hai tay trước ngực.
Nhờ đọc sách của Tôn Tử và Nhạc Phi, Tưởng nhất quyết trở thành một chiến sĩ, lập sự nghiệp trên lưng ngựa. Đến năm 1906, Tưởng ngưỡng mộ quân đội Nhật Bản đã chiến thắng hải quân Nga sô tại eo biển Đối Mã, nên bỏ sang Nhật để nghiên cứu học thuật quân sự của Nhật. Tưởng viết thư xin mẹ tiền làm lộ phí cho cuộc xuất ngoại. Khi bà mẹ phản đối không chịu cho Tưởng xuất ngoại, Tưởng lập tức cắt cái mớ tóc đuôi sam trên đầu và gửi về cho mẹ. Cả làng bất mãn hành động của Tưởng, nhưng bà mẹ đành phải đổ hết tiền dành dụm được cho cậu quý tử ra đi. Hành động cắt đuôi sam của Tưởng vừa bày tỏ lòng cương quyết ra đi tìm học, vừa bày bỏ sự chống đối nhà Mãn Thanh, vì nhà Mãn Thanh bắt buộc đàn ông Trung hoa phải để tóc, kết thành đuôi sam. Cái đuôi sam là dấu hiệu phục tùng nhà Mãn Thanh.
Khi sang tới Nhật, Tưởng vỡ mộng vì lúc đó Nhật chỉ chấp nhận những sinh viên nào do triều đình nhà Mãn Thanh gửi sang. Tưởng không có sự bảo trợ của triều đình, vừa không có tóc đuôi sam nên không được nhận vào học viện quân sự của Nhật. Tưởng ở lại Nhật thêm sáu tháng nữa, sống lẫn lộn với giới cách mạng chống nhà Mãn Thanh, và rất ưa thích cuộc đời phóng túng, và bắt đầu tập tành làm chính trị. Lúc đó Đồng Minh Hội của Tôn Dật Tiên đã thành lập. Tôn Dật Tiên có một người phụ tá rất tài giỏi, và ăn nói rất lôi cuốn quần chúng là Trần Kỳ Mỹ. Tưởng được Trần Kỳ Mỹ nhận làm đàn em. Trần Kỳ Mỹ đã từng hoạt động tại Thượng Hải với Bố già Hoàng Mặt Rỗ. Chính Hoàng Mặt Rỗ đã khuyên Trần Kỳ Mỹ sang Nhật để học hỏi thêm về quân sự. Tại Nhật, Trần Kỳ Mỹ được vào học tại Học viên Cảnh sát của Nhật.
Đến mùa đông 1906-1907, Tưởng trở về quê nhà để dự hôn lễ của người em gái. Trước khi Tưởng trở về, Trần Kỳ Mỹ đã lập kế hoạch để cho Tưởng được thi đậu vào trường quân sự Bảo Định tại Hồ Bắc. Năm 1907, Tưởng được nhận vào trường quân sự Bảo Định, và đến năm sau thì chính thức được gửi qua học các lớp quân sự cao cấp tại Nhật Bản. Tưởng đã vượt qua được mọi khó khăn để được thâu nhận vào trường quân sự danh tiếng Shimbu Gakko, và tốt nghiệp ba năm sau đó.
Trước khi Tưởng rời Khê Khẩu xuất dương sang Nhật thì người vợ quê mùa của Tưởng sinh được đứa con trai đầu tiên. Tưởng đặt tên con là Tưởng Kinh Quốc. Cuộc đời của người vợ đầu tiên của Tưởng thật là khổ nhục, phải sống với một người chồng khó tính khắt khe và một bà mẹ chồng rất lạnh lùng. Tưởng thường hay đánh đập vợ, vì thế người vợ hằng cầu mong Tưởng đi xa càng lâu càng tốt. Tưởng giao du thân mật với nhóm anh chị của Hoàng Mặt Rỗ và Đỗ Đại Nhĩ, và bí mật gia nhập Lục Hội.
Năm 1910, sau khi tốt nghiệp trường quân sự Shimbu Gakko, Tưởng trở về Thượng Hải, và nhúng tay vào một vụ giết người đầu tiên. Hồ sơ của Tưởng tại sở cảnh sát trong tô giới Anh gồm nhiều vụ ám sát giết người, những vụ cướp vũ trang và tống tiền, cũng như nhiều thứ tội ác khác nữa. Tưởng bị buộc tội trong tất cả mọi trường hợp, nhưng Tưởng không bao giờ bị bắt đem xử trước toà hoặc bị bắt giam. Mùa hè năm 1911, Tưởng tổ chức một cuộc ám sát nữa tại Thượng Hải, và sắp sửa trở lại Nhật để được xung vào Trung đoàn Pháo binh 19 thì cuộc nổi dậy Song Thập ngày 10 tháng 10 tại Vũ Hán thành công. Tưởng lập tức quay trở về Thượng Hải và được Trần Kỳ Mỹ giao cho chức vụ chỉ huy trưởng "Lữ đoàn 83", gồm một nhóm ba ngàn tay anh chị của Lục Hội do Hoàng Mặt Rỗ viện trợ cho phe cách mạng. Lúc đó Thượng Hải vẫn thuộc quyền cai trị của nhà Mãn Thanh, nhưng Trần Kỳ Mỹ nhất quyết dùng võ lực chiếm thành phố này.
Đầu tháng 11-1911, Trần Kỳ Mỹ dẫn lữ đoàn tấn công các vị trí của quân Mãn Thanh, và kiểm soát được thành phố. Trần Kỳ Mỹ trở thành vị thống đốc đầu tiên cai trị thành phố Thượng Hải được giải phòng. Trần Kỳ Mỹ cử Tưởng làm tham mưu trưởng cho quân cách mạng tại Thượng Hải. Ngay sau đó Trần Kỳ Mỹ phái Tưởng chỉ huy một nhóm 100 cảm tử quân tiến về Hàng Châu để giúp các nhà cách mạng địa phương giải phóng Hàng Châu, thủ phủ của tỉnh Chiết Giang. Tưởng hoàn thành nhiệm vụ, và trở thành một anh hùng cách mạng. Tưởng được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng Trung đoàn 5 tại Hàng Châu.
Lúc đó Trần Kỳ Mỹ gặp sự chống đối của một lãnh tụ cách mạng tại Thượng Hải là Đào Chính Cương. Họ Đào muốn loại Trần Kỳ Mỹ để nắm quyền chỉ huy quân sự tại Thượng Hải. Để trả ơn Trần Kỳ Mỹ, Tưởng từ Hàng Châu trở về Thượng Hải, đến thẳng bệnh viện nơi Đào Chính Cương đang chữa bệnh. Tưởng cãi nhau kịch liệt với Đào Chính Cương, và cuối cùng rút súng bắn chết họ Đào ngay trên giường bệnh. Khi giết Đào Chính Cương xong, Tưởng vội trốn sang Nhật để tránh bị bắt. Tưởng lẩn tránh tại Nhật cho mãi tới cuối năm 1912, và xuất bản một tập san quân sự. Tưởng say mê viết những bài tham luận về quân sự và chính trị trên tờ tập san này.
Đến mùa đông năm 1912, khi Tưởng trở lại Thượng Hải thì Tưởng lại quay về những thói quen xấu trước kia. Nhiều khi Tưởng bỏ nhiệm sở cả tháng trời để sống với những ca kỹ. Tưởng rất hợp tính với Đỗ Đại Nhĩ. Hai người đều lấy thanh lâu ca kỹ làm nguồn vui, và thích thú những hành động tội ác. Mỗi khi Bố già Đỗ Đại Nhĩ đến chơi một chốn yên hoa nào, thì một toán vệ sĩ tiền phương phải tới trước và lục soát từ nhà bếp tới các phòng ngủ xem có những nguy hiểm nào không. Toán vệ sĩ tiền phương sau đó lập thành đội phòng vệ, tỏa ra bao vây nhà hàng để chờ Bố già Đỗ Đại Nhĩ đến. Đỗ Đại Nhĩ bao giờ cũng dùng một xe hơi bốn cửa được bọc thép chống đạn. Trước và sau đều có xe chở đầy vệ sĩ đi theo hộ vệ. Đỗ Đại Nhĩ chỉ xuống xe bước vào nhà hàng khi có đông đủ vệ sĩ vây quanh. Rồi hai bên hai vệ sĩ, Đỗ Đại Nhĩ tiến vào nhà hàng, trong đó mỗi cánh cửa, mỗi góc phòng đều có một vệ sĩ của Đỗ Đại Nhĩ đứng canh gác. Khi Đỗ ĐạI Nhĩ ngồi vào bàn đầu thì một toán vệ sĩ bao vây bàn sau, và các bàn bên trái bên phải, súng lúc nào cũng sẵn sàng nhả đạn khi cần.
Đây là thời cực thịnh của nghề mãi dâm tại Thượng Hải. Vào thời đó, cứ 12 căn nhà tại Thượng Hải thì có một nhà điếm. Riêng tại khu tô giới ngoại quốc có tới 668 nhà điếm. Cứ 130 người dân trong thành phố Thượng Hải thì có một người là gái điếm, trong số này thì một nửa là gái mãi dâm của Lục Hội. Riêng nhà Thanh Lâu, nơi Đỗ Đại Nhĩ và Tưởng thường hay lui tới giải trí, có tới 121 kỹ nữ. Sự kiểm soát ngành mãi dâm của Lục Hội thật là hoàn toàn chặt chẽ. Đây chính là nguồn lợi tức lớn của Lục Hội, ngoài nha phiến. Dù đẹp hay xấu, dù tài nghệ điêu luyện thập thành hay không thì tất cả những gái mãi dâm tại Thượng Hải đều bị bắt buộc phải tận lực dùng đủ mọi mánh khóe để mê hoặc, quyến rũ khách làng chơi, vì sự cạnh tranh nghề nghiệp tại đây thực là vô cùng gay go, khi mà số lượng gái điếm và nhà thanh lâu nhiều đến như thế.