Nói về Trần Công Xán vào Phú Xuân gặp Nguyễn Huệ. Huệ hỏi:
- Tiên sinh đến đây có điều chi dạy bảo.
Xán đáp:
- Hạ thần vâng lệnh vua nước thần vào xin Bắc Bình Vương trả đất Nghệ An.
Nguyễn Huệ nói:
- Vua nước ngài kinh thành còn không giữ nổi để hết Trịnh Lệ và Dương Trọng Tế lộng hành rồi đến Trịnh Bồng và Hoàng Phùng Cơ áp chế nên vua phải viết mật chỉ vời Nguyễn Hữu Chỉnh về kinh cứu giá. Nguyễn Hữu Chỉnh xin lệnh của ta, ta bèn sai Chỉnh đem quân ra Bắc cứu vua Lê. Nào ngờ xong việc Chỉnh lại ra mặt cấu kết với Nguyễn Duy và Huỳnh Đức làm phản. Tội ấy ta chưa hỏi, nay hắn lại mượn tiếng vua Lê đòi đất Nghệ An. Tiên sinh hãy về tâu với vua Lê rằng: đợi ta đem binh ra chém đầu Hữu Chỉnh rồi sẽ trả luôn đất Nghệ An cho vua Lê.
Trần Công Xán hỏi:
- Năm Bính Ngọ vua nước ngài ra Bắc gặp vua thần tại điện Kính Thiên có nói rằng: Đất họ Trịnh một tấc cũng không để, đất họ Lê một tấc cũng không lấy. Nay họ Trịnh đã diệt sao còn không trả đất Nghệ An.
- Phiền tiên sinh ra nghỉ ngoài công quán, đợi ta sai người về Quy Nhơn thỉnh ý Hoàng huynh rồi mới trả lời.
Trần Công Xán ra nghỉ ngoài công quán, đêm ấy bảo với Lê Duy Án rằng:
- Nguyễn Huệ nuốt lời không muốn trả đất Nghệ An. Vậy Hoàng thân hãy vào gặp Hoàng cô Ngọc Hân nhờ người nói giúp xem sao.
Lê Duy Án liền đi ngay đến hậu cung xin vào yết kiến Ngọc Hân. Án nói:
- Hoàng thượng có mật chỉ nhờ Hoàng cô trao cho Bắc Bình Vương.
Ngọc Hân đọc mật thư xong bèn nói:
- Quả nhiên Hữu Chỉnh theo vết xe họ Trịnh áp chế nhà Lê ta. Nay Hoàng thượng viết mật chỉ vời Bắc Bình Vương về cứu giá. Vậy Hoàng thân mau ra ngoài công quán kẻo Trần Công Xán nghi ngờ, ta sẽ trao mật chỉ cho Bắc Bình Vương ngay.
Ngọc Hân đến gặp Nguyễn Huệ, khóc nói:
- Nhà Lê của thiếp đã hai trăm năm bị họ Trịnh hiếp đáp, sau nhờ phu quân đem binh ra Bắc diệt Trịnh phò Lê, những tưởng đã nắm lấy quyền hành, nào ngờ nay Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng hành áp chế vua trẻ, xin phu quân hãy vì dân vì nước ra Bắc diệt Chỉnh, ơn ấy ngàn đời thiếp chẳng dám quên.
Nói xong Ngọc Hân trao mật chỉ cho Nguyễn Huệ rồi lấy vạt áo lau nước mắt. Nguyễn Huệ cảm động an ủi Ngọc Hân:
- Nàng chớ nên buồn phiền như thế. Nay có mật chỉ của vua Lê ta mới danh chính ngôn thuận ra Bắc trừ Nguyễn Hữu Chỉnh được.
Ngọc Hân mừng rỡ thưa:
- Cảm ơn phu quân đã có lòng đoái thương đến nhà Lê của thiếp. Ơn này thiếp xin tạc dạ.
- Nàng hãy về cung nghỉ trước, ta còn phải đi gặp người bàn việc nước.
Ngọc Hân hỏi:
- Phu quân định đi gặp ai vào giờ này?
Huệ đáp:
- Ta đi gặp Trần Văn Kỷ.
Nói xong Nguyễn Huệ tiễn Ngọc Hân về cung rồi sang nhà Trần Văn Kỷ, vừa đến cổng đã thấy Trần Văn Kỷ xăm xăm bước ra. Huệ hỏi Kỷ:
- Đêm đã khuya tiên sinh còn đi đâu đó?
Kỷ thi lễ rồi đáp:
- Tôi định sang yết kiến Chúa công. Không ngờ Chúa công lại đến đây, nên không kịp nghênh đón. Xin Chúa công miễn chấp.
Đoạn Kỷ mời Huệ vào nhà. An toạ xong Huệ hỏi:
- Chắc có điều gì hệ trọng nên tiên sinh mới định đến tìm tôi vào đêm khuya chăng.
Văn Kỷ đáp:
- Thần nghe có sứ giả của Chỉnh vào đòi đất Nghệ An, nên định sang hỏi Chúa công liệu tính thế nào?
Nguyễn Huệ đáp:
- Nguyễn Hữu Chỉnh quả nhiên trúng kế, nghe lời Lê Chiêu Thống sai sứ vào đòi đất Nghệ An. Vua Lê mới cho Hoàng thân Lê Duy Án theo sứ bộ đem mật chỉ vời ta ra cứu giá. Nay ta có mật chỉ của vua Lê tất có chính nghĩa cất quân ra diệt Chỉnh.
Trần Văn Kỷ hỏi:
- Vậy sau khi diệt Chỉnh rồi Chúa công liệu thế nào.
Huệ đáp:
- Ta ở lại giúp vua Lê ít lâu sau rồi lại kéo quân về.
Trần Văn Kỷ ung dung nói:
- Vậy mà tôi cứ ngỡ Chúa công nửa đêm đến đây là để nói về việc truất bỏ nhà Lê.
Nguyễn Huệ mừng rỡ bảo:
- Tiên sinh thật là hiểu ta đó.
Trần Văn Kỷ hỏi:
- Chúa công định dùng kế gì để truất nhà Lê.
Nguyễn Huệ cười đáp:
- Kế của tôi là “rung cây nhát khỉ”.
Trần Văn Kỷ cười theo, nói:
- Chúa công có chí tự cường nên mới dùng chữ Nôm là “rung cây nhát khỉ”. Kế này trong binh thư chữ Hán gọi là “Phạt thảo kinh xà” đó.
Nguyễn Huệ nắm tay Trần Văn Kỷ cười to nói:
- Tiên sinh thật là người tri kỷ của ta vậy. Nhưng việc này ta phải nói trước với Ngọc Hân mới được.
Văn Kỷ can:
- Ta phạt thảo, rung cây mà không ai biết, thì Chúa công chớ nên nói trước với công chúa làm gì. Ngộ nhỡ công chúa không bằng lòng truất bỏ nhà Lê rồi lộ việc thì làm thế nào?
Huệ trầm ngâm đáp:
- Ta đã có cách nói khiến công chúa phải bằng lòng cho ta truất bỏ nhà Lê.
Đoạn Nguyễn Huệ về hỏi Ngọc Hân:
- Vua Chiêu Thống là người như thế nào?
Ngọc Hân buồn rầu đáp:
- Nhà Lê thật là vô phước nên anh của thiếp là Duy Vỹ bị Trịnh Sâm giết chết, khiến Hoàng tôn Duy Kỳ mới kế vị ngôi vua là Lê Chiêu Thống. Chiêu Thống là người vô tài kém đức, đố kỵ nhỏ nhen. Nếu phu quân không ra tay cứu giúp, e Bắc Hà loạn lạc muôn đời.
Nguyễn Huệ lại hỏi:
- Chuyến này ta ra Bắc diệt Chỉnh xong, nếu kéo quân về thì Bắc Hà vẫn loạn. Nhược bằng đóng binh phò giúp vua tất phải tự quyền điều hành vận mệnh quốc gia thì nước mới yên được. Khi ấy e rằng vua kém tài mà muốn quyền cao lại cho ta là lộng hành thì sao. Khi ấy nàng có hiểu cho ta chăng?
Ngọc Hân lo sợ hỏi lại Huệ rằng:
- Vậy phu quân liệu tính thế nào?
Huệ trầm tư đáp:
- Ta ngày quên ăn đêm bỏ ngủ vì e rằng khi nói ra điều này nàng sẽ giận ta mà thôi.
Ngọc Hân nói:
- Thiếp với chàng nên nghĩa phu thê ấy là duyên kỳ ngộ. Lòng trung với dân hiếu với nước của chàng thiếp lại chẳng biết sao. Nay việc nên làm là thế nào chàng cứ nói ra đừng ngại ngần gì cả.
Nguyễn Huệ chậm rãi nói:
- Bấy lâu hào kiệt ở Bắc Hà chỉ mượn tiếng phò Lê, mỗi người hùng cứ một phương đánh giết lẫn nhau tranh giành danh lợi khiến trăm họ vô cùng thống khổ, lòng người chán ngán không biết đâu là thật giả. Cổ nhân có câu: Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Nay Lê Chiêu Thống bất tài kém đức sao đem được thái bình về cho trăm họ. Vận mệnh của nhà Lê đã hết, muốn thống nhất sơn hà dựng đời thịnh trị chỉ có cách duy nhất là truất phế nhà Lê mà thôi.
Nguyễn Huệ nói xong, Ngọc Hân thảng thốt kêu lên:
- Đành rằng như thế, nhưng lòng dân Bắc Hà vẫn còn thương tiếc công đức của vua Lê Thái Tổ, Thái Tông. Nếu không phò Lê, phu quân lấy danh nghĩa gì kéo quân ra Bắc?
Nguyễn Huệ đáp:
- Ta ra Bắc lần này vẫn lấy danh nghĩa diệt Chỉnh phò Lê.
Ngọc Hân ngạc nhiên hỏi:
- Phu quân muốn truất bỏ nhà Lê sao lại còn lấy danh nghĩa phò Lê?
Nguyễn Huệ đáp:
- Nay ta có chiếu chỉ của vua Lê vời về kinh cứu giá trình trước thiên hạ, ấy là ta có danh nghĩa phò Lê kéo quân ra Bắc đánh Chỉnh. Nhưng khi ta đánh Chỉnh vua Lê Chiêu Thống tất bỏ kinh thành mà chạy không dám ở ngôi vua, ấy là ta truất bỏ nhà Lê vậy.
Ngọc Hân lấy làm lạ hỏi:
- Nghe quân ta đem mật chỉ diệt Chỉnh phò Lê kéo quân ra Bắc, thì vua Lê phải ở kinh thành đón quân ta, cớ gì phải bỏ chạy.
Nguyễn Huệ đáp:
- Ta dùng kế “Phạt thảo kinh xà” thì đuổi vua Chiêu Thống bỏ nước mà chạy, còn đối với thiên hạ ta vẫn được tiếng phò Lê. Chỉ e rằng truất bỏ nhà Lê nàng sẽ oán ta mà thôi.
Ngọc Hân gạt nước mắt nói:
- Việc làm của phu quân là vì dân vì nước, thiếp dù thương tiếc cơ nghiệp tổ tiên cũng không thể oán phu quân được. Nhưng thiếp vẫn chưa hiểu thế nào là kế “Phạt thảo kinh xà”?
Nguyễn Huệ kề tai Ngọc Hân nói:
Ta cứ làm như vầy... như vầy... tất vua Lê Chiêu Thống phải sợ mà trốn khỏi kinh thành.
Ngọc Hân lại hỏi:
- Nhưng Trần Công Xán và Lê Duy Án là người vô tội.
Nguyễn Huệ phân trần rằng:
- Muốn đem giang san quy về một mối, cứu muôn dân Đàng Ngoài khỏi cảnh lầm than thì phải hy sinh Lê Duy Án và Trần Công Xán. Nếu làm thế nàng có cho ta là người sâu hiểm hay chăng.
Ngọc Hân bùi ngùi đáp:
- Phu quân là người đức cả tài cao, quang minh chính đại. Trước tha mưu sĩ Nguyễn Đăng Trường về với Định Vương, sau thả Nguyễn Huỳnh Đức theo cùng Phúc Ánh. Nay phu quân vì dân vì nước, bất đắc dĩ phải làm như thế thiếp sao dám cho chàng là người hiểm độc. Tuy là việc nên làm, nhưng những giọt nước mắt này là vì thương tiếc cơ nghiệp của tổ tiên. Xin phu quân rộng xét.
Nguyễn Huệ cả mừng nói:
- Truất bỏ nhà Lê, ta thật là khó xử nên mới đem ra bàn trước với nàng. Cảm ơn nàng đã thấu được lòng ta.
Đoạn Nguyền Huệ âu yếm lấy khăn lau nước mắt cho Ngọc Hân. Hai người mặt nhìn mặt, tay nắm tay dìu nhau vào phòng trong tâm sự hàn thuyên.
*
**
Nói về Trần Công Xán hôm ấy đi dạo quanh phố rồi vê công quán lo lắng hỏi Lê Duy Án rằng:
- Hoàng cô Ngọc Hân hứa với ông thế nào mà ta nghe khắp kinh thành bàn tán xôn xao rằng Bắc Bình Vương đã sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đem năm ngàn binh mã ra Nghệ An hợp cùng Vũ Văn Nhậm đánh Thăng Long phò Lê diệt Chỉnh. Vậy ông mau vào Hậu cung hỏi Hoàng cô xem sự thể thế nào?
Lê Duy Án đi một hồi rồi về báo:
- Quân canh bảo Hoàng cô đang ở Vương phủ với Bắc Bình Vương, không có nơi hậu cung.
Trần Công Xán lòng nóng như lửa đốt, bèn nói:
- Vậy ta phải vào Vương phủ diện kiến Bắc Bình Vương hỏi cho ra lẽ mới được.
Nói xong khăn áo vào chầu. Gặp Huệ, Xán hỏi:
- Việc vua của thần xin lại đất Nghệ An, Đại Vương liệu tính thế nào?
Huệ cười hỏi lại Xán:
- Tiên sinh vào đây đòi đất là theo mệnh vua hay Hữu Chỉnh?
Xán đáp:
- Xưa nay thần chỉ theo mệnh vua.
Huệ ôn tồn hỏi:
- Tiên sinh theo mệnh vua, vậy tại sao vua viết mật chỉ vời ta ra cứu giá trừ Nguyễn Hữu Chỉnh tiên sinh lại không biết.
Xán thản nhiên đáp:
- Xin Đại Vương đừng cậy thế hiếp người. Phàm làm việc gì cũng phải có chứng cứ hẳn hoi, chớ nghe lời xàm tấu.
Nguyễn Huệ đưa tờ mật chỉ của vua Chiêu Thống cho Xán rồi hỏi:
- Tiên sinh hãy nhìn cho rõ, đây chăng phải là thủ bút của vua sao? Dấu ấn này chẳng phải của triều đình nhà Lê sao. Vậy đây là chứng cứ hay lời xàm tấu?
Trần Công Xán sững sờ nhìn đăm đăm vào tờ mật chỉ, rồi bình tĩnh nói:
- Vua thần không có ý đòi đất Nghệ An. Vậy thần xin được về nước.
Huệ cười bảo:
- Nay ta đang sắp đặt binh mã ra đánh Chỉnh nếu tiên sinh về thì lộ việc quân cơ. Thôi, ta tạm giữ tiên sinh ở lại Phú Xuân, chờ lấy đầu Hữu Chỉnh xong sẽ cho tiên sinh về nước.
Trần Công Xán quả quyết nói:
- Nếu không được về nước Trần Công Xán này chỉ có chết mà thôi.
Nguyễn Huệ lại cười rằng:
- Ta nói đùa để thử lòng tiên sinh, quả nhiên ông là người trung nghĩa. Đêm nay ta sắp sẵn ghe thuyền, ngày mai sẽ sai người đưa tiên sinh cùng sứ đoàn về nước.
Khi đoàn thuyền đi đến vùng biển thuộc phủ Nghệ An, viên đô đốc Tây Sơn chỉ huy quân hộ tống gọi vài tên thuộc hạ đến bảo:
- Các ngươi mau lặn xuống biển đến đục thuyền Lê Duy Án và Trần Công Xán.
Quân xây Sơn vâng lệnh lập tức thi hành. Trần Công Xán và Lê Duy Án đang ở trong khoang, bỗng nước từ dưới đáy thuyền phun lên ào ào. Thuyền từ từ chìm xuống. Trần Công Xán tức tối vỗ đùi nói lớn:
- Nguyễn Huệ vì sợ lộ việc quân đã giết bọn ta trên đường về rồi vậy.
Lê Duy Án kinh hãi bảo:
- Không lý nào có việc ấy được, chắc do thuyền bị thủng mà thôi. Ta mau ra ngoài gọi thuyền hộ tống đến cứu.
Nói xong liền vội vã ra khỏi khoang thuyền gọi lớn:
- Các ngươi mau mau đến cứu ta.
Quân Tây Sơn chỉ nhìn mà không cứu. Nước tràn vào mỗi lúc một nhiều. Nước đã ngập hết lòng thuyền, Lê Duy Án vừa khóc vừa gào lên rằng:
- Nếu ta mất mạng, Bắc Bình Vương sẽ lấy đầu các ngươi ngay.
Viên đô đốc Tây Sơn cười to nói:
- Ngài có uất thì xuống Diêm vương mà kiện.
Lúc ấy nước đã đến thắt lưng, Trần Công Xán hướng mặt về phía Bắc lạy ba lạy rồi quay lại bảo Lê Duy Án:
- Được vì nước mà chết ông còn uất nỗi gì mà gào lên như thế?
Lê Duy Án hoảng loạn nói:
-Ta đem mật chỉ của Hoàng thượng vời Nguyễn Huệ về kinh diệt Chỉnh. Vậy cớ gì Nguyễn Huệ lại giết ta?
Nước đã ngập hết con thuyền, Trần Công Xán ngước mặt tránh sóng tràn vào mui rồi hét lên:
- Vậy Nguyễn Huệ giết ta đã đành, cớ gì lại giết cả ngươi.
Lê Duy Án dùng hết sức bình sinh ôm cột buồm leo lên khỏi làn nước gào khóc rằng:
- Nếu không đem quân diệt Chỉnh phò vua cũng chẳng can cớ gì phải giết chết ta.
Dứt lời Lê Duy Án và Trần Công Xán theo con thuyền chìm xuống biển sâu. Viên đô đốc Tây Sơn gọi mấy tên quân đến bảo:
- Các ngươi mau lội vào bờ lựa chỗ đông người phao tin này lên cho khắp nơi được biết.
Đoạn viên đô đốc Tây Sơn quay về tâu cùng Nguyễn Huệ. Huệ gọi Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đến bảo:
- Văn Sở đem thủy binh, Văn Lân đem bộ binh đến Nghệ An hợp cùng Vũ Văn Nhậm cứ y như trong thư ta dặn mà làm.
Sở và Lân lãnh mệnh đi ngay.
*
**
Nhắc lại vua Lê Chiêu Thống và Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long ngày ấy đang đàm đạo trong trướng nghe quân vào báo:
- Tâu Bệ hạ, quân Tây Sơn lội vào bờ đến ranh giới đất Nghệ An và Thanh Hóa hô lên rằng: Sứ đoàn trở về nước bị bão đánh chìm thuyền đều chết hết cả. Quan trấn thủ Thanh Hóa sai thần về cấp báo.
Nguyễn Hữu Chỉnh giật mình nói:
- Nguyễn Huệ làm thế là có ý gì?
Vừa dứt lời quân thám mã thứ hai hớt hải chạy vào báo:
- Tâu Bệ hạ, tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân thống lĩnh một vạn binh tiến đánh Thanh Hóa. Tướng quân trấn thủ Lê Duật tử trận.
Chỉnh nghe qua như sét đánh ngang mày, nhưng cố giữ bình tĩnh nói:
- Như vậy Nguyễn Huệ đã lợi dụng tình chồng vợ bảo Hoàng cô nói gạt Bệ hạ là hắn thực bụng phò Lê rồi bất ngờ tiến đánh. Thần phải lập tức vào Thanh Hóa chống giặc mới được. Những tưởng đòi được đất Nghệ An nào ngờ lại mất luôn Thanh Hóa.
Đoạn Chỉnh hỏi tên quân rằng:
- Trước khi ra trận Lê Duật có nói gì chăng.
Tên quân đáp:
- Khi nghe quân Tây Sơn tiến đánh, Lê tướng quân có nói rằng: “Biết lòng người thì dễ, biết tài người mới là việc khó. Ta không biết tài bằng Trung Công vậy!”
Hữu Chỉnh than:
- Ta lại không biết tài Nguyễn Huệ vậy. Rồi Lê Duật ra trận thế nào?
Tên quân đáp:
- Lúc ấy có người khuyên Lê tướng quân bỏ thành Thanh Hóa lui về giữ ải Tam Điệp. Lê tướng quân bảo: Ta đã hứa với Bằng Trung Công là thà bỏ mạng không bỏ đất, nay bỏ thành mà chạy còn mặt mũi nào nhìn ai được nữa. Khi bị quân Tây Sơn vây, Lê tướng quân đâm cổ mà chết.
Nghe xong Chỉnh vừa đi vừa ứa nước mắt than:
- Thương thay lê Duật. Và ta không biết tài Nguyễn Huệ mà đã hại chết ngươi rồi!
Chỉnh đi rồi vua Chiêu Thống gọi Phan Lê Phiên đến bảo:
- Nguyễn Huệ bảo Hoàng cô lừa ta viết mật chỉ vời Huệ về kinh cứu giá. Có mật chỉ rồi hắn lại giết sứ của ta là cớ làm sao?
Phan Lê Phiên đáp:
- Việc này bởi do Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền nên Nguyễn Huệ mới thừa cơ dùng ly gián kế. Hắn muốn cướp nước ta mà không có cớ gì, nên mới lừa Hoàng cô Ngọc Hân đem tình nhà gạt Bệ hạ để hắn có mật chỉ của Bệ hạ. Được danh chánh ngôn thuận để xuất quân rồi hắn lại giết chết Trần Công Xán và Lê Duy Án, thật rõ là lòng gian dối. Việc đến nước này chỉ trông chờ vào tài dùng binh của Hữu Chỉnh mà thôi.
Vua Chiêu Thống hỏi:
- Ngộ nhỡ Chỉnh bại trận thì sao.
Phiên đáp:
- Thì ta phải bỏ Hoàng cung mà chạy. Nếu ở lại trước sau gì Nguyễn Huệ cũng hại đến Bệ hạ.