Lần hồi chúng tôi đã quen thói nhờ đến Pista mỗi khi cần đến một điều gì. Anh ta tìm được cách cung cấp cho chúng tôi hầu hết những gì cần thiết. Một buổi sáng, chúng tôi đã yêu cầu anh ta đi mời một linh mục tại một nhà thờ ở cách toà nhà của chúng tôi chừng nửa giờ đi bộ, để có thể cử hành Thánh lễ. Pista đã nổi tiếng là một người không thể bị thương, hoàn toàn giống như một nhân vật đeo bùa thiêng, chỉ phác một cử chỉ là có thể xua đủôi mảnh vỡ của mìn và trái phá rơi xuống như mưa chung quanh mình. Ước ao của chúng tôi trở thành hiện thực nhanh hơn chúng tôi hy vọng. Chỉ hai ngày sau, Pista báo cho chúng tôi biết Thánh lễ sẽ được cử hành trong tầng hầm của chúng tôi vào sáng ngày mai. Quả thật là điều lạ lùng khi nghe nói đến những tiếng "buổi sáng" "buổi chiều" hay "buổi tối", vì trong bóng tối thường xuyên của căn hầm và với ánh sáng vàng vọt yếu ớt của những ngọn đèn mỡ, con mắt đỏ hoe và luôn luôn chảy nước mắt không biết được ngày giờ. Điều cố định duy nhất của thời khắc biểu là lúc chiếc máy bay oanh tạc đêm chấm dứt công việc của nó, lúc đó là vào khoảng bốn giờ sáng và sau đó có một sự yên tĩnh tương đối cho đến khoảng sáu giờ. Ngày trọng đại đến. mới ba giờ rưỡi sáng tất cả mọi người đã thức dậy. Đêm ấy đã có tuyết rơi và chúng tôi có thể rửa ráy đôi chút với tuyết ở trong sân. Trong cái hầm chính, một cái bàn được phủ với tấm ra cuối cùng còn sạch sẽ mà chúng tôi đã có thể tìm thấy. Và chúng tôi ghi nhận như là một sự kiện đáng chú ý. Ông Radnai, người không tin thần thánh đã cạo râu và đã thắt cà vạt nơi cổ áo sơ mi của ông mà người ta không còn biết được nó là màu gì. Bà vợ goá của ông chủ ngânhàng chải gỡ những đám tóc rối của bà một cách tỉ mỉ. Và Ilus mặc một áo sơ mi sạch sẽ cho đứa bé của bà. Ngày hôm trước, Pista đã lấy được trong một cửa tiệm sáu cây đèn cầy bằng cánh tay, đó là một báu vật vô giá. Vài phút sau bốn giờ, một linh mục già đến, mang theo thánh thể đựng trong một cái hộp thếp vàng và một bình rượu lễ. một góc căn hầm của Ilus được sắp xếp thành phòng xưng tội, người ta đặt ở đó một cái chăn ở dưới đất cho những người quỳ xưng tội. Rồi chúng tôi xếp hàng người này đứng sau lưng người kia và buổi xưng tội bắt đầu. Đầu cúi xuống, ông Radnai cũng xếp hàng. Người gác cổng và bà vợ ông ta cũng có mặt ở đó, ăn mặc đàng hoàng như thể đi xem lễ ở nhà thờ. Eve không buông tay Gabriel ra, họ đứng hơi riêng biệt ra một chút. Ông biện lý sốt bốn mươi độ, ông nói huyên thuyên, vớ vẩn và sắp được sức dầu thánh lần cuối cùng. Etienne thắp đèn cầy trên bàn thờ và căn hầm đột ngột sáng lên. Sau khi xưng tội, người ta lần lượt đến quỳ trước bàn thờ. Đến lượt tôi, tôi cảm thấy tim tôi đập rất mạnh. Gần như khóc, tôi nói với vị linh mục: - Thưa cha, con không muốn chết. Con mới mười lăm tuổi. Con sợ chết. Con còn muốn sống. Khuôn mặt vị linh mục xanh xao, mí mắt cụp xuống, bất động trước mặt tôi. Biết bao lần, vị linh mục già đã phải nghe những lời phản kháng như thế, biết bao lần người ta nắm lấy bàn tay ông và nói "Thưa cha, con còn muốn sống lắm, người ta không thể chết đi trong sự tối tăm và dơ bẩn này, khi có những đất nước ở đó mặt trời chói lọi, ở đó người ta đi thung dung ngoài đường, trong lúc chúng con bị vây hãm ở đây, trong cái thành phố bị biến đổi thành nghĩa địa này…" Về phần tôi, tôi nói: - Thưa Cha, con run sợ mỗi khi phải đi ra ngoài, người ta chỉ còn có thể đi trên các xác chết, từ mọi phía những con mắt lờ đờ nhìn con với ánh mắt ngạc nhiên và trách móc, vì con còn ở trong số những người còn sống…. Vị linh mục già dịu dàng nói: - Số phận của thân xác chúng ta không quan trọng nhiều lắm đâu. Cái chết mà chúng ta quá sợ, chỉ là một sự giải thoát, nó chỉ là lúc linh hồn thoát ra khỏi thể xác để vào cõi vĩnh hằng. Và con ơi, Chúa Trời thương yêu chúng ta biết bao. Người đón chúng ta với một tình yêu vô hạn và vô tận. Trong cõi thiên đường, không có chiến tranh, cũng không có người chết. Mặt trời, hoà bình, một niềm vui tuyệt vời đasng đợi chúng ta ở đó. Chúng ta có thể sợ hãi diều gì nó ? Và những người chết chung quanh chúng ta ở đây, con đừng tưởng tượng là họ buộc tội chúng ta, trái lại, họ thương hại chúng ta, vì chúng ta còn phải chịu đựng những nỗi đau khổ của cuộc đời này. Con đừng quên rằng một người nào trong số những người đã trút hơi thở cuối cùng tại đây, giữa những đống đổ nát này, sẽ mất phần trong đời sống vĩnh hằng. Khi đi ra, tôi để ý thấy không còn một người nào nữa chung quanh tôi. Xuyên qua bức màn nước mắt của tôi, ánh sáng của các cây đèn cầy phản chiếu tất cả các màu sắc của cầu vồng, các bức tường đã mờ đi, ngôi nhà thờ trở thành lộng lẫy, ở đó ánh sáng hình như càng lúc càng trở nên chói lọi hơn, như thể những tia sáng của mặt trời đã lọt vào đến tận đó. Những giọng run run hát những bài thánh ca và một niềm vui sướng trong sạch làm cho tôi hầu như mê mẩn tâm thần, tưởng mình đã thông cảm được với Thượng Đế… Mãi một lúc lâu sau tôi mới trở về với thực tại. Tôi thấy Eve và Gabriel quỳ trước bàn thờ. Vị linh mục già cử hành hôn lễ của hai người. một cảnh không thể nào quên, đó là lúc hai người thề trung thành với nhau cho đến lúc lâm chung, lời thề nguyền thốt ra ở đây, nơi ngưỡng cửa của cõi vĩnh hằng và là nơi có bóng dáng thường xuyên của tử thần. Linh mục từ giã chúng tôi vào lúc bảy giờ sáng, trong lúc máy bay oanh tạc dữ dội. Người ta tin rằng ngày hôm ấy sẽ còn kinh khủng hơn các ngày trước đó. Toà nhà đã hư hại nặng và một phần hành lang của tầng ba đã đổ xuống trong sân. Mỗi người kiếm một món quà mọn tặng cho đôi vợ chồng mới cưới. Ông Radnai tặng họ một quả cam. Ông đã giữ trái cam hoàn toàn khô ấy từ năm tuần rồi, không dám ăn, để dành cho những lúc khó khăn hơn. Người gác cổng đã đem đến một ly rượu. Mọi người đều vui. Sau đó Eve đến tìm Ilus trong căn hầm nhỏ của bà ta và trao cho bà quả cam để bà cho đứa bé ăn.