Thơ của các danh-nhân đi sứ An-nam, từ niên-hiệu Chí-Nguyên trở xuống
Thị-Lang Lý-Tư-Diễn hiệu Vũ-Sơn
Thơ làm trong tiệc theo lời yêu-cầu của Thế-Tử
Bài I
Càn-khôn nay gặp hội trinh-nguyên, Trăng sáng làu làu, chướng-khí tan. Cõi bắc ruỗi sao ban cáo-mệnh, Trời nam xuân tỏa khắp giang-san. Cảm-thông thờ chúa lòng tua kính, Kiêng sợ oai trời nước mới an. Quy thuận nay mai chầu Tử-bệ Non mòn biển cạn vững muôn ngàn.
Bài-thơ nầy Thế-Tử họa vần ngay trong tiệc rượu, có hai câu như sau:
"Tự thẹn không tài may được đất, Chỉ nhân hay ốm lỗi chầu trời".
Bài II
Mưa móc ơn trên khắp dẫy đầy Chiếu son phượng ngậm 1 xuống từng mây. Chiến-trần rửa sạch sông Ngân-Hán 2, Hòa-khí lan tràn chốn hải-nhai Tỏ rõ thư Văn 3 ban một lá, So bằng đàn Thuấn 4 gẫy năm dây. Trời che đất chở nam như bắc, Chẳng sợ vân lôi 5 lại có ngày.
Thế-Tử tặng vàng bạc. Tư-Diễn khước từ. Thế-Tử nhắc tích Lục-Giả ngày xưa đi sứ, Triệu-Đà cũng tặng vàng bạc, v.v..., ân cần nài ép. Tư-Diễn bèn làm một bài thơ từ tạ như sau:
Lời vàng căn-dặn lúc lên đường, Chín bệ vì dân nặng xót thương. Yên Thục, Tương-Như vâng thảo hịch6, Sứ Nam, Lục-Giả há tham vàng. Tuyết băng trong trắng lòng thần-tử, Trời đất sinh thành, lượng đế-vương. Ao ước từ nay trời thuận ý, Thê hàng7 chức cống mỗi năm thường.
Quan kỳ (xem đánh cờ)
Tréo bàn ngồi mát lúc ban trưa,
Cao thấp xem chơi một cuộc cờ.
Vôi trắng, trầu xanh, cau lại dẻo,
Nhà ai hoa bưởi nức thơm đưa.
(Hoa bưởi An-nam rất thơm như hoa lài, Lĩnh-Bắc không có thứ hoa ấy).
Nho-Học đề-cử Từ-Minh-Thiện (giúp Vũ-Sơn đi sứ Giao-Châu, đêm xuân ngồi xem đánh cờ, tặng Thế-Tử một bài thơ).
Xanh um đình viện, nguyệt làu làu,
Người dưới trời con chiếm một bầu.
Đuốc đỏ một bàn ngồi xúm xít,
Mây xanh muôn trượng nghĩ đâu đâu.
Ai ngăn lỡ nước người trong cuộc,
Nhờ có khoanh tay khách ngoại chầu.
Thắng trận khoe-khoang binh tối kỵ,
Muốn bày cuộc khác ngại canh thâu.
Thượng-thư Trương-Hiển-Khanh
Ngắm cảnh trời hôm khói mịt mờ,
Xa nơi thành-thị đỡ huyên-hoa.
Quạnh hiu đình viện không bao sở,
Tươi tốt vuờn cây chỉ một nhà.
Thiên-Hán bến nam tuôn mạch nước,
Mộc-miên cây lớn trổ cành hoa.
An-nam tuy nhỏ văn-chương thịnh,
Ếch giếng, khuyên đừng chế giễu ngoa.
Thượng-Thơ Lương-Công-Phụ ăn trái vải ngẫu đề
Chỉ một đôi ngày đổi sắc hương,
Phải nghìn vạn dặm trạm băng đường,
Hoàng-triều chỉ trách bao-mao lễ 8.
Vô ích làm chi việc Hán, Đường 9.
Lang-Trung Trần-Cương-Trung (2 bài)
Bài I
Mẹ già Nam-Việt phơ đầu bạc,
Vợ ốm Bắc-Yên đợi bóng tà.
Mưa chướng mây mù, Giao-Chỉ khách,
Mộng hồn chung một, xứ chia ba.
Bài II
Từ giả Giao-Châu để thơ cho Đinh-Thiếu-Bảo
Mưa gió theo xe khói tỏa màn,
Cánh bằng há chỉ dặm ba ngàn,
Qua nam Ma-Cật còn vương bệnh10,
Về Bắc Đạt-Ma lại nhớ thiền 11.
Đồng trụ tầm thường vâng sứ tiết,
Ngọc-giai gang tấc đối thiên-nhan.
Chia tay chẳng có lời chi dặn,
Gắng tỏ nghìn thu một tấm đan.
Thị-Lang Lý-Trọng-Tân họa thơ của Thế-Tử Động-Diệu Tự-Chân
Những bài tựa và thơ của các quan Hàn-Lâm-Viện đưa tặng Sứ-giả
Bài tựa của Hàn-Lâm Học-Sĩ Lý-Khiêm, hiệu Thụ-Ích, đưa Thượng-Thơ Sài-Trang-Khanh.
Năm Chí-Nguyên thứ 15 (1278), An-nam quốc-vương dâng biểu thác cớ vì bận lo đề phòng nước láng giềng xâm lấn, không thể vào triều-kiến. Quốc-Vương mất, Thế-Tử tự lập, không chờ xin mệnh-lệnh Thiên-Tử. Triều-đình bàn khiến sứ, nhưng khó chọn người. Vừa gặp An-Vũ-Sứ Kim-Sỉ Sài-Trang-Khanh 27, từ Vân-Nam về, các đại thần đều tiến cử tài của ông. Vua vời vào hỏi, biết rằng phụ huynh của Sài-Công đều là tôi cũ của triều-đình, và Sài-Công tâu đối, lời ý khẳng-khái, thông thạo phong-thổ An-nam. Tức thì vua gia phong làm Lễ-Bộ Thượng-Thư; khiến đi sứ, ban cho áo gấm, cung tên, yên ngựa, để cho cuộc hành trình thêm phần vẻ vang. Trang-khanh đến An-nam, tuyên ý-chỉ nhà vua, khuyên dụ hai ba lần, nhưng quốc-vương chấp nệ, chẳng tỉnh-ngộ, rốt cuộc không có ý muốn lai triều. Trang-Khanh trở về, Hoàng-thượng chẳng nỡ gia-binh, xuống chiếu dụ mong vua An-nam lai triều, Trang-Khanh trong ba năm ba lần qua lại. Năm ấy người vào chầu là Trần-Di-Ái, em của quốc-vương và chú của Thế-Tử hiện nay.
Hoàng-thượng bảo rằng: "Đó là Thế-tử trái mệnh, chứ người nước ấy nào có tội gì, nên cho Di-Ái làm vua để yên vỗ dân", bèn ban sách-mệnh cho Trang-Khanh làm chức Tuyên-Uý-Sứ Đô-Nguyên-Soái, đem binh hộ-tống Di-Ái về nước. Lúc sắp đi, các quan Hàn-Lâm-Viện đều làm thơ tống tiễn. Tôi may được dự một chức trong Viện Hàn-Lâm thường những chiếu-dụ, biểu-chương, đều có dự nghe, bèn thuật lại công việc và kính tặng mấy lời như sau: "Từ xưa chẳng phải có nhân-tài là khó, mà chọn nhân-tài mới là việc không phải dễ-dàng. Nay chúa-thượng biết Trang-Khanh là người thuần-hậu, lanh lợi, học rộng biết nhiều, đủ sức đảm nhận trọng trách; đi sứ bốn phương, không nhục mệnh nhà vua, cho nên ký thác việc biên-thùy, ủy-nhiệm sứ-mệnh ở nơi tuyệt-vực, phàm các việc quân-lữ, đều được tự ý điều-khiển, lại lấy Chấn-Văn Lý-Công làm tá-nhị, Phi-nhị Lý-Quân làm tham tán, chọn tài như vậy, thực là tinh-tế. Trang-Khanh hãy đi cho khỏi phụ ý lựa chọn của Thánh-Thiên-Tử, khỏi phụ lòng kỳ-vọng của hàng Công-Khanh, chiêu-dụ vỗ yên, chính do ở chuyến đi nầy. Vài hôm nữa, tôi sẽ đón chờ Hiền-Công ở ngoài cửa đô-môn mà mừng rằng: "Chung-quân 28, Lục-Giả 29 không chuyên chiếm tiếng tốt ở ngày xưa".
Ngày tháng 11 năm Chí-Nguyên thứ 18 (1281).
Thơ tặng của Hàn-Lâm Thừa-Chi Vương-Bàn hiệu Lộc-Am
Xe Sài Thượng-thơ lướt viễn-phương,
Đầm rồng hang hổ tợ đường trường.
Đơn thanh rạng vẽ sứ ngoại-quốc,
Chẳng kém Hán-triều Tô 30 với Trương 31
Cung-sơn Lý-Sinh có mưu-trí,
Cầm roi giong ruổi một con đường.
Sao cho ơn chúa khắp vũ-trụ,
Của quý không cần nạp Đế-hương.
Hàn-Lâm Thừa-Chỉ Cao-Đường Diêm-Phục tự Tử-Tịnh 32