16.
Hervé Joncour còn nói lâu lắm . Anh chỉ ngừng khi Nguyên Mộc đưa mắt nhìn chỗ khác và hơi nghiêng người chào anh .
Im lặng .
Bằng tiếng Pháp, hơi kéo lê những nguyên âm, giọng khàn khàn, thật sự của mình . Nguyên Mộc lên tiếng:
- Nếu ông muốn trở lại đây lần nữa, tôi rất vui đón tiếp ông .
Lần đầu tiên, ông ta mỉm cười .
- Trứng ông mua được chẳng có giá trị gì hết . Toàn trứng cá .
Hervé Joncour hạ ánh mắt . Trước mặt anh, tách trà của anh . Anh cầm lên, xoay tròn, xem xét nó như thể anh muốn tìm cái gì đó trên cái đường chỉ viền màu ở mép tách . Khi anh tìm được, anh ấn môi mình lên đó, và uống cạn chén . Rồi anh đặt tách trà xuống trước mặt và nói:
- Tôi biết .
Nguyên Mộc bật cười, tỏ vẻ khoái trá .
- Vì thế mà ông trả bằng vàng giả, phải không ?
- Tôi trả đúng những gì tôi mua .
Nguyên Mộc tỏ vẻ nghiêm nghị trở lại .
- Khi ông rời đây, ông sẽ nhận được những gì ông muốn .
- Khi tôi ra khỏi cái đảo này, toàn mạng, ông sẽ nhận đúng số vàng thuộc phần ông . Tôi hứa danh dự .
Hervé Joncour không chờ câu trả lời . Anh đứng lên, đi lùi vài bước, rồi cúi người chào .
Đôi mắt cô gái cứ nhìn theo mắt anh, hoàn toàn câm nín . Đó là điều cuối cùng anh thấy trước khi ra khỏi gian phòng .
o0o
17.
Sáu ngày sau, ở Cao - Cương, Hervé Joncour lên một chiếc tàu của bọn buôn lậu Hà Lan đưa anh về lại Sabirk . Từ đó anh đi ngược lên, dọc theo biên giới Tàu cho tới hồ Baikal, băng qua bốn ngàn cây số vùng đất Sibérie, vượt rặng núi Oural, đến lại thành Kieve rồi lên tàu lửa đi suốt châu Âu, từ đông sang tây, và như thế sau một cuộc hành trình về nước dài ba tháng, cuối cùng anh đến Pháp . Ngày chủ nhật đầu tiên của tháng tư - vừa kịp giờ dự lễ cả - anh về đến cửa ngõ vào Lavilledieu . Anh dừng chân, tạ ơn Thượng Đế và đi bộ vào thị trấn, đếm từng bước chân để mỗi bước có một tên gọi, để mà không bao giờ quên được bước chân mình .
- Nó ra sao, cái xứ sở ở chân mây cuối trời đó ? Baldabiou hỏi anh .
- Vô hình, vô ảnh .
Người vợ Hélène, anh tặng cho nàng một áo dài bằng lụa nhưng nàng chẳng bao giờ mặc cả, nàng ngượng . Nếu nắm chặt tấm áo đó trong lòng bàn tay, ta có cảm tưởng chẳng nắm gì cả giữa những ngón tay .
o0o
18. Những trứng tằm Hervé Joncour mang từ Nhật về - cả hàng trăm trứng bám trên những phiến vỏ cây dâu - đều tỏ ra hoàn toàn lành mạnh . Năm đó, sự sản xuất tơ lụa trong vùng Lavilledieu đạt kết quả đặc biệt, về số lượng cũng như chất lượng . Hai nhà máy sợi khác được mở thêm, và Baldabiou cho xây một tu viện sát với ngôi nhà thờ nhỏ Sainte - Agnès . Ông muốn xây nó hình tròn, chẳng ai hiểu rõ tại sao, và giao phó dự án này cho một kiến trúc sư người Tây Ban Nha tên là Juan Benitez, khá có tiếng trong lĩnh vực xây quảng trường đấu bò mộng hình tròn .
- Tất nhiên, không đổ cát ở trung tâm tu viện, nhưng một cái vườn . Và nếu có thể được, treo đầu cá heo thay vì đầu bò ong, ở lối ra vào .
- Dạ thưa ông, cá heo ?
- Một loài cái, Benitez, hiểu không ?
Hervé Joncour tính toán sổ sách và biết ra là anh bây giờ giàu có . Anh mua ba chục mẫu tây đất nằm ở phía nam nhà anh, và cặm cụi suốt mấy tháng hè ngồi vẽ kiểu một công viên mà sau này ai đi dạo ở đây sẽ thấy lòng mình tĩnh lặng và thanh thản . Anh tưởng tượng nó sẽ vô hình, vô ảnh như một cõi tận cùng cuối trời cuối đất . Mỗi buổi sáng anh đi bộ đến tận quán Verdun, ngồi nghe những câu chuyện đầu hè cuối ngõ xây ra trong cái thành phố nhỏ này, hay liếc qua những tờ báo đến từ Paris . Buổi tối, anh ngồi rất lâu dưới hiên cổng, bên cạnh người vợ Hélène . Nàng đọc một quyển sách, nghe to và rõ, và anh cảm thấy sung sướng vì anh tự nhủ thầm trên đời này chẳng có được một cái giọng hay hơn giọng nàng .
Anh được ba mươi tuổi vào ngày 4 tháng chín 1862 .
Đời đổ mưa, đời anh, trước mắt anh, cảnh tượng lặng lẽ .
o0o
19. - Em đừng lo sợ gì cả.
Vì Baldabiou đã quyết định như thế, Hervé Joncour lại lên đường đi Nhật vào ngày đầu tiên tháng mười . Anh qua biên giới Pháp gần thành Metz, đi xuyên qua vùng Wurtemberg và vùng Bavière, vào nước Áo, lên thành Vienne rồi thành Budapest bằng tàu lửa, tiếp tục đi đến thành Kiev . Anh cưỡi ngựa băng qua hai ngàn cây số vùng theo cao nguyên Nga, vượt rặng núi Oural, tiến vào Sibérie, mất hết bốn chục ngày nữa anh mới đến được hồ Baikal mà người dân địa phương gọi là: con quỷ . Anh xuôi dòng sông Amour, đi dọc theo biên giới Tàu cho đến bờ Đại Dương, và khi tới đó anh nằm dài mười một ngày ở hải cảng Sabirk chờ đợi một con tàu của bọn buôn lậu Hà Lan đưa anh đến Capo Teraya ở bờ biển phía tây nước Nhật . Đi bộ trên những con đường phụ, anh xuyên qua các tỉnh Thạch Xuyên, Hộ Sơn, Tân Tích, vào sâu trong tỉnh Phúc Đạo và khi đến gần thành phố Bạch Xuyên thì anh tránh nó bằng cách đi vòng về phía đông, rồi chờ suốt hai ngày một người đàn ông mặc đồ đen bịt mắt anh lại và dẫn anh đến ngôi làng của Nguyên Mộc . Khi anh được mở mắt ra, anh thấy mình đứng trước hai người đầy tớ, họ khiêng hành lý cho anh và dẫn anh tới một bìa rừng, chỉ cho anh thấy một con đường mòn rồi bỏ đi . Hervé Joncour bắt đầu bước đi dưới bóng râm của những tàng cây xung quanh anh, cắt thành từng mảnh dưới ánh sáng ban ngày . Anh chỉ ngừng bước khi cây cối bên đường thình lình mở rộng ra, trong một giây phút ngắn ngủi, như một cánh cửa sổ . Một cái hồ hiện ra, chừng ba mươi thước phía dưới . Và bên bờ hồ, anh thấy Nguyên Mộc ngồi xổm trên đất, lưng quay về phía rừng, bên cạnh một người đàn bà mặc áo dài màu cam, tóc dài thả lỏng ngang vai . Ngay lúc Hervé Joncour trông thấy nàng, nàng quay người lại, chậm rãi, trong một khoảnh khắc bắt được ánh mắt của anh .
Đôi mắt nàng không có dáng phương đông, và khuôn mặt nàng là khuôn mặt của một cô gái trẻ .
Hervé Joncour lại bước đi trong những lùm cây dày đặc rồi khi anh ra khỏi đó, anh thấy mình đã đến bên họ . Cách anh vài bước, Nguyên Mộc, một mình, lưng quay về phía rừng, ngồi bất động, mặc đồ đen . Bên cạnh ông, chiếc áo dài màu cam bỏ rơi xuống đất, và hai chiếc dép rơm . Hervé Joncour bước lại gần . Những làn sóng đồng tâm nhỏ xíu đùa nước hồ lên bờ như thể được gởi đến từ một nơi nào xa xăm .
- Ông bạn Pháp của tôi, Nguyên Mộc thầm thì, không quay người lại .
Hai người ngồi bên nhau hàng giờ, khi nói chuyện, khi im miệng . Rồi Nguyên Mộc đứng dậy, và Hervé Joncour đứng lên theo . Bằng một cử chỉ không ai nhận thấy được, trước khi đặt chân lên con đường mòn, anh để rơi một chiếc găng tay xuống bên cạnh chiếc áo dài màu cam bỏ lại bên bờ hồ . Họ về đến ngôi làng thì trời đã tối .
o0o
20.Hervé Joncour là thượng khách của Nguyên Mộc trong bốn ngày . Như thể sống trong cung điện một ông vua . Cả ngôi làng sống cho ông, và không có một hành động nào, trong vũng đời này, mà không có mục đích để bảo vệ ông hay mang lại niềm vui cho ông . Cuộc sống rì rầm, vẫn đọng chậm chạp một cách cố tình, mưu mẹo, giống như một con thú bị vây đón trong hang . Thế giới hình như xa đây hàng thế kỷ .
Hervé Joncour được dành riêng một ngôi nhà và năm người đầy tớ lúc nào cũng đi theo anh, bất cứ nơi nào . Anh ăn uống một mình, dưới bóng mát một cây nở những sắc hoa anh chưa từng thấy bao giờ . Một ngày hai lần, anh được dâng trà nước một cách trịnh trọng . Buổi tối, anh được đưa vào căn phòng lớn nhất nhà, nền lót đá, và anh thuận lòng làm theo nghi thức tắm rửa . Ba người đàn bà có tuổi, mặt đánh một loại phấn trắng nào đó, cho nước chảy trên thân thể anh và kỳ cọ, lau rửa bằng những tấm khăn lụa ấm . Bàn tay các bà rập nhúng nhẹ nhàng . (Chòy ... được tắm cho nữa . Đã nghe !!!)
Buổi sáng ngày thứ hai, Hervé Joncour trông thấy một người đàn ông da trắng đến làng: theo sau là hai xe kéo bốn bánh chất đầy những thùng gỗ lớn . Anh ta người Anh . Đến đây không phải để mua . Đến đây để bán .
- Vũ khí đó ông . Còn ông ?
- Tôi à, tôi mua . Những con tằm .
Họ ăn tối với nhau . Tên người Anh có rất nhiều chuyện để kể: từ tám năm nay anh ta đi đi về về giữa châu Âu và Nhật Bản . Hervé Joncour chỉ nghe và chỉ vào phút chót mới lên tiếng hỏi .
- Ông có biết một người đàn bà, trẻ, người châu Âu, tôi nghĩ thế, da trắng, sống ở đấy ?
Tên Anh tiếp tục ăn, tỉnh queo .
- Không có đàn bà da trắng ở Nhật . Không có lấy được một người đàn bà da trắng nào trong khắp nước Nhật .
Tên Anh ra đi ngày hôm sau, túi nặng vàng .