CHỈ sau năm ngày chiến đấu, cánh cửa phía bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã mở toang.
Qua những tập hồi ký của một số tướng tá Pháp các tác giả tỏ ra ngỡ ngàng trước sự sụp đổ nhanh chóng của hai trung tâm mạnh nhất tập đoàn cứ điểm. Lănggơle viết: "Không hiểu vì lý do gì mà các cứ điểm ngoại vi Bêatơrixơ và Gabơrien bị tiêu diệt trong vòng 6 -12 giờ. Các cứ điểm này được bảo vệ bằng một dải phòng ngự phụ rộng, tổ chức hỏa lực bắn chặn tốt, do các đơn vị thiện chiến giữ và được chỉ huy hoàn hảo". Từ Thủ tướng Pháp Lanien đến Nava, Cônhi đều khuyển sang "thái độ bi quan sâu sắc". Nava than phiền: "Tổn thất của chúng ta là nặng nề và chúng ta đã tiêu phí một số rất lớn vũ khí, dự trữ của chúng ta đã bị xuống rất thấp, cần phải nhiều thời gian mới bổ sung được". Cônhi thú nhận với một số nhà báo: "Điện Biên Phủ quả là một cái bẫy, nhưng không phải là cái bẫy với Việt Minh nữa, mà đã thành một cái bẫy đối với chúng ta".Vì sao kẻ thù nhanh chóng thay đổi thái độ như vậy!
Trận đánh mới bật đầu. Ta chỉ mới tiêu diệt được 6 trong số 49 cứ điểm tại Mường Thanh. Những tổn thất về người cũng như về vũ khí của tập đoàn cứ điểm đã được bù đắp ngay sau đó. Nguyên nhân chính là do đợt chiến đấu đầu tiên của ta đã làm bộc lộ những nhược điểm khó khắc phục của con nhận Điện Biên Phủ. Những trung tâm đề kháng mạnh nhất không đứng vững trong các cuộc tiến công. Lực lượng phản kích không thể giành lại những vị trí đã mất. pháo binh địch tỏ ra bất lực trước pháo binh ta. đặc biệt, chỗ dựa của tập đoàn cứ điểm là sân bay đã bị uy hiếp nghiêm trọng.
Sân bay bị uy hiếp đặt ra cho bộ chỉ huy Pháp hàng loạt vấn đề nan giải mang tinh lâu dài. Con nhím Điện Biên Phủ đã mất đi một sức mạnh quan trọng là lực lượng không quân tại chỗ. Nhưng điều còn nguy hiểm hơn nhiều là từ nay sẽ không còn khả năng đưa bộ binh lên đây. Cách duy nhất để tăng cường cho Điện Biên Phủ là dùng những đơn vị dù. Binh chủng này rất hiếm hoi trong đội quân viễn chinh. Cũng không còn khả năng di chuyển thương binh. Cả tập đoàn cứ điểm chỉ có một trạm phẫu thuật với 40 giường! Số thương binh đã lên tới hàng trăm, nay mai sẽ nhanh chóng tăng lên hàng ngàn! Không thể bảo đảm việt tiếp tế lâu dài cho một đội quân 12.000 người chỉ bằng thả dù ở một khu vực vùng trời cũng như các bãi thả dù đã bị cao xạ và pháo mặt đất của đối phương khống chế... Đây chính là cơn ác mộng đối với bộ chỉ huy Pháp.
Mới chưa hết ba ngày chiến đấu, con nhận Điện Biên Phủ đã tiêu thụ một số lượng đạn dược khổng lồ: 12.600 viên đại bác 105, 10.000 viên đạn cối 120, 3.000 viên đạn trọng pháo 155, chiếm gần nửa số lượng dự trữ. Một nửa số súng cối 120 ly bị phá hủy hoàn toàn, và 4 khẩu đại bác 105, 155 ly hỏng cần được thay thế. Nhưng con nhím Điện Biên Phủ lúc này không chỉ cần có đạn dược và lương thực.
Ngay sau ngày nổ súng đầu tiên, bộ chỉ huy Pháp đã phải tăng cường cho Idaben (Hồng Cúm) một trạm phẫu thuật, và mười lít máu tươi mà viên bác sĩ trưởng khẩn thiết yêu cầu. Và ba ngày sau, lại phải bổ sung thêm một trạm phẫu thuật thứ ba; trạm này được bố trí bên tả ngạn sông Nậm Rộm, vì những binh lính bị thương tại phía đông không thể vượt qua cầu về khu trung tâm dưới hỏa lực đại bác. Bộ chỉ huy Pháp thừa khôn ngoan để hiểu: những người lính sẽ không thể tiếp tục chiến đấu nếu thấy những đồng đội bị thương không được cứu chữa.
Ngày 16, Cônhi ném tiếp xuống Mương Thanh tiểu đoàn dù tăng viện thứ hai. Đây là tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 (6è BPC) do Bi gia chỉ huy. Nó cũng tới đây lần thứ hai. Sau khi tham gia cuộc hành binh Castor, nó được ném vào những trận đánh ở Hạ Lào rồi lại chuyển về Cát Bi làm lực lượng dù dự bị. Tại đây nó đã thất bại trong trận đánh đêm với lực lượng đột nhập sân bay, để mười máy bay B.26 và máy bay trinh sát bị phá hủy. Sự có mặt của tiểu đoàn dù 6 đã mang lại một chút phấn chấn cho quân đồn trú.
Đờ Cát điện cho Cônhi số phận Điện Biên Phủ có thể được định đoạt trong những ngày sắp tới, cần thường xuyên dành cho mình một tiểu đoàn dù dự bị. Cônhi nhanh chóng trả lời không giấu giếm: ở Bắc Bộ chỉ còn một tiểu đoàn dù, và trên toàn Đông Dương cũng chỉ còn hai tiểu đoàn dù !
Tinh thần binh lính của tập đoàn cứ điểm sa sút đáng kể. Kenlê (Keller), viên trung tá tham mưu trưởng của Đờ Cát, mất tinh thần, từ chối làm việc, chọn một căn hầm vững chải, úp chiến mũ sắt lên mặt, ngồi suốt ngày không nói năng gì. Đờ Cát phải báo cáo Cônhi và yêu cấu triệu hồi y với lý do Hà Nội "gọi về họp". Nhiều lính lê dương thoát chết ở Him Lam bổ sung về các đơn vị từ chối tiếp tục chiến đấu, thậm chí một số bỗng dưng biến mất ! Có thể họ đã chạy sang hàng ngũ đối phương, cũng có thể họ đã trở thành những "con chuột Nậm Rốm”.
Nhiệm vụ chiến đấu đợt 1 đã được cán bộ và chiến sĩ ta hoàn thành với tinh thần quyết chiến quyết thắng dành cho một trận đánh lịch sử. Quyết tâm giành thắng lợi đã thấm tới từng người. Trận đánh là sự giải tỏa tinh thần chiến đấu sau thời gian dài bị dồn nén vì chờ đợi Không thể kể hết sự dũng cảm, chủ động, sáng tạo của từng người. Thành công của đợt 1 cũng chứng tỏ .ta đã tìm ra cách đánh đúng, nên mặc dù kẻ thù hết sức đề phòng, vẫn không tránh khỏi bị tiêu diệt. Chính kẻ địch đã phải công nhận những chiến thắng này là "do đối phương dũng cảm, có ý chí và quyết tâm cao... áp dụng một chiến thuật hoàn hảo, chính xác". Đợt tiến công mở màn đã giáng một đòn chí tử vào hy vọng giành chiến thắng ở điện Biên Phủ của nhà cầm quyền và giới quân sự Pháp.
Ngày 17 tháng 3 năm 1954, Bộ chỉ huy chiến dịch tổ chức hội nghị sơ kết đợt 1 tại sở chỉ huy Mường Phăng.
Tôi đã trình bày một bản sơ kết, và nhấn mạnh: "hai trận chiến đấu vừa qua là hai trận đầu của một chiến dịch lịch sử, là hai trận đầu đánh vào một tập đoàn cứ điểm của địch, là hai trận công kiên lớn nhất từ trước đến nay, là hai trận đánh theo lối chính quy. Đánh thắng hai trận đó, chúng ta dã thu được thắng lợi lớn, quân địch đã bị thất bại nặng, nhưng lực lượng của chúng còn mạnh và chúng còn ra sức đối phó. Chúng ta cần phải có một nhận thức đúng đối với tương quan lực lượng giữa địch và ta, giữ vững quyết tâm trong những cuộc chiến đấu gay go sắp tới".
Địch đã nhanh chóng bù đập những thiệt hại về người và vũ khí trong mấy ngày qua.
Phía trước chúng ta lúc này là khu trung tâm của địch với hơn một vạn quân, nằm trên dãy đồi phía đông và ken nhặt với nhau trên cánh đồng hai bên bờ sông Nậm Rộm. Hơn ba mươi cứ điểm ở đây được chia thành 4 trung tâm đề kháng mang tên những cô gái: Huy ghét, Clôđin, Êlian, Đôminích. Mỗi trung tâm đề kháng gồm nhiều cứ điểm. Huy ghét và Clôđin gồm khoang hai chụt cứ điểm ở phía tây, nằm trên cánh đồng bằng phẳng bên hữu ngạn sông Nậm Rộm. Êlian và Đôminích ở phía đông, gồm hơn một chục cứ điểm tiếp giáp nhau bên tả ngạn sông Nậm Rộm, có những cao điểm lợi hại kiểm soát toàn bộ trận địa khu trung tâm. Trong số các cao điểm này, Êlian 2 (ta gọi là đồi A1) giữ vai trò đặc biệt quan trọng, vì nó khống chế một phạm vi khá rộng gồm cả khu vực sở chỉ huy của Đờ Cát và hai thiếc cầu trên sông Nậm Rộm.
Tại Mường Thanh, địch chiếm tất cả những điểm cao quan trọng. Chung đã xây dựng trận địa hầm hào vững chắc. Đây lại là địa hình quân địch có thể phát huy tối đa ưu thế về không quân, chiến xa và pháo binh kết hợp với những đợt phản kích của lực lượng cơ động thiện chiến. Địch sẽ khai thác những nhược điểm của bộ đội ta khi chiến đấu trên địa hình thiếu chỗ ẩn náu, khi chiến đấu ban ngày... Đây chính là thế trận quân địch đã bày sắn để chờ ta trên chiến trường do chúng lựa chọn.
Mở đầu trận đánh, ta đã tập trung ưu thế binh lực tiêu diệt một số trung tâm đề kháng đột xuất để phá vỡ một cánh cửa của tập đoàn cứ điểm, lúc này đứng trước khu vực tập trung sức mạnh chủ yếu của địch, ta phải vận dụng một cách đánh khác thích hợp, nằm trong yêu cầu tổng thể: tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Sự tiêu hao binh lực của ta trong đợt đầu không lớn, có thể được bù đắp nhanh chóng; nhìn chung các đơn vị vẫn sung sức, chưa kể là tinh thần còn được nâng lên sau những chiến thắng vừa qua. Nhưng với tương quan lực lượng hiện nay, con nhím Điện Biên Phủ còn quá mạnh. Cần phải làm cho nó suy yếu trước khi bắt đầu trận quyết định.
Đảng ủy Mặt trận đề ra ba nhiệm vụ cụ thể nhằm chuẩn bị cho đợt tiến công thứ hai:
1. Phải nhanh chóng tiếp cận, bao vây địch bằng cách xây dựng trận địa tiến công và bao vây quân địch khắp các mặt đông, tây, nam, bắe, trong cự ly có hiệu quả của tất cả các loại súng lớn, nhỏ của ta, đồng thời chia cât phân khu Hồng Cúm với khu trung tâm.
2. Tiếp tục đánh "bóc" thêm một số cứ điểm ở ngoài "vỏ" tập đoàn cứ điểm, theo nguyên tắc phải bảo đảm chắc thắng.
3. Phải khống chế sân bay của địch cho hiệu quả; chuẩn bị đánh địch phản kích; tăng cường những hoạt động nhỏ, tiêu hao, quấy rối quân địeh.
Trong những nhiệm vụ trên, việc xây dựng trận địa tiến công và bao vây là quan trọng bậc nhất.
Tại cuộc họp lần này, Bộ chỉ huy Mặt trận quyết định trao cờ "Quyết chiến Quyết thắng", phần thưởng luân lưu của Bác Hồ trong chiến .dịch, cho đại đoàn 351.
Đại đoàn trao lại lá cờ cho đại đội lựu pháo 806, đơn vị đã bắn những phát pháo đầu tiên vào Him Lam mở màn chiến dịch lịch sử.
Chúng ta dự kiến chiến dịch sẽ gồm ba đợt. Đợt thứ nhất đã hoàn thành. Ta đang bước vào đợt thứ hai, siết vòng vây trận địa chiến hào, tiêu diệt và tiêu hao quân địch, thu hẹp phạm vi chiếm đóng, làm cho kẻ địch suy yếu dần. Đợt này sẽ dài nhất, mang tính quyết định. Và đợt cuối cùng là tổng công kích để giành toàn thắng.
Thời gian dành cho việc xây dựng trận địa bao vây 1 và tiến công trong đợt 2 là 10 ngày. Những tuyến chiến hào vạch ra trên bản đồ ước tính dài khoảng 100 kilômét. Và chắc sẽ không dừng lại ở con số này. Việc xây dựng trận địa sẽ còn phải tiếp tục trong suốt quá trình chiến đấu.
Dựa trên những yêu cầu về chiến thuật, chúng ta thấy cần có hai loại đường hào: đường hào trục dùng cho việc cơ động pháo, vận chuyển thương binh, điều động bộ đội lớn; đường hào tiếp cận địch của bộ binh. Đường hào trục sẽ chạy một đường vòng rộng bao quanh toàn bộ trận địa địch ở phân khu trung tâm. Đường hào bộ binh sẽ chạy từ những vị trí trú quân của các đơn vị trong rừng đổ ra cánh đồng, cắt ngang đường hào trục, tiến vào những vị trí địch mà ta định tiêu diệt. Các loại đường hào đều có chiều sâu 1,7 mét, không quá rộng để bảo đảm an toàn trước bom đạn địch, YÀ giữ bí mật cho bộ đội khi di chuyển. Đáy hào bộ binh rộng 0,5 mét, đáy hào trục rộng 1,2 mét. Dọn đường hào bộ binh có hố phòng pháo, hầm trú ẩn, chiến hào và ụ súng để đối phó với những cuộc tiến công. Việc xây dựng trận địa phải tiến hành ban đêm, làm tới đâu ngụy trang tới đó, và triển khai cùng một lúc trên toàn thể mặt trận để phân tán sự chống phá của địch.
Đại đoàn 308 phụ trách phía tây, các đại đoàn 312 và 316 phụ trách phía đông. Trận địa phía tây và phl a đông gặp nhau một đầu ở đồi Độc lập, một đầu ở bản Cò Mị, kết hợp thành một đường vòng rộng ôm lấy cánh đồng Mường Thanh. Trung đoàn 57 của 304, đưởc tăng cường một tiểu đoàn của 316, có nhiệm vụ xây dựng một trận địa hình ảnh cung, chạy từ đông sang tây, cật rờ phân khu Hồng Cúm khỏi khu trung tâm Mường Thanh.
Theo mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, nhiệm vụ xây dựng trận địa tiến công và bao vây được quy định cụ thể như sau:
Đại đoàn 308, xây dựng đường giao thông hào trục từ nam vị trí Đồi Độc lập qua Bản Kéo Pc Noi, Nậm Bó, Bản Mé, bản Cò Mị tới sông Nậm Rôm, và đường hào trục từ Pc Nói vào vị trí tập kết của bộ đội phía tây Mường Thanh. Làm trận địa tiến công để chuẩn bị công kích vị trí 106 (cứ điểm Huguette 7 nằm trong trung tâm đề khảng Huguette bảo vệ sân bay): .
Đại đoàn 312, xây dựng đường hào trục từ nam vị trí Đồi Độc lập nối liền với đường hào trục của đại đoàn 308, qua Him Lam, Long Bua nối hến với đường hào trục của đại đoàn 316. Làm trận địa tiến công, chuẩn bị công kích các cao điểm D, E (Dominique 2, Dominique 1, thuộc trung tâm đề kháng Dominique ở phía đông) và cứ điểm 105 (Huguette 6, thuộc trung tâm đề kháng Huguette bảo vệ sân bay).
ĐẠI đoàn 316, xây dựng đường giao thông hào trục từ Long Bua nối liền với giao thông hào trục của đại đoàn 312, đi qua Bản Bánh, Bản Ten tới sông Nậm Rộm ngang bản Cò Mị, nối liền với giao thông hào trục của đại đoàn 308. Làm trận địa tiến công các cao điểm A1 và C1 (Eliane 2 và Eliane 1, thuộc trung tâm đề kháng Eliane ở phía đông).
Trước đợt 1 chiến dịch, bộ đội ta đã tiến hành xây dựng trận địa. Nhưng quy mó lần này rộng lớn hơn rất nhiều. Các đơn vị đều tiến hành một đợt học tập quán triệt nhiệm vụ tới toàn bộ cán bộ, chiến sĩ, dự kiến mọi khó khăn, xác định xây dựng trận địa lần này sẽ là một cuộc chiến đấu thực sự.
Phải có một thời gian biểu hoàn toàn mới cho bộ đội.
Buổi sáng, là giờ ngủ. Khoảng cách sau bữa cơm trưa với bữa cơm chiều là thời gian chuẩn bị vật liệu xây dựng trận địa, lên rừng đốn gỗ, chặt lá ngụy trang. Sau bữa cơm thiu, từ nơi trú quân tiến ra cánh đồng. Suốt đêm là thời gian đào trận địa. Bộ đội phải lao động cật lực tử 14 tới 18 tiếng mỗi ngày. Những đêm giá rét, đào trận địa mồ hôi vẫn tuôn chảy. Gặp những chỗ đất rắn hay nhiều sỏi đá, bàn tay các chiến sĩ phồng rộp, rớm máu.
Nhưng khổ nhất vẫn là khi gặp ruộng lầy. Mọi người phải ngụp trong bể bùn, dùng tay, dùng xẻng, mũ sắt, có lúc cả áo mưa để đựng bùn đổ đi. Sau đó, lại phải đóng cọc thèn phên hai bên thanh hào phòng sụt lở. Những đêm mưa, ở nơi đất trũng, nước đổ vào đường hào, mọi người bì bõm giữa bùn nước. Nước mưa chảy tràn trên mặt, nhưng vẫn không ai ngừng tay.
Sau khi nghe báo cáo về tình hình xây dựng trận địa, ngày 20 tháng 3 năm 1954, tôi viết một bức thư gửi bộ đội:
" Tôi được báo cáo các đồng chí đã làm trận đia mấy ngày liền lại phải chiến đấu, rồi lại phải liên tục bắt tay vào làm trận địa, như thế có đồng chí mệt nhọc.
Nhưng ta mệt nhọc thì cần phải nhớ rằng quân địch ở Điện Biên Phủ còn căng thẳng mệt nhọc hơn ta, thương binh không có hầm mà nằm, không đủ thuốc dể chữa, công sự một phần bị sụp một phần bị rung chuyển, tiếp tế không đầy đủ, thỉnh thoảng lại ăn một quả đại bác của ta, lại thêm thương vong.
Như vậy chúng ta nên nghỉ ngơi để cho kẻ địch có thì giờ mà nghỉ ngơi chấn chỉnh, có thì giờ mà tăng viện, mà thả dù tiếp tê, mà phát huy hiệu lực pháo binh và không quân của chúng, hay chúng ta là chiến sĩ của Quân đội nhân dân, là đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam, lúc này phải nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, chịu mỏi mệt hơn một phần để gây thêm mười phần mệt mỏi và khó khăn cho địch. Giữa hai con dường đó, nên đi con đường nào. Tôi chắc các đồng chí đều đồng thanh trả lời nên phát huy truyền thống chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, chiến đấu anh dũng của quân đội ta để liên tục làm trận địa, liên tục chiến đấu với địch..."
Khi đường hào đã kéo dài hàng chục kilômét trên cánh đồng thì không còn cách nào ngụy trang để chc mắt quân địch, mỗi tấc đất chiến hào bắt đầu phải trả bằng máu. Pháo địch bắn suốt đêm vào những đường hào mà chúng đã phát hiện ban ngày. Máy bay liên tiếp thả đèn dù phát hiện những mục tiêu mới cho những trận oanh tạc. Địch ném bom napan, bom 1.000 pound xuống trận địa. Ban ngày, địch đưa quân ra những trận địa ở gần, đánh bật bộ phận canh gác, san lấp những đoạn hào, gài mìn ngăn bộ đội ta đào tiếp.
Trước nguy cơ con đường hành lang giữa Hồng Cúm và khu trung tâm bị cắt, tập đoàn cứ điểm tách làm đôi, Đờ Cát đưa tiểu đoàn lê dương dù số 1 và xe tăng ra phản kích nhưng không đánh bật được chốt của trung đoàn 57. Ngày 27 tháng 3, Đờ Cát quyết định trao cho Bigia làm việc này, đồng thời loại trừ một đơn vị pháo cao xạ mới xuất hiện ở phía tây.
Bigia đã rời khỏi tiểu đoàn dù 6, trở thành phó của Lănggơle chỉ huy khu trung tâm, đặc trách lực lượng phản kích. Bigia quyết định sử dụng một lực lượng thật mạnh gồm những tiểu đoàn khá nhất vào nhiệm vụ. Đó là tiểu đoàn dù xung kích 8 của Tua rê, tiểu đoàn dù lê dương 1 của Ghirô (Guiraud), tiểu đoàn dù lê dương 6 của Tômát (Thomas, người thay Bigia), tiểu đoàn bộ binh lê dương số 2 của Clêmăngxông (C émencon) và đại đội xe tăng của Hécvuê (Hervouet). Cả viên đại tá Vayăng (Vaillant), chỉ huy pháo binh thay Pirốt, thiếu tá không quân Ghêranh (Guérin) cũng được huy động. Toàn bộ lực lượng tương đương với năm tiểu đoàn.
Bigia biết có một trung đoàn của 308 ở hướng này, mà y tương lầm là trung đoàn 36, cho rằng cuộc hành binh chỉ có thể thành công nếu giữ được bất ngờ. Theo kế hoạch, trận đánh sẽ bất thần mở đầu bằng một loạt pháo cấp tập thật trúng mục tiêu. 12 khẩu pháo 105, 2 khẩu 155, 12 khẩu cối 120 ly sẽ làm việc này từ 6 giờ ngày 28 tháng 8. Binh lính dù, lê dương và xe tăng khai thác tình trạng hỗn độn của địch do Pháo gây ra, nhanh chóng tiến công. 6 giờ 30, không quân oanh tạc trận địa ngăn không cho viện binh đối phương tiếp cận. Sẽ lập tức rút lui trước khi kẻ địch chỉnh pháo bắn vào khu vực. Bigia đã nhận thấy một nhược điểm của pháo binh ta là các khẩu đội đều bố trí phân tán trong hầm sâu, phải mất nhiều thời gian khi chuyển sang một mục tiêu mới.
Sáng ngày 28, một đơn vị của trung đoàn 102 ở Pe Luông được lệnh di chuyển bàn giao lại trận địa cho trung đoàn 88. Trung đoàn 88 đưa đại đội 229 của tiểu đoàn 322 ra phòng ngự ban ngày đề phòng quân địch phản kích. Sương mù còn dày đặc. Cán bộ đại đội đi xem xét chiến hào, đặt kế hoạch tác chiến, điều chỉnh lại các Ổ súng máy.
Trung đội 8 bố trí ở tuyến tiền duyên đang sửa sang lại các hầm hố chiến đấu thì đột nhiên tiếng súng máy nổ ran. Từ trong màn sương, quán địch hiện ra rất đông, vừa la hét vừa xông tới.
Thấy trời nhiều sương mù, máy bay không thể hoạt động đúng giờ quy định, Bigia thay đổi kế hoạch, cho xe tăng cùng với tiểu đoàn dù lê dương 1 dừng lại phía sau làm lực lượng dự bị, chưa sử dụng pháo binh, đưa ba tiểu đoàn dù và lê dương bí mật đột kích vào trận địa của ta.
Trung đội 8 phải đối phó với cuộc xung phong của tiểu đoàn dù 6. Các chiến sĩ mặc dù đứng chân chưa vững tại trận địa, đã lập tức nổ súng đánh trả, quật ngã những tên địch đang xông tới. Hỏa lực của ta khá mạnh bắt tiểu đoàn dù 6 phải dán mình trên mặt đất. Bigia buộc phải trở lại kế hoạch cũ. Pháo ở Mường Thanh bắn dữ dội rồi xe tăng tiến lên mở đường. Xe tăng tràn qua trận địa chia cắt trung đội. Những tên lính dù bám theo xe tăng chia thành nhiều toán nhảy xuống chiến hào.
Các chiến sĩ kiên quyết không rời trận địa, chụm lại ở một ngã ba chiến hào bố trí trung liên, tiểu liên thành một vòng tròn, mặc cho những chiếc xe tăng vượt qua, nhắm những tên lính dù nổ súng.
Cùng lúc đó, trận địa phòng không trống trải của đại đoàn ở phía sau cũng nằm dưới hỏa lực liên thanh và đạn pháo của xe tăng. Những người linh phòng không chỉ được trang bị trọng liên bắn máy bay, giờ phải dùng vũ khí của mình chiến đấu với xe tăng và bộ binh địch.
Đại đội trưởng Quỳ và chính trị viên Phú của đơn vị phòng không hạ lệnh cho tất cả xạ thủ hạ thấp nòng súng máy cao xạ nhắm vào những chiến xe tăng và bộ binh địch. Nòng súng đỏ rực ngăn chặn hiệu quả những chiếc xe tăng. Nhưng rồi đạn bắt đầu cạn và hết hẳn. Đại đội trưởng và chính trị viên đều bị thương nặng. Xích xe tăng chà lên chiến hào và ụ súng. Các chiến sĩ, kể cả những người đã bị thương, giật dây lựu đạn chờ xì khói rồi mới ném thẳng vào quân địch. Cuối cùng, lựu đạn cũng hết. Các chiến sĩ dùng búa -đanh, kìm, lắc lê, chân súng gãy... lăn xả vào quân địch đánh giáp lá cà Cuộc chiến đấu không cân sức kéo dài tới 2 giờ chiều.
Trận đánh diễn ra hoàn toàn bất ngờ. Đại bộ phận tiểu đoàn 322 sau một đêm đào trận địa mệt mỏi đang nghỉ ở hậu cứ, khi có người từ trận địa chạy về báo tin, mới vận động tiến ra phản kích với sự trợ lực của súng cối 120 ly. Bộ đội ta xung phong đánh bật dần quân địch khỏi chiến hào trục. Thấy quân ta kéo tới đông, Bigia lập tức ra lệnh rút lui. Trên trận địa cao xạ, từ những ụ súng, hầm đạn nhô lên một số chiến sĩ quần áo nhuốm đầy máu, trong tay chỉ có những dụng cụ sửa chữa pháo dùng làm vũ khí chiến đấu. Tại trận địa của trung đội 8 ở tiền duyên, mọi người tìm được hai chiến sĩ Nguyễn Hoảng Phương và Bùi Minh đức. Phương là y tá, đã bị thương gãy cả hai tay. Đức là chiến sĩ, một thiếu sinh quân mười bảy tuổi vừa vào bộ đội, bị thương cả hai mắt không còn nhìn thấy gì. Trong những giờ qua, hai người đâ dựa vào nhau tiếp tục chiến đấu.. Phương quan sát mục tiêu, Đức dùng tay bóp cò súng. Vừa lúc các đồng đội tới thì Phương thở hơi cuối cùng. Sau trận đánh, Đức được quân y hết lòng điều trị, giữ lại được một con mắt.
Trận phản kích của Bigia được quân viễn chinh coi là thắng lợi, một chiến thắng hầu như duy nhất tại Điện Biên Phủ trong suốt thời gian này, nhưng đã cướp đi gần một trăm tên chết và bị thương, trong đó có năm sĩ quan Nếu cộng với số thiệt hại trước đó trong tuần thứ hai lắng dịu sau đợt tiến công phân khu bâe, quân địch đã mất thêm tổng số 522 người, gan tương đương với một tiểu đoàn Đây là trận phản kích lớn cuối cùng của địch ở Điện Biên Phủ trước khi cuộc tiến công đợt 2 bắt đầu.
Địch đã sử dụng sức mạnh tối đa của bom, đạn và các đơn vị phản kích ngăn cản công việc xây dựng trận địa của chúng ta. Nhưng mỗi ngày qua, các đường hào lại kéo dài thêm. Phân khu nam Hồng Cúm đã hoàn toàn bị cắt khỏi khu trung tâm. Để bảo vệ trận địa, các đơn vị bộ binh đã chuyển tử nơi trú quân ra ở ngay tại những đường hào mới đào xong. Không riêng bộ binh xây dựng trận địa chiến hào để tiếp cận quân địch, một số đơn vị lựu pháo cũng rời bỏ những căn hầm rất vững chắc và "tiện nghi" của mình trên các dãy núi Tà Lắng, Pú Hồng Mèo, tới những vị trí mới ở gần mục tiêu hun, chuẩn bị cho đợt tiến công sắp tới. Đại đội lựu pháo 804 chiếm lĩnh vị trí sát Him Lam. Hai đại đội lựu pháo 801, 802 chuyển pháo từ phía đông sang trận địa mới ở phía tây, nằm ngay sau Bản Kéo. Ờ phía đông - nam, đại đội lựu pháo 805 cũng cơ động từ trên núi Pú Hồng Mèo xuống gần Hồng Cúm.
Nava đã lập tức có mặt ở Hà Nội sau trận Him Lam. Không khí bi quan tràn lan sở chỉ huy. Khắp nơi tiếng xì xào: "Số phận Điện Biên Phủ đã được quyết định". Cônhi chuyển cho Nava những bức điện của Đờ Cát gửi về đầy giọng điệu bi quan. Ngoài việc ném thêm cho Đờ Cát hai tiểu đoàn dù và cố gắng bảo đảm việc tiếp-tế lương thực, đạn dược hàng ngày, Cônhi không biết làm gì hơn. Tình hình Điện Biên Phủ đã trở nên bế tắc. Cônhi chỉ còn khuyên Đờ Cát cố cầm cự đến mùa mưa, thời tiết sẽ buộc đối phương phải đình hoãn cuộc tiến công. Để động viên binh đoàn đồn trú, Cônhi tới "thăm" bằng cách dùng máy bay lượn trên tập đoàn cứ điểm ngoài tầm với của pháo cao xạ, nói những lời khích lệ qua vô tuyến điện. Và Nava lúc này cũng không biết nên làm gì .
Nava cay đắng cho rằng mình đã bị đánh lừa. Cônhi đánh giá sai hoàn toàn những khả năng của đối phương.
Anh ta là pháo thủ mà không biết cả cách sử dụng pháo, để pháo của tập đoàn cứ điểm bị đối phương đè bẹp.
Không quân trong tay anh ta cũng trở thành vô dụng, không hề ngăn cản được đoàn người đông như kiến suốt ngày đêm tiến lên Điện Biên Phủ tiếp tế đủ mọi thứ cho những người đang bao vây. Giá Cônhi biết nghe lời mình tăng thêm cho Điện Biên Phủ từ ba tới năm tiểu đoàn thì trận đánh có cơ may không xảy ra !
Giữa lúc đó Cônhi lại yêu cầu tổng chỉ huy, trong vòng 8 ngày, phải trả về trước cho Bắc Bộ hai trong ba binh đoàn cơ động đã lấy đi cho mặt trận Trung Lào, với lý do để tránh một thảm họa chăng sắp diễn ra ở đồng bằng. Cônhi lập luận rằng ở đồng bằng Bắc Bộ địch có một đại đoàn 320 nguyên vẹn và sáu trung đoàn độc lập, tổng cộng 39 tiểu đoàn cơ động, trong khi mình chỉ có 27 tiểu đoàn cơ động, kể cả lực lượng cơ động của địa phương, mà phần lớn những đơn vị này đều phải phân tán để bảo vệ phòng tuyến Đờ Lát và nhiều sân bay, những chiếc cầu và làng mạc. Nava cho là Cônhi lợi dụng tình hình khó khăn bắt bí mình. Cônhi thiển cận không hiểu rằng nếu thất bại ở Điện Biên Phủ thì átlăng chmh là sự cứu nguy duy nhất trong tình hình bi đát hiện nay.
Nava và Cônhi cùng ở trong thành Hả Nội, người trên gác, người dưới nhà, nhưng không thể trực tiếp nói chuyện với nhau, mọi sự trao đổi đều qua giấy tờ hoặc những viên phụ tá.
Nhà trắng vẫn chưa đánh giá được nhưng gì đang diễn ra ở Điện Biên Phủ. A1xenhao thắc mắc tại sao Đờ Cát để mất các trung tâm đề kháng ở phân khu bác mà không phịu giành lại ! Thủ tướng Pháp Plêven thấy cần thông báo gấp tình hình cho người Mỹ trước khi quá muộn. Ngày 20 tháng 3 năm 1954, Tổng tham mưu trưởng Pháp Êly, một người được coi là có quan hệ tốt với Mỹ, được phái sang Oasinhtơn.
Êly phát biểu công khai: "Pháp không thể thắng được với phương tiện hiện có trong tay" và yêu cầu Mỹ tăng cường giúp đỡ vũ khí, đặc biệt là máy bay ném bom B.26, và can thiệp bằng không quân.
Ngày 22 tháng 3, Ngoại trưởng Mỹ Đa lét vẫn tuyên bố một cách lạc quan "không một lý do nào bác bỏ kế hoạch Nava đã thấy trước thắng lợi".
Trong thời gian ở Mỹ, Êly được gặp Tổng thống Mỹ, làm việc với bộ trưởng Ngoại giao, giám đốc C.I.A, chủ tịch Hội đồng liên quân, và đặc biệt tham dự cả một cuộc họp của Hội đồng tham mưu trưởng Hoa Kỳ vốn không dành cho sĩ quan nước ngoài. Êly đã nói rõ tình hình bế tắc ở Điện Biên Phủ. Những người Mỹ đều chăm chú lắng nghe, nhưng không đưa ra bất cứ lời hứa hẹn nào cụ thể. Êly cố vớt vát bằng cách mô tả sức mạnh ghê gớm của pháo cao xạ do Trung Cộng và Nga Xô đã viện trợ cho Việt Minh ở Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hội đồng liên quân Mỹ Rát pho (Radford) nói xa xôi với Êly:
có thể có được một hành động can thiệp hạn chế trong thời gian nhất định của không lực Hoa Kỳ nhằm loại trừ lực lượng cao xạ của Việt Minh, nếu Hoa Kỳ được chmh phủ Pháp yêu cầu.
Không phải nhà cầm quyền Mỹ thờ ơ với tình hình nguy hiểm ở Điện Biên Phủ. Trong bộ hồi ký "Những năm ở Nhà trắng" (The White House Years), A1xenhao đã viết: "Đầu năm 1951, vấn đề Đông Dương đã được tôi lưu ý đến một cách mạnh mẽ khi tôi làm tư lệnh đồng minh quân đội NATO với tổng hành dinh đóng tại Pa ri". Trong chiến tranh lạnh giữa Tây và Đông, chiến tranh Đông Dương được A1xenhao coi như "một cuộc chiến đấu giữa các lực lượng không cộng sản với chủ nghĩa cộng sản". Để giúp Pháp thực hiện kế hoạch Nava, viện trợ Mỹ đã tăng từ 269 tỷ trọng Pháp lên 420 tỷ, chiếm 75% chi phí chiến tranh ở Đông Dương. A1xenhao đã chỉ thị thành lập một ủy ban dặc biệt gồm thứ trưởng quốc phòng Rô giơ (Roger Kýes), các tham mưu trưởng liên quân, và cục trưởng CIA Len Đa lét (Allen Dulles) để nghiên cứu những biện pháp mới nhằm yểm hộ cho kế hoạch Nava... Nhưng lúc này Mỹ vừa ra khỏi chiến tranh Triều Tiên, nên thấy cần cân nhắc đối với một cuộc phiêu lưu mới ở Đông Dương nếu chưa có chuẩn bị. Sau khi Êly quay về Pa ri thì Mỹ thay đổi thái độ.
Ngày 27 tháng 3 năm 1954, Đa lét đọc ở Niu Oóc một bài diễn văn về đường lối chinh trị của Hoa Kỳ, tuyên bố "muốn ngăn chặn người ta áp đặt chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á cần có một hành động phối hợp. Điều này có thể chứa đựng những nguy cơ nghiêm trọng. Nhưng chúng sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với những nguy cơ mà chúng ta sẽ phải vượt qua trong những năm tới nếu chúng ta không chứng tỏ bằng những quyết định ngay bây giờ". Đa lét còn nhân lại ngày 24 tháng 3, Tổng thống A1xenhao đã tuyên bố Đông Nam A là một "tiên nghiệm quan trọng" cho thế giới tự do.
Đa lét đã được Aixenhao bật đèn lanh cho một hành động ở Đông Dương. Chính quyền Pháp lại có cái để trông nhờ.
Tử sau khi mất phân khu bắc, địch hoàn toàn giữ thế 1 phòng ngự. Những trận phản kích chỉ nhằm ngăn cản không cho trận địa chiến hào của ta tiến vào gần.
Chúng tập trung vào việc tổ chức lại việc phòng thủ ở phân khu trung tâm, củng cố công sự, bố trí thêm vật cản, làm những đường hào nối liền các trung. tâm đề kháng để tránh pháo ta khi cấn di chuyển, yêu cầu Hà Nội tăng viện người, vũ khí. Hy vọng của địch vẫn là lợi dụng ưu thế về địa hình và binh lực, vũ khí tập trung để đánh bại cuộc tiến công của ta như không đã làm được ở Nà Sản. – Địch tăng cường hoạt động của thổ phỉ tại Sơn La để phá hoại hậu phương chiến dịch của ta. Trung tuần tháng Ba, Bộ Tổng tham mưa phải điều trung đoàn 9 từ Phú Thọ lên Sơn La và đưa trung đoàn 176 tánh khỏi đội hình chiến dịch lên Lai Châu tiễu phỉ. Ta diệt và bắt sống 700 tên, thu nhiều súng đạn. Địch vẫn cố bảo vệ sân bay Mường Thanh bằng mọi giá Đường ghi bị đại bác phá hỏng lập tức được chữa lại Việc hạ cánh xuống sân bay Mường Thanh ban ngày không thể tiếp tục. Hệ thống chiếu sáng đã bị pháo ta bắn hỏng. Ban đêm, máy bay hạ cánh theo dấu hiệu duy nhất là những ngọn đèn dầu đặt ở đầu đường băng.
Chúng cần vận chuyển cho binh đoàn đồn trú những thứ tối cần thiết không thể thả bằng dù, và di tản thương binh đã làm cho những căn hầm cứu chữa dưới lòng đất bên bờ sông Nậm Rôm trở nên ngột ngạt. Nhưng do chiến hào của ta đã vào gần, đặc biệt là sự tiếp cận của súng máy phòng không, những cuộc hạ cánh ban đêm trở nên hết sức khó khăn.
Pháo cao xạ của ta đã trở thành nỗi kinh hoàng đối với những viên phi công tước đó vẫn coi khoảng không là nơi tuyệt đối an toàn. Các loại máy bay chiến đấu vận tải, kể cả những siêu pháo đài bay của Hoa Kỳ liên tiếp bị bắn rơi trên bầu trời Điện Biên Phủ.
Béena Phôn gọi đó là "cuộc tàn sát những máy bay" (le massacre des avions). Khôn viết: "Ngày 15, hai chiếc máy bay tiêm kích - ném bom đang được sửa chữa ở Điện Biên Phủ thử chi viện cho Gabơrien đang bị tiến công. Nhưng vừa rời khỏi sân bay nó đã gặp một luồng đạn cao xạ rất dữ dội và rất trúng đính. Cả hai chiếc vội trút bom xuống cánh sân bay khoảng 6-7 kilômét.
Nhưng chiếc thứ nhất vẫn trúng đạn nổ tan trên bầu trời, viên phi công Ali Sahraoui, thuộc phi đội chiến đấu 2122 Languedoc chết ngay. Chiếc thứ hai thoát chết nhưng trong ngày hôm đó, viên phi công thứ hai điều khiển một máy bay ném bom của hạm đội 11 F của hải quân bị chết trong khi bổ nhào thả bom"...
"Chiều 26 tháng 3, một chiếc đakôta do đại úy Bơglin (Boeglin) lái bị bắn hạ ở phía tây Huy ghét, nhưng phi hành đoàn thoát chết. Chiếc máy bay cháy như một ngọn lửa hỏa thiêu khổng lồ trong nhiều giờ. Ngày 17, lúc 7 giờ, đại úy đáctigơ (Dartigues) hạ cánh thành công chiếc đakôta số 267... Sau khi hạ cánh xuống Hà Nội an toàn, anh quay lại chuyến thứ hai thì bị bắn rơi lúc 10 giờ tại phía nam Êlian 3. Phi hành đoàn (7 người) đều chết... 17 giờ 50, một chiếc đakôta trong đội vận tải 2/63 Sénégal đâm đầu xuống đất ở phía tây "Claudine" cháy như một bó đuốc... toàn bộ phi hành đoàn đều chết".
Nếu như thời gian xây dựng trận địa đợt 1 kéo dài hơn một tháng, thì đợt 2 ngắn hơn nhiều. Chỉ sau mười ngày lao động và chiến đấu gian khổ, trận địa tiến công và bao vây của ta đã cơ bản hoàn thành. Trên một trăm kilômét đường hào cùng với hàng vạn hầm hố bao kín trận địa trưng tâm của địch. Những đường hào đặt sân bay và sở chỉ huy Đờ Cát trong tầm bắn súng cối của trung đoài và tiểu đoàn bộ binh ta.
Ta chính thức chấp nhận sự thách thức từ lâu của kẻ thù, chấp nhận một trận đánh "mặt đối mặt".
Bên cạnh tập đoàn cứ điểm cũ của địch đã có một ,tập đoàn cứ điểm" thứ hai, một tập đoàn cứ điểm di động.
Hình thái chiến tranh trận địa bạt đầu xuất hlệ l tại Điện Biên Phủ.
Có những người đã viết về chiến tranh chiến hào là nó thường xuất hiện khi lực lượng đôi bên đối địch không chênh lệch, không thể tiêu diệt nhau, và cũng là lúc họ không còn muộn mở những cuộc tiến công.
Những người lính đôi bờ chiến tuyến đứng nhìn nhau, đôi lúc quên cả ác cảm, và trở thành những người bạn chốc lát. Trong trường hợp của chúng ta không có gì giống như vậy.
Các nhà lý luận quân sự thường cho rằng: kẻ mạnh bao giờ cũng chọn cách tấn công, cũng như kẻ yếu bao giờ cũng chọn cách phòng ngự. Ở đây, Pháp là kẻ mạnh, chúng là quân đội nhà nghề, có trong tay mọi thứ vũ khí hiện đại: không quân, tàu sân bay, xe tăng, pháo 155 ly..., nhưng chúng lại chọn cách phòng ngự!
Không phải kẻ địch mù quáng. Chúng biết với những ưu thế hiện nay chưa thể thắng ta trên chiến trường rừng núi. Với sự lựa chọn này, chiếm những điểm cao khống chế, xây dựng trận địa phòng ngự vững chắc, sức mạnh của chúng sẽ tăng gấp bội... Còn chúng ta là kẻ yếu, về cơ bản chỉ là một quân đội bộ binh đơn thuần, nhưng lại chọn cách tiến công!
Lịch sử đã đưa hai đội quân tới trận đánh quyết định tại một nơi không hẹn trước là Điện Biên Phủ, trên cánh đồng Mường Thanh. Chúng ta đã chọn hình thức tác chiến bằng trận địa bao vây và tiến công.
Cũng là những đường hào, những ụ súng, hầm hố, nhưng trận địa ta và địch có những tính chất hoàn toàn khác biệt. Trận địa địch mang tính phòng ngự tuyệt đối.
Còn trận địa ta mang tính tiến công. Một bên hoàn toàn cố định, một bên vẫn có tmh cơ động. Trận địa của ta không ngừng phát triển. Nó không chỉ là chiến tuyến, cung cấp nơi ẩn náu an toàn của bộ đội. Nó tạo điều kiện cho ta tiếp cận đễ dàng các cứ điểm địch, tung ra những đòn tiến công bất ngờ, cho phép ta đối phó hữu hiệu với những cuộc phản kích, cũng như rút lui an toàn khi cấn kết thúc trận đánh, giúp cho cán bộ, chiến sĩ có những sáng tạo bất ngờ trong quá trình chiến đấu.
Người ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt của trận địa ta và trận địa địch trên chiến trường.
Trận địa địch là những đường hào, hầm hố đỏ quạch, bố trí rất tập trung, khép kín, nằm chết cứng giữa rừng dây thép gai mau chì và bãi mìn, chi chít những chiến dù sặc sỡ. Trận địa ta là một đường hào trục chạy dải ngút tầm mắt bao quanh trận địa địch, không có vật cản, thuần một màu đất đỏ tươi, bên trong có nhiều nhánh vươn về phía trận địa địch, trong quá trình phát triển tự nó lại mọc thêm những nhánh mới. Vòng dây khổng lồ, sinh sôi nhanh chóng này, chính là cái sẽ quyết định số phận của con nhím thép Điện Biên Phủ.
Địch đã phản ứng rất mạnh trước sự phát triển những đường hào, gay gắt hơn cả khi những trung tâm đề kháng của phân khu bậc nối tiếp nhau sụp đổ. Điều đó chứng tỏ chúng ta đang tiến bước trên con đường chiến thắng.
Về sau chúng ta biết, thời gian này, tại sở chỉ huy của Cônhi ở Hà Nội, một số sĩ quan có tuổi khi xem những bức ảnh máy bay chụp hàng ngày về sự phát triển nhanh chóng những chiến hào của ta, đã liên tưởng tới cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất 1914 – 1918 mà họ đã tham dự. HỌ lưu ý Cônhi phải chuẩn bị ngay cho Đờ Cát tư tưởng đối phó với chiến tranh chiến hào (guerre de tranchée). Như họ đã biết, mìn và vũ khí chống mìn là đặc điểm của loại chiến tranh này.
Cônhi ra lệnh ngay cho Đờ Cát chuẩn bị một cuộc chiến bằng chiến hào. Chiều ngày 22 tháng 3, Đờ Cát thông báo bằng điện riêng cho Cônhi là mình không có chuyên gia và cũng không có dụng cụ công binh để tiến hành loại chiến tranh này. Ngày hôm sau, Đờ Cát lại điện yêu cầu Cônhi cung cấp cho mình những nguyên tắc về tổ chức trận địa, làm thành bốn bản, và những tài liệu khác liên quan tới chiến tranh chiến hào. Ngày 23, Cônhi ra lệnh cho Đờ Cát hãy nối tất cả những cứ điểm bằng đường hầm bảo đảm sự liên lạc giữa chúng, đặt mìn, đặt bẫy vào đường hào của đối phương, và dùng lực lượng nhỏ tuần tiễu những đường hào kẻ địch mới đào. Thực ra, Đờ Cát đã làm những việc này với tất cả khả năng của mình, và không có vật liệu phương tiện, kể cả sức lực để làm tiếp những con đường hầm mà Cônhi đã ra lệnh !
- Từ mọi hướng, chiến hào của chúng ta vẫn phát triển một cách vững chắc tới gần trận địa trung tâm của địch.
Theo đúng kế hoạch, nó đã tiến vào những trung tâm đề kháng mục tiêu của đợt tiến công sắp tới. ở phía đông, nó đã vào gần các cao điểm E, D1, C1, A1. ở phía tây, ngày 24 tháng 3, một mũi chiến hào chỉ còn cách hàng rào dây thép gai 106, thuộc cụm cứ điểm trực tiếp bảo vệ sân bay Mường Thanh, 50 mét.
VÒNG Vây trận địa chiến hào hình thành đã khiến kẻ địch không còn khả năng rút lui, cũng như khó đưa thêm một số lớn quân tăng viện. Quân địch đứng trước sự thất bại chắc chắn, vì sớm muộn con đường tiếp tế bằng máy bay cũng bị cắt đứt.
Trận địa chiến hào của ta đã phá vỡ cấu trúc cơ bản của tập đoàn cứ điểm, tách hoàn toàn phân khu Hồng Cúm khỏi khu trung tâm. Từ lúc này Đờ Cát không thể trông chờ sự cứu viện của những tiểu đoàn đóng ở phía nam cánh đồng Mường Thanh.
Nghiên cứu cách bố trí của phân khu trung tâm, chúng ta thấy rõ trận Điện Biên Phủ sẽ được quyết định trên những cao điểm ở phía đông, bên tả ngạn sông Nậm rốm. TẠI đây nổi lên một dãy đồi chạy từ bắc xuống nam, hai bên đường 41 và dọc theo bờ sông. Những trái đồi này khống chế toàn bộ phân khu trung tâm, trong đó có sở chỉ huy Đờ Cát, các trận địa pháo và sân bay. Địch đã tận dụng lợi thế của dãy đồi, tổ chức thành một khu vực phòng ngự then chốt với hai trung tâm đề kháng mạnh là Đôminích và Êlian. Mỗi trung tâm gồm nhiều cứ điểm. Những cứ điểm này một phần nằm trên những quả đồi, một phần nằm dưới cánh đồng bên bờ sông. Nhưng quan trọng hơn cả là những cao điểm. Nếu những cao điểm này bị ta chiếm thì những cứ điểm phía dưới không thể tồn tại, và toàn bộ cát cứ điểm trên cánh đồng bên kia sông Nậm Rộm cũng sẽ bị đc dọa vì hỏa lực bắn thẳng của ta, đặc biệt là pháo binh.
Chủ trương của Đảng ủy Mặt trận trong đợt 2 là tập trung ưu thế binh hỏa lực đánh chiếm đồng thời các cao điểm phía đông. Trong số này, có 5 cao điểm quan trọng. Đó là các cao điểm E, D1 thuộc trung tâm đề kháng Đôminích, và các cao điểm C1, C2, A1 thuộc trung tâm đề kháng Êlian. Đôminích 1 và Đôminích 2 nằm hai bên đường 41 là những cao điểm cao nhất ở phía bắe, khoảng 70 mét so với mặt đất, trực tiếp kiểm soát sân bay và hai trận địa pháo 105 ở dưới phân đồi.
Êlian 2 ở đầu cùng phía nam, thấp hơn, khoảng 40 mét, nhưng lại đặc biệt quan trọng vì ở sát ngay khu trung tâm, rất gần sở chỉ huy của Đờ Cát. Êlian 1 và liên 4 tiếp giáp với Êlian 2 về phía bắc, là những đồi nhỏ thấp, nhưng đều ở sát khu trung tâm. Các cao điểm E, D1, D2, C1, A1 nằm ở vòng ngoài, liền kề với trận địa tiến công của ta. Những cao điểm khác D3, C2... nằm ở phía trong.
Địch đã thấy rõ một đợt tiến công mới của ta đang nhắm vào dãy đồi phía đông qua những mũi chiến hảo.
Sáng ngày 30 tháng 3, Lănggơle tới trực tiếp kiểm tra sự bố phòng ở khu đông. Tại trung tâm đề kháng đômimch có tiểu đoàn 3, trung đoàn 3 Angiêri, một đại đội Thái, 1 đại đội pháo 105. Lănggơle không hài lòng khi nhận thấy sườn bên trái của Đôminích 2 do một đơn vị Thái bảo vệ. Lănggơle quyết định chuyển đơn vị Thái này vào phía trong, đưa . một đại đội Angiêri đóng ở Đôminích 1 sang thay thế, và điều một đại đội của tiểu đoàn dù 5 tới Đôminích 1 điền vào chỗ đại đội được rút đi Tại trung tâm đề kháng Êlian, Lănggơle cảm thấy yên tâm. Tiểu đoàn 1 trung đoàn bộ binh Ma rốc số 4 phòng ngự tại đây với sự hỗ trợ của những tiểu đoàn dù do Bi gia trực tiếp chỉ huy. Lănggơle quyết định tăng cường cho Êlian 2 ở nơi đầu sóng ngọn gió một đại đội của tiểu đoàn lê dương dù 6. Đại bộ phận lực lượng phản kích của tập đoàn cứ điểm, gồm tiểu đoàn dù thuộc địa số 6,. tiểu đoàn dù ngụy số 5, một đại đội của tiểu đoàn dù xung kích số 8, hai đại đội người Thái, và những lực lượng còn lại của tiểu đoàn Thái số 2 khoảng nửa tiểu đoàn, đều được tập trung tại Êlian.
Ngoài ra còn một đại đội công binh. Khi trận đánh nổ ra những đơn vị này sẽ tiến hành phản kích ngay mà không cần vượt qua cầu thường xuyên bị pháo binh địch đc dọa. Lănggơle hài lòng với quyết định của mình, trước khi ra về chỉ thị cho các đơn vị đúng 18 giờ chiều nay phải cho mọi người ăn một bữa cơmn nóng.
Nhiệm vụ đề ra cho đợt tiến công thứ hai là: đánh chiếm các cao điểm phòng ngự phía đông của khu trung tâm, thắt chặt trận địa tiến công và bao vây, khống chế đi đến đánh chiếm sân bay, hạn chế đi tới triệt hẳn đường tiếp tế, tiếp viện của định, tính cực tiêu diệt và tiêu hao sinh lực địch, thu hẹp phạm vi chiếm đóng và vùng trời của chúng, tạo điều kiện chuyển sang tổng công kích. Nếu tình hình phát triển thuận lợi, ta sẽ chiếm đại bộ phận khu đông của địch.
Để tạo điều kiện cho các đơn vị tiến công các cao điểm, ta chủ trương dùng những mũi thọc sâu vào khu đông tập đoàn cứ điểm, đánh trận địa pháo và những đơn vị cơ động nằm bên tả ngạn sông Nậm Rôm, đặt quân địch trên các cao điểm vào thế bị uy hiếp cả trước mặt và sau lưng. Ta dự kiến đợt tiến công thứ hai có tính quyết định đối với chiến dịch.