ĐỀ án Đông Xuân đã được Bộ Chính trị cho ý kiến và thông qua. Bộ Chính trị xác định Tây Bắc là hướng chính. Nhưng lực lượng địch ở Lai Châu ít, nếu chúng không tăng viện, ta sẽ không có điều kiện đánh lớn. Binh lực sử dụng tại đây chỉ cần một đại đoàn. Ta đã trao đổi với các bạn Lào, lực lượng ta sẽ phối hợp với lực lượng bạn và quân tình nguyện giải phóng ngay tỉnh Phông Xa Lỳ ở Thượng Lào. Như vậy, sẽ hình thành ba hướng tiến công lớn: hướng Tây Bác, hướng Trung, Hạ Lào, hướng Tây Nguyên, và hướng phối hợp là trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
Bộ Tổng tham mưu khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Lần đầu, ta có một kế hoạch tác chiến phối hợp trên quy mô hầu hết bán đảo Đông Dương.
Hướng chính Tây Bắc, bước đầu sử dụng đại đoàn 316 tiêu diệt địch ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn khu Tây Bắc; bước thứ hai, phối hợp giữa đại đoàn 316 với trung đoàn 148 của khu Tây Bắc, bộ đội tình nguyện và Quân giải phóng Pa thét Lào giải phóng tỉnh Phông Xa Lỳ. Hướng này do các đồng chí Lê Quảng Ba, Chu Huy Mân, tư lệnh và chính ủy đại đoàn 316 phụ trách.
Hướng Trung và Hạ Lào, lực lượng gồm trung đoàn 66 của 304, trung đoàn 101 của 325, do đồng chí Hoàng Sâm, tư lệnh đại đoàn 304 và đồng chí Trấn Quý Hai, tư lệnh kiêm chính ủy đại đoàn 325 phụ trách, phối hợp với bạn mở rộng vùng giải phóng, đánh thông hành lang Nam - Bậc Đông Dương. Tại đáy sẽ thành lập bộ chỉ huy Mặt trận Trung và Hạ Lào.
Hướng Tây Nguyên, hai trung đoàn 108 và 803, chủ lực của Liên khu 5, do đồng chí Nguyễn Chánh, tư lệnh kiêm chính ủy Liên khu 5 trực tiếp phụ trách, sẽ chiếm bàn đạp bậc Tây Nguyên, phá âm mưu củng các và bình định Nam Việt Nam của địch.
Hướng phối hợp trung du và đồng bằng Bắc Bộ, đại đoàn 320 và các trung đoàn chủ lực của Liên khu 3 sẽ chiến đấu thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, đánh giao thông, phá hủy các phương tiện vận chuyển đường bộ, đường thủy, đường không. Ở khắp các vùng tạm chiếm từ trung du, đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, đến chiến trường Lào và Campuchia sẽ đẩy mạnh chiến tranh du kích buột địch phải căng mỏng lực lượng đối phó với ta.
Khối chủ lực còn lại gồm các đại đoàn 308, 312, 304 (thiếu trung đoàn 66), đại đoàn công pháo 351, trung đoàn 246 bí mật giấu quân tại trung du, sẵn sàng cơ động lên Tây Bắc, và đánh địch tiến công ra vùng tự do.
Riêng đại đoàn 325 (thiếu trung đoàn 101) để lại trung đoàn 18 hoạt động ở Bình - Trị - Thiên, trung đoàn 95 ra Nghệ An chỉnh huấn, làm lực lượng dự bị cho Bộ, sẵn sàng cơ động trên các hướng.
Với kinh nghiệm chiến dịch Thượng Lào mùa Xuân năm nay, tôi tin rằng sự bố trí binh lực của Nava trên chiến trường Đông Dương sẽ bị đảo lộn khi các hoạt động của ta bắt đầu triển khai.
Nhưng Nava đã nhanh chóng ra tay trước.
Ngày 15 tháng 10 năm 1953, địch huy động 22 tiểu đoàn thuộc 6 binh đoàn cơ động, do tướng Gin (Gilles) chỉ huy, mở cuộc hành binh Hải âu (Mouette) đánh ra tây nam Ninh Bình. Các tiểu đoàn được tổ chức thành hai đại đoàn nhẹ, một do Đờ Cátxtơri (Dc Caistries), một do Vanuyxem (Vanuxem) chỉ huy, xuất phát từ Chợ Ghềnh theo đường 59 đánh chiếm Rịa cách đó 25 kilômét. Đờ Cát chia quân chiếm những điểm cao và đóng thành nhiều vị trí liên hoàn tại Rịa đề phòng một cuộc tiến công của ta. Vanuyxem rải quân lập những cứ điểm dọc đường 59. Cũng trong ngày, một cuộc hành binh thứ hai mang tên "Con bồ nông" (Pélican) được hải quân tiến hành tại vùng biển Thanh Hóa. Hàng không mẫu hạm Arômăngsơ (Arromanches) và nhiều tàu chiến, máy bay xuất hiện ngoài khơi. Ngày 16, địch đổ bộ xuống bờ biển Thanh Hóa 500 quân, và tung một bộ phận biệt kích vào đốt phá ở Khoa Trường. Những triệu chứng giống như cuộc tiến công mùa khô của địch đã khởi đầu, với mục tiêu là vùng tự do Liên khu 4.
Từ đầu tháng Mười, địch đã có nhiều hoạt động chiến tranh tâm lý ở Liên khu 4. Máy bay thả giấy thông hành cho những ai muốn trở về vùng tạm chiếm, và dùng loa phóng thanh loan tin quân Pháp sẽ tiến công Thanh Hóa. Tàu chiến địch lảng vảng ngoài khơi. Biệt kích địch xâm nhập vào vùng Rịa - Nho Quan, Ninh Bình. Bộ Tổng tư lệnh dự kiến vào đầu mùa khô địch có thể đánh ra vùng tự do Chi Nê, Nho Quan, điện cho anh Văn Tiến Dũng, tư lệnh kiêm chính ủy đại đoàn 320, sẵn sàng đối phó với cuộc tiến công của giặc Pháp ra vùng tự do Chi Nê, Nho Quan. Trước ngày địch mở cuộc tiến công ta đã phát hiện một số binh đoàn tập kết ở khu vực Ghềnh (Yên MÔ - Ninh Bình) và khu vực Hoàng Đan dọc sông Đáy (Y Yên - Nam Định).
Đại đoàn 820 đã cùng với lực lượng vũ trang địa phương tính cực chuẩn bị chiến đấu. Để có thể vừa hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện vừa sàn sàng chiến đấu, đại đoàn đã bố trí trung đoàn 64 ở vùng Rịa, chờ đánh địch trên đường số 59, trung đoàn 52 ở khu vực thị trấn Nho Quan đánh địch trên đường 59 và đường 12 lên, trung đoàn 48 ở Phố Cát (Thạch Thành - Thanh Hóa) làm lực lượng cơ động. Bộ đội địa phương tỉnh và bốn huyện của Ninh Bình được bổ sung quân số, trang bị thêm vũ khí, bố trí đánh địch trên đường 12, đường 59. Dân quân du kích chuẩn bị những trận địa mai phục khắp các ngả đường lớn, nhỏ quân giặc có thể kéo tới. Các kho vũ khí, thóc gạo trong huyện Nho Quan đã được chuyển đến những địa điểm mới.
Trên địa bàn Liên khu 4 lúc này chúng ta có các đại đoàn 820, 304, và một trung đoàn của 316. Được tin địch đánh ra tây - nam Ninh Bình, các đại đoàn đều náo nức chờ lệnh xuất quân. Nhưng có đúng là địch muốn chiếm đóng Thanh Hóa không? Hay đây là một đòn thăm dò hòng phá kế hoạch ta đang chuẩn bị ? Hoặc chỉ là một hoạt động nhằm gây ảnh hưởng tới cuộc họp Quốc hội Pháp vào hạ tuần tháng Mười sẽ thảo luận về ngân sách chiến tranh Đông Dương, cũng là thời gian Phó tổng thống Mỹ Níchxơn (Richard Nixon) sẽ tới Việt Nam kinh lý...? Trong khi chờ đợi những diễn biến mới ở tây nam Ninh Bình, Bộ Tổng tư lệnh quyết định chỉ sử dụng đại đoàn 320 đang có mặt tại chỗ, đối phó với quân địch, các đại đoàn khác vẫn tiếp tục chỉnh huấn theo kế hoạch.
Sự điều động binh lực lúc này cần hết sức cân nhắc. Kế hoạch Đông Xuân của ta vẫn chưa triển khai. Ta đã nắm được trong mùa khô 1953 - 1954, Nava chủ trương duy trì thế phòng ngự chiến lược tại Bắc Bộ. Rất ít khả năng địch mở rộng phạm vi chiếm đóng ra Liên khu 4. Vì sao địch đột nhiên đưa hầu hết quân cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ ra tây-nam Ninh Bình? Những hoạt động rất đột ngột, nhanh chóng vừa qua chứng tỏ viên tổng chỉ huy mới của quân viễn chinh thính những đòn chớp nhoáng với mục đích thăm dò. Khu vực địch vừa triển khai lực lượng rất gần với phòng tuyến Đờ Lát. Muốn mở một trận đánh lớn ở vùng này, cần phải huy động toàn bộ những đại đoàn chủ lực của ta, và cũng khó giành thắng lợi trên địa hình đồng bằng, giao thông thuận lợi, liền kề với những căn cứ lớn của địch. Và nếu sau nhiều ngày, các đại đoàn ta vận động tới nơi, địch không tiếp nhận chiến đấu, nhanh chóng rút toàn bộ quân cơ động về những vị trí cũ tại đống bằng? Chỉ cần một vài cuộc điều quân vô ích như vậy, lực lượng ta sẽ bị tiêu hao và mùa khô sẽ qua đi!
Ngay từ những ngày đầu, bộ đội địa phương và dân quân du kích các huyện Gia Viễn, Yên Mô, Nho Quan mở liên tiếp những trận đánh nhỏ làm chậm bước tiến của địch. Tranh thủ thời cơ quân địch mới đến chưa kịp củng cố trận địa, đêm ngày 18 rạng ngày 19 tháng 10, hai tiểu đoàn thuộc trung đoàn 64 tập kích các vị trí đồi 94 và 201 diệt gọn 2 đại đội, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội khác. Cùng lúc, ở địch hậu Nam Định, trung đoàn 42, chủ lực của Liên khu 3, cùng các lực lượng vũ trang địa phương tập kích hai vị trí địch ở Văn Lý, Xương Điền, diệt hai tiểu đoàn khinh quân ngụy.
Đài phát thanh của quân viễn chinh rầm rộ tuyên truyền đây là cuộc hành binh "lớn nhất, chưa từng thấy từ thời tướng Lơcléc đến nay" nhằm mục đích "chọc sâu vào vùng căn cứ đối phương, nơi có đại đoàn 320 đóng, cố gắng tiêu diệt phần lớn đại đoàn chủ lực này, đồng thời chặn đứng không cho đại đoàn 304 thâm nhập sâu vào đồng bằng".
Quân địch đổ bộ xuống bờ biển Thanh Hóa và chọc sâu vào Khoa Trưởng đã nhanh chóng rút lui. Quân báo của đại đoàn 320 báo cáo ở tây - nam Ninh Bình, các đơn vị của địch không tiến quá 10 kilômét ngoài tầm kiểm soát của pháo binh. âm mưu của Nava đã lộ rõ. Cuộc hành binh Hải âu ra tây - nam Ninh Bình, chỉ là sự lặp lại cuộc hành binh Hốt tơ Anpơ (Hautes Alpes) của Xalăng hồi mùa Xuân, cũng tại chính khu vực này, nhằm kìm chân hai đại đoàn 320, 304 đang có mặt tại Thanh Hóa. Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị chg đại đoàn 320 tranh thủ cơ hội địch đánh ra mà tiêu diệt chúng bằng cách tập kích, phục kích. Các đại đoàn khác vẫn ở nguyên vị trí tiếp tục học tập quân sự và sẵn sàng lên đường khi có lệnh. Ta tiếp tục chuẩn bị kế hoạch Đông Xuân 1953-1954.
Ngày 21 tháng 10, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra thông báo gửi các cấp ủy nêu rõ mục đích và thủ đoạn tiến công của địch ra vùng tự do Liên khu 3 và Thanh Hóa, chỉ ra cách đối phó của ta là: ở mặt trận chính diện, tạo cơ hội phục kích tiêu diệt địch trong vận động, lợi dụng lúc địch mới đóng quân chưa kịp củng cố mà tập kích tiêu diệt, kết hợp vừa đánh địch vừa bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân đần; ở mặt trận sau lưng địch chuột đồng bằng Bắc Bộ, phải hết sức lợi dụng khi địch sơ hở để mở rộng chiến tranh du kích, kết hợp vừa tác chiến vừa vận động binh linh ngụy.
Sau khi đánh chiếm lại các đồi 94, 201 và chiếm thêm một số điểm cao khoe, sáng ngày 22 tháng 10, quân địch cho bốn tiểu đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn pháo binh và một tiểu đoàn thiết giáp từ Rịa chia làm ba mũi tiến về thị trấn Nho Quan: mũi chính tiến theo đường số 59, một mũi vòng qua phía đông, một mũi vòng qua phía tây. Các trung đoàn 52, 64 của 820 sử dụng một số đơn vị nhỏ phối hợp với dân quân du kích mai phục tại nhiều làng, liên tục chặn đánh tiêu hao nặng quân địch, khiến chúng phải tiến quân rất dè dặt, đến chiều tối mới tới được thị trấn Nho Quan không người. Ngày 24, một cánh quân có 20 xe tăng và xe bọc thép đi kèm, từ Rịa đánh thọc về phía Phủ Đồi - Trại Ngọc. Một đại đội thuộc trung đoàn 48 đã thực hiện một trận phục kích xuất sắc bắn hỏng bẩy xe tăng và xe bọc thép, bốn xe vận tải, loại khỏi vòng chiến đấu gần hai trăm tên địch, bẻ gãy mũi tiến công. Ngày 25 tháng 10, bốn tiểu đoàn bộ binh, bốn tiểu đoàn pháo binh và một tiểu đoàn thiết giáp từ khu vực Ghềnh mở cuộc càn quét về phía Bỉm Sơn - Quý Hương, nơi chúng nghi là căn cứ của 320. Sau ba ngày hành quân lùng sục chung kết quả, sáng ngày 27 tháng 10 quân địch rút lui, bí mật bố trí một tiểu đoàn lê dương và một tiểu đoàn ngụy Thái ở lại hòng phục kích quân ta. Một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 48 bám sát địch suốt mấy ngày qua, lợi dụng lúc địch đang dồn quân lại, đội hình lộn xộn, xông ra tập kích. Bị đánh bất ngờ, quân địch hoảng sợ tháo chạy. Tiểu đoàn cho một bộ phận truy kích về phía Giốc Giàng. Một đại đội của trung đoàn 64 kịp thời đến tăng viện. Máy bay địch bắn cản đường quân ta. Các đơn vị phòng không của đại đoàn nổ súng đánh trả quyết liệt. Sau ba giờ chiến đấu, quán ta tiêu diệt hai tiểu đoàn địch ở khu vực Sòng Cạn - Giốc Giàng, bắn rơi một máy bay khu trục ở Trại Ngọc. Hai trung đội xe tăng từ Rịa tiến vào hòng cứu đồng bọn cũng bị chặn đánh.
Các đơn vị bộ đội chủ lực, địa phương, dân quân du kích của hai quân khu Tả Ngạn, Hữu Ngạn lập tức đẩy mạnh hoạt động ở sau lưng địch, tập kích vào hậu cứ các binh đoàn cơ động, và đánh địch khớp nơi.
Ngày 2 tháng 11, quân Pháp lại tung bảy tiểu đoàn mở cuộc hành quân lên thị trấn Nho Quan lần thứ hai. Đây là một hoạt động để đón chào Phó tổng thống Mỹ Ních-xơn sắp tới thăm mặt trận. Sợ bị ta phục kích như lần trước, chúng tiến rất chậm. Ban đêm, một đại đội chủ lực cùng dân quân du kích tập kích vào vị trí trú quân của địch. Sáng ngày 3, hai tiểu đoàn đi bảo vệ sườn trái của đoàn quân, từ phía chợ Cầu ngoài đường 59 tiến vào Móng Lá bị một tiểu đoàn chủ lực ta phục kích. Mặc dù quân địch có máy bay, pháo binh yểm hộ, sau 45 phút chiến đấu, bộ đội ta diệt gọn hai đại đội, đánh tan một đại đội khác.
Ngày 4 tháng 11 năm 1953, Phó tổng thống Mỹ Níchxơn tới thăm mặt trận, tư lệnh Bắc Bộ Cánh (Ren Cogny) phải rải quân suốt dọn đường số 1, từ thị xã Ninh Bình tới Ghềnh, để bảo đảm an ninh.
Sau hơn 20 ngày, hàng ngàn quân bị loại khỏi vòng chiến đấu mà không gặt hái được gì, Nava buộc phải ra lệnh rút lui.
Theo những nhà sử học phương Tây thì Nava rất lo một cuộc tổng tiến công vào đồng bằng Bắc Bộ, tưởng là nó sắp bắt đầu, nên vội vã đưa quân ra tây - nam Ninh Bình để phá sự chuẩn bị của ta. Yvơ Ra (Yves Gras) đã viết: "Trong những tuần cuối mùa Hạ, một số dấu hiệu và những tin tức nghe trộm khiến cho bộ chỉ huy Pháp tin chắc là Việt Minh sẽ dồn mọi nỗ lực vào đồng bằng Bắc Bộ. Giáp dự định trong thực tế tung ra một cuộc tổng tiến công... Tướng Nava quyết định đánh trước để loại đại đoàn 320 khỏi cuộc chiến đấu trước khi nó tiến vào đồng bằng. Ngày 15 tháng 10, đúng ngày mà đại đoàn này phải khởi đầu việc thâm nhập, ông ta đã tung ra mốt hoạt động tấm cỡ, cuộc hành binh "Mouette" nhắm vào những căn cứ ở phía nam Ninh Bình... Tướng Gian (người chỉ huy cuộc hành binh) tiếp nhận quan niệm về cuộc hành binh từ tổng chỉ huy, thấy nó giống như cuộc hành binh đánh ra Hòa Bình... Tướng Nava đã đạt được mục tiêu dự kiến. Đại đoàn 320 đã không thể thực hiện nhiệm vụ thâm nhập vào đồng bằng. ông ta [Võ Nguyên Giáp] đã buộc phải từ bỏ từ tháng Mười cuộc tiến công vào đồng bằng. Đây là những điều rất xa sự thật. Hãy nghe Nava biện hộ cho chủ trương của mình qua bản nhật lệnh kết thúc cuộc hành binh: "Cuộc hành binh Hải âu là đòn đầu tiên trong những đòn tôi có ý định đánh vào đối phương... Trong cuộc hành binh đó, chúng ta đã đạt mục tiêu: lợi thời gian ? Chúng ta đã buộc bộ tư lệnh Việt Minh phải xét lại kế hoạch tiến công của họ. Chúng ta đã nắm quyền chủ động và chúng ta muốn giữ quyền chủ động đó".
Cônhi, kém khôn ngoan hơn, đã phơi bày ý định của tổng chỉ huy trong cuộc họp báo ngày 7 tháng 11 năm 1953 tại Hà Nội. Khi có nhà báo hỏi vì sao không ở lại những vùng mới chiếm được, Cônhi trả lời: "Tôi xin cải chính, cuộc hành binh Hải âu không hề nhằm mục đích chiếm đóng vĩnh viễn đất đai. Vùng Nho Quan không có lợi gì cả ta cũng thưa có ý định chiếm Thanh Hóa. Ta đổ bộ vào vùng duyên hải Thanh Hóa là để đánh lừa Việt Minh mà thôi. Quả nhiên họ đã bị lừa, ta đã đạt được mục đích..."!
Thất bại của cuộc hành binh Hải âu đã khiến Nava bắt đầu lo ngại. Nhà ký giả Pháp Rô côn (Pierrc Rocolle) đã viết: "Tượng Nava đã phải rút ra kết luận sau cuộc hành binh Mouettc là: quân viễn chinh Pháp kém khả năng chiến đấu khi gặp chiến trường phức tạp và phải đương đầu với những trận tao ngộ chiến. Thí dụ: binh đoàn cơ động số 4 đã mất đứt 1 tiểu đoàn trong ngày 27 tháng 10 năm 1953...". Nava cũng đã thủ nhận điều đó trong bản tường trình 707 ngày 10 tháng 11 năm 1953 gửi Chính phủ Pháp: "Theo ý kiến của tôi, tướng Conhi và tướng Gin, nếu chúng ta đưa lục quân của chúng ta, với chất lượng như hiện thời, ra khỏi một bán kính 10 kilômét có pháo binh yểm trợ, nếu chạm trán với bộ binh thì nó sẽ bị đánh bại".
TRUNG tuần tháng 11 năm 1953, theo kế hoạch, đại đoàn 316 từ địa điểm trú quân tại Thanh Hóa tiến lên Tây Bắc. Từ đầu tháng 11, bộ phận chuẩn bị chiến trường của 316, do tham mưu trưởng Vũ Lập dẫn đầu, đã lên đường.
Ngày 15 tháng 11 năm 1953, 316 vượt sông Đà.
Trong thực tế, đây chỉ là cuộc hành quân của cơ quan chỉ huy đại đoàn cùng với trung đoàn 174 về Thạch Thành, Thanh Hóa chỉnh huấn sau chiến dịch Thượng Lào. Hai trung đoàn khác của 316 vẫn không rời địa bàn Tây Bắc. Trung đoàn 98 ở lại Sầm Nưa một thời gian, giúp bạn củng cố căn cứ địa, tháng 9 năm 1953 quay về Sơn La. Trung đoàn 176 được trao nhiệm vụ tiễu phỉ, khoảng 2.000 tên, do Pháp nhen nhóm dọc hai bờ sông Đà đang quấy rối hậu phương ta.
Hội nghị cán bộ phổ biến nhiệm vụ quân sự và kế hoạch Đông Xuân 1953-1954 được Bộ Tổng tư lệnh triệu tập ngày 19 tháng 11 năm 1953, tại Đồng Đau, huyện Định Hóa, Thái Nguyên. Cán bộ từ các chiến trường, trừ Nam Bộ quá xa, đều có mặt. Lâu lâu lại mới có cuộc họp đông đủ thế này. Mọi người gặp nhau tay bắt mặt mừng. Mỗi người mang về đây hơi hướng của cuộc chiến đấu gian lao và anh dũng trên từng chiến trường. Đêm khuya, những cuộc chuyện trò vẫn râm ran các khu lán.
Tổng quân ủy trình bày chủ trương quân sự Đông Xuân của Trung ương nhằm phá kế hoạch Nava. Mấy ngày trước đó, Cục 2 nhận được tin địch đang điều động tập trung các đơn vị nhảy dù. Hội nghị họp sang ngày thứ hai thì trinh sát từ Phú Thọ báo cáo về, phát hiện nhiều tốp máy bay, kể cả máy bay vận tải, bay về phía Tây Bắc. Ngày 19, bộ phận đi chuẩn bị chiến trường ở Tây Bắc điện về, máy bay trinh sát địch lượn trên bầu trời Điện Biên Phủ.
Tối ngày 20, tôi nhận được tin một số tiểu đoàn dù của Pháp đã nhảy xuống Điện Biên Phủ. Tại đây, trong thời gian này chỉ có một tiểu đoàn cùng với trung đoàn bộ của trung đoàn độc lập 148 đang đóng quân. Cuộc hội ý Tổng quân ủy được triệu tập ngay. Chúng tôi nhận định: Địch đã phát hiện 316 đang tiến quân lên Tây Bắc. Chúng cảm thấy Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp, nên đưa một bộ phận lực lượng lên Tây Bắc đối phó. Cuộc họp Bộ Chính trị ở Tin Keo cũng đã dự kiến: nếu Tây Bắc bị uy hiếp thì địch sẽ tăng viện lên hướng này, hoặc đánh rộng ra vùng tự do để phá cuộc tiến công của ta. Cần xúc tiến nhanh việc đánh Lai Châu, không để cho quân địch đóng ở Lai Châu co về Điện Biên Phủ.
Ngay đêm hôm đó, một bức điện khẩn được gửi cho 316 đang trên đường hành quân: "Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ là để chc chở cho Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp. Như vậy là bị động phân tán lực lượng để đối phó với ta, tình hình căn bản có lợi cho ta... Nắm cơ hội tốt, tạo cơ hội tốt để tiêu diệt địch". Mệnh lệnh quy định 316 tổ chức thành những tiểu đoàn hành quân cho nhanh, chậm nhất ngày 6 tháng 12 năm 1953 phải có mặt ở Tuần Giáo.
Ngày 21, bộ phận tiền trạm của Bộ Tổng tham mưu đi trước bằng ô tô lên Tây Bắc bố trí sở chỉ huy tiền phương. Bộ Tổng tư lệnh thông báo cho các đại đoàn sẵn sàng lên đường chiến đấu. Riêng đại đoàn 304 (thiếu một trung. đoàn) ở Thanh Hóa, được lệnh hành quân ngay lên hướng Tây Bấc làm nhiệm vụ nbơ hi binh, rồi bí mật luồn rừng quay về Phú Thọ. Ta dự kiến nếu tiếp tục điều nhiều đại đoàn lên Tây Bắc, địch có thể tiến công ra vùng tự do để kéo quân ta về.
Hội nghị sắp kết thúc thì Bác tới. Người khen ngợi các đại biểu đã sôi nổi thảo luận và nhất trí với phương hướng và kế hoạch tác chiến của Trung ương. Bác nhấn mạnh phương châm chỉ đạo tác chiến của Trung ương trong mùa khô này là: "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", và . động viên cán bộ vượt mọi khó khăn giành thắng lợi lớn nhất trong Đông Xuân 1953-1954.
Tôi cùng với anh Hoàng Văn Thái làm việc với các đồng chí Hoảng Sâm, đại đoàn trưởng 304, Trần Quý Hai, đại đoàn trưởng 325, cụ thể hóa nhiệm vụ và hoạt động trên chiến trường Trung, Hạ Lào: ở hướng này chưa diễn ra hoạt động quân sự lớn, nên kẻ địch sơ hở và chủ quan. Bộ đội ta và Quân giải phóng Pa thét Lào mở cuộc tiến công có thể tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng trên đất bạn. Và đây cũng là một hướng nhiều khả năng thu hút quân cơ động của địch. Tôi trực tiếp trao nhiệm vụ cho đồng chí Lê Kích, phụ trách đơn vị thọc sâu xuống Hạ Lào, nhấn mạnh phải tuyệt đối giữ bí mật trong hành quân để tạo một bất ngờ lớn.
Chỉ huy các chiến trường đều phấn khởi nhận nhiệm vụ tuy biết Đông Xuân này sẽ gặp nhiều khó khăn. Riêng anh Nguyễn Chánh, tư lệnh Liên khu 5, tỏ vẻ băn khoăn. Anh Chánh nói ở liên khu đã được phổ biến tin mùa khô này địch sẽ đánh chiếm các tỉnh tự do ở đồng bằng, sợ khi trở về khó thuyết phục liên khu ủy nhất trí với chủ trương đưa đại bộ phận bộ đội chủ lực lên Tây Nguyên, chỉ để lại một bộ phận nhỏ cùng với dân quân du kích đối phó với quân địch. Tôi biết đây là vấn đề tâm ly không dễ giải quyết: Đảng bộ và lực lượng vũ trang Liên khu 5 vốn có truyền thống gắn bó chặt chẽ với dân. Bây giờ địch tới mà bộ đội chủ lực lại không có mặt ! Nhưng Bộ Chính trị đã tính toán kỹ, mở cuộc tiến công lên Tây Nguyên là cách tốt nhất để bảo vệ vùng tự do Liên khu 5. Tôi bàn với anh Chánh cố gắng làm cho liên khu ủy thông suốt chủ trương này.
Để kịp thời chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ trước tình hình mới, trong buổi kết luận hội nghị ngày 24 tháng 11 năm 1953, tôi nói:
- Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, mặc dù ta không phán đoán được cụ thể về địa điểm và thời gian, nhưng cũng nằm trong phạm vi phán đoán trước của ta là: nếu Tây Bắc bị uy hiếp thì địch sẽ tăng viện lên hướng đó. Như vậy là trước sự uy hiếp của ta, địch đã phải bị động đối phó, phải phân tán một bộ phận lực lượng cơ động lên Điện Biên Phủ để yểm hộ cho Tây Bắc, chc chở cho Thượng Lào, và phá vỡ kế hoạch tiến công của ta...
Rồi đây, tình hình địch có thể biến hóa như thế nào ?
- Chúng có thể vừa giữ Điện Biên Phủ vừa giữ Lai Châu, một nơi chính, một nơi phụ, có thể lấy Điện Biên Phủ làm chính.
- Nếu bị uy hiếp, chúng có thể co về một nơi và tăng viện thêm một phần nào; cũng chưa nhất định co về nơi nào, nhưng khả năng co về Điện Biên Phủ nhiều hơn.
- Nếu bị uy hiếp mạnh hơn, không có thể tăng viện nhiều và biến thành một tập đoàn cứ điểm, trong trường hợp này không có thể lấy Điện Biên Phủ làm nơi thiết lập trận địa. Nhưng chúng cũng có thể rút.
- Vô luận rồi đây địch tình thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta...
Không khí hội nghị phấn chấn han lên. Mọi người vui mừng, xôn xao. Kể cũng là một hiện tượng mới trong chiến tranh: khi kẻ thù chiếm thêm một vị trí chiến lược quan trọng của ta thì chúng ta lại cho đây là cơ hội tốt đã đến.
Sau cuộc họp, tôi định gặp anh Chu Huy Mân, chính ủy 316, thì biết anh đã nhận nhiệm vụ về trước để kịp đuổi theo bộ đội trên đường hành quân. Tôi gọi điện thoại cho người đón đường nói với anh Mân quay lại. Buổi chiều, anh Mân dắt xe đạp đi vào cơ quan với vẻ ngạc nhiên. Tôi nói:
- Địch đã ném thêm nhiều quân xuống Điện Biên Phủ. Đồng chí cần đi thật gấp cho kịp bộ đội, đôn đốc đơn vị hành quân cấp tốc lên bao vây Lai Châu. Phải chặn ngay con đường từ Lai Châu về Điện Biên Phủ. Có thể sẽ đánh Điện Biên Phủ?
Ngay tối hôm đó, anh Mân vội vã ra đi. Tôi nghe nói lại, anh Mân đã dùng hết bốn đôi má phanh xe đạp để lao dốc đèo khi đuổi theo bộ đội.
Bộ Tổng tham mưu tập hợp các nguồn tin báo cáo: Cuộc hành binh đánh chiếm Điện Biên Phủ có bí danh là "Hải ly" (Castor). Từ ngày 20 tới ngày 22 tháng 11 năm 1953, địch đã ném xuống cánh đồng Mường Thanh 6 tiểu đoàn dù, khoảng 4.500 quân, tương đương với số quân địch ở Nà Sản trước khi rút lui.
Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Lai Châu, không những giữ một vị trí chiến lược quan trọng ở Tây Bắc mà còn trên cả chiến trường Đông Dương. Vùng đất này tiếp giáp với Thượng Lào có những trục đường chạy về phía nam xuống Trưng, Hạ Lào, sang phía tây tới Thái Lan, Miến Điện, lên phía bắc tới Trung Quốc. Đây là vùng đông dân, trù phú, có cánh đồng rộng nhất ở Táy Bắc. Thực dân Pháp đã chiếm Điện Biên Phủ từ năm 1888. Lai Châu vốn là một trong bốn đạo quan binh của Pháp. Từ năm 1939, Điện Biên Phủ đã có một sân bay dã chiến. Trong cuộn Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, hàng ngàn quân Pháp đã qua con đường Lai Châu chạy sang Trung Hoa. Năm 1945, quân Nhật rồi quân Tưởng đã có mặt ở Điện Biên Phủ. Khi ta ký Hiệp định ngày 6 tháng 3 năm 1946 với Pháp, Pháp đã yêu cầu được đưa hơn 800 quân trở lại vùng này để làm nhiệm vụ tiếp phòng quân Tưởng. Lơcléc đã trực tiếp đến thăm Điện Biên Phủ.
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Điện Biên Phủ tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Pháp, và chỉ mới được giải phóng từ cuối chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Chúng ta đã có những đơn vị của trung đoàn 148 đóng tại Điện Biên Phủ. Nhưng để mở một chiến dịch lớn thì cơ quan tham mưu còn biết quá ít về địa hình vùng rừng núi ở tận cùng miền tây của đất nước. Trên những bản đồ ta hiện có, khu vực Điện Biên Phủ thiếu nhiều chi tiết. Cục Quân báo cử người tới trại tù binh âu Phi để tìm hiểu tình hình. Mấy ngày sau, đồng chí cục phó Cao Pha trở về, đưa tôi xem bản sơ đồ vẽ tay của một sĩ quan Pháp đã từng đóng ở Điện Biên Phủ. Viên sĩ quan này nói: nếu cho y một binh đoàn nhảy xuống điện Biên Phủ, y sẽ đóng quân trên những quả đồi ở phía đông cánh đồng Mường Thanh.
Trước mùa khô 1953, để tăng cường cơ quan Bộ Tổng tham mưu, Bộ Chính trị đã quyết định điều anh Văn Tiến Dũng, đại đoàn trưởng 320, về làm tổng tham mưu trưởng, anh Trần Văn Quang, làm cục trưởng Cục Tác chiến.
Bộ phận tiền phương được chỉ định gồm các anh Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu phó, anh Lê Liêm, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, anh Đặng Kim Giang, Phó chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, anh Đỗ Đức Kiên, cục phó Cục Tác chiến. Trước đó, anh Đặng Kim Giang đã cùng với một bộ phận cản bộ đi Tây Bắc để chuẩn bị công tác hậu cần.
Tôi trao đổi kỹ với anh Thái về nhiệm vụ giải phóng Lai Châu, phối hợp với bạn ở Thượng Lào, chuẩn bị chiến trường Điện Biên Phủ, đề phòng địch từ đây rút chạy qua Tây Trang sang Lào, nắm sát tình hình thay đổi của địch trên đường hành quân, đồng thời chuẩn bị phương án tiến công Điện Biên Phủ đệ trình Tổng quân ủy. Tôi hẹn sẽ có mặt ở Tây Bắc vào cuối tháng 12 năm 1953, hoặc đầu tháng 1 năm 1954, sau khi có quyết tâm của Bộ Chính trị.
Ngày 26 tháng 11 năm 1953, cơ quan tiền phương của Bộ lên đường đi chiến dịch Tây Bắc.
Đoàn Cố vấn Trung Quốc rất tán đồng chủ trương và kế hoạch tác chiến Đông Xuân của ta chọn Tây Bắc là hướng chính. Đoàn cử đồng chí Mai Gia Sinh, Cố vấn tham mưu, cùng đi trước với anh Thái.
Đầu tháng 12 năm 1953, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho đại đoàn 308 vượt sông Hồng, đưa trung đoàn 36 đi trước, theo đường tắt, nhanh chóng chốt chặn ở Pom Lót, phía nam - tây-nam Điện Biên Phủ, ngăn không cho quân địch rút chạy sang Lào. Cùng lên đường với 308, có trung đoàn sơn pháo 675 của 851. Pháo và đạn được chuyển bằng ô tô, các pháo thủ đều đi bộ.
Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, Tây Bắc đã thực sự trở thành hướng chính như dự kiến của ta trong kế hoạch Đông Xuân. Tôi cùng với cơ quan tham mưu bàn việc điều chỉnh kế hoạch ở hướng này. Trước đây, quyết tâm của Trung ương Đảng là sau khi giải phóng Lai châu, sẽ phối hợp cùng với bộ đội Pa thét Lào giải phóng tỉnh Phông Xa Lỳ trực tiếp uy hiếp Luông Phabăng, kinh đô của nhà vua Lào. Chiến trường Tây Bắc đã thay đổi và còn tiếp tục thay đổi. Tổng quân ủy nhận định địch có thể giữ cả Lai Châu và Điện Biên Phủ, cũng có thể tập trung về Điện Biên Phủ. Nếu quân địch không rút như ở Nà Sản, chúng sẽ biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm lớn. Hướng chuẩn bị của ta là đánh công kiên tập đoàn cứ điểm.
Ta phán đoán quân địch ở Điện Biên Phủ sẽ được tăng cường lên 10 tiểu đoàn. Bộ Tổng tham mưu dự kiến lực lượng sử dụng tại Điên Biên Phủ là 9 trung đoàn bộ binh, cùng với công binh, pháo binh, và một bộ phận cao xạ pháo.
Thời gian hoạt động ở Tây Bắc sẽ chia làm hai đợt :
* Đợt 1: 316 tiến hành đánh Lai Châu và kết thúc vào cuối tháng 1 năm 1954. Sau đó, bộ đội nghỉ ngơi, chấn chỉnh một thời gian khoảng 20 ngày, tập trung đầy đủ lực lượng để đánh Điện Biên Phủ.
* Đợt 2: Tiến công Điện Biên Phủ. Thời gian đánh Điện Biên Phủ ước tính 45 ngày. Nếu địch không tăng cường thêm nhiều quân, có thể rút ngắn hơn. Chiến dịch sẽ kết thúc vào đầu tháng 4 năm 1954. Đại bộ phận lực lượng sẽ rút, một bộ phận ở lại tiếp tục phát triển sang Lào cùng với bộ đội bạn uy hiếp Luông Phabăng.
Trong chiến dịch Thượng Lào mùa Hè vừa qua, thị xã Sầm Nưa là một tập đoàn cứ điểm nhỏ, nên ta chủ trương dùng cách tập trung lực lượng đánh nhanh thắng nhanh. Nhưng kẻ địch đã vội vã rút chạy. Lần này, tuy chưa có phương án tác chiến cụ thể (đã trao cho Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị), nhưng thời gian chiến dịch được dự tính sẽ đánh dài ngày để chuẩn bị cơ sở vật chất.
Bộ Tổng tham mưu làm việc với Tổng cục Cung cấp tính toán bước đầu, phải huy động cho chiến dịch 4.200 tấn gạo (chưa kể gạo cho dân công), 100 tấn rau, 100 tấn thịt, 80 tấn muối, 12 tấn đường. Tất cả đều phải vận chuyển qua chặng đường dài 500 km phần lớn là đèo dốc hiểm trở, máy bay địch thường xuyên đánh phá.
Số dân công chỉ tính từ trung tuyến trở lên, đã cần tới 14.500 người. Về chuẩn bị đường sá, các con đường thuộc tuyến chiến dịch đều phải bảo đảm vận chuyển bằng ô tô. Trước đây, để chuẩn bị đánh Nà Sản, con đường 13 từ Yên Bái lên Tạ Khoa đã sửa chữa xong, nhưng lúc này cần tiếp tục tu bổ thêm. Đường từ Mộc Châu đi Lai Châu rất xấu, phải sửa chữa nhiều. Phân công cho Bộ Giao thông công chính phụ trách đường 13 lên tới Cò Nòi, và đường 41 từ Mộc Châu lên Sơn La, bộ đội phụ trách quãng đường 41 còn lại từ Sơn La đi Tuần Giáo, và từ Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ (sau này gọi là đường 42). Thời gian tiến hành từ tháng 12 năm 1953.
Ngay 6 tháng 12 năm 1953, tờ trình của Tổng quân ủy được gửi lên Bộ Chính trị, nêu: "Thời gian tác chiến ở Điện Biên Phủ ước độ bốn mươi lăm ngày". Trận đánh có thể khởi đầu vào tháng 2 năm 1954. Đây "sẽ là một trận cóng kiên lớn nhất từ trước tới nay", sẽ phải sử dụng 3 đại đoàn bộ binh, toàn bộ pháo binh, công binh, lực lượng phòng không. Nếu kể cả cơ quan chỉ huy chiến dịch, các đơn vị trực thuộc, bộ đội bảo vệ tuyến cung cấp, bộ đội bổ sung, thì "quân số tổng quát của chiến dịch sẽ là 42.000 người". Dự kiến đánh Điện Biên Phủ đệ trình Bộ Chính trị được chuẩn bị theo tinh thần "đánh chắc tiến chắc".
CŨNG trong ngày 6 tháng 12, quân Pháp được tin 316 đã xuất hiện ở Tuần Giáo, trực tiếp uy hiếp Lai Châu. Conhi lập tức ra lệnh cho trung tá Tơrăngca (Trancart) thực hiện cuộc hành binh Pônluýeh (Pollux) đưa toàn bộ lực lượng từ Lai Châu về Điện Biên Phủ. Lực lượng chính quy của vùng tác chiến Tây Bắc (Z O N.O.), tương đương với ba tiểu đoàn, đóng tại thị xã Lai Châu sẽ được không vận về Mường Thanh bằng máy bay. "Binh đoàn biệt kích không vận hỗn hợp" (G.C.M.A) bảo vệ cho lực lượng chính quy rút lui xong sẽ đi theo đường Pa vi (Pavie) nối liền Lai Châu với Điện Biên Phủ. Nhưng quyết định quá gấp này không tập hợp được 25 đại đội biệt kích gồm trên hai ngàn người đang ở tản mác trong rừng. Bộ chỉ huy Pháp đã coi việc tổ chức được lực lượng người địa phương này ở Tây Bắc là một thành công lớn. Bọn chúng dễ dàng thâm nhập sâu vào vùng giải phóng, khống chế dân chúng, tạo một vành đai an toàn chung quanh những vị trí đóng quân, tập kích những bộ phận nhỏ, và đánh vào tuyến giao thông của ta.
Ngày 7 tháng 12 năm 1953, cơ quan tác chiến báo cáo qua tin kỹ thuật, địch đang rút các tiểu đoàn đóng ở thị xã Lai Châu về Điện Biên Phủ bằng máy bay, một bộ phận đã tới Mường Thanh. Tôi nói Bộ Tổng tham mưa thông báo gấp cho sở chỉ huy tiền phương kịp thời xử trí.
Lúc này, lực lượng của Đại đoàn 316 còn chưa tập trung. Trùng đoàn 176 đã được lệnh của Bộ đưa một tiểu đoàn cấp tốc tiến vào Điện Biên Phủ, hoạt động tại khu vực Him Lam, Bản Tấu ngăn không cho quân địch đánh ra, một tiểu đoàn qua biên giới giúp các bạn Lào bảo vệ vùng giải phóng Sầm Nưa, một tiểu đoàn ở lại Sơn La, Thuận Châu bảo vệ hậu phương và làm lực lượng cơ động.. Hai trung đoàn khác đang trên đường lên Điện Biên Phủ, trung đoàn 174 mới tới Tuần Giáo, trung đoàn 98 còn ở bên kia đèo Pha đin.
Anh Thái triệu tập cán bộ 316 về sở chỉ huy tiền phương tại cây số 15 đường Tuần Giáo - Điện Biên Phủ, trao nhiệm vụ cho đại đoàn nhạnh chóng giải phóng thị xã Lai Châu theo kế hoạch cũ, và kiên quyết cắt đứt con đường Pavi, không cho địch co về Điện Biên Phủ. Nếu địch bỏ chạy thì truy kích tới cùng. Anh Lê Liêm nói: ”Công tác chính trị của đại đoàn bây giờ là động viên bộ đội đuổi đánh địch thật nhanh".
316 vừa trải qua 20 đêm hành quân liên tục. Đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba và chính ủy Chu Huy Mân quyết định đưa tiểu đoàn 439 của trung đoàn 98, do phó chính ủy trung đoàn Phạm Quang Vinh trực tiếp phụ trách, tiến gấp lên phía bắc giải phóng thị xã Lai Châu, một tiểu đoàn khác của 98 tạm dừng lại Tuần Giáo đề phòng địch nhảy dù tập kích phía sau vào hậu phương trực tiếp của chiến dịch, đại bộ phận đơn vị tiến về con đường Lai Châu - Điện Biên Phủ.
Ngày 9 tháng 12 năm 1953, tiểu đoàn 439 được xe ô tô vận chuyển hàng cho chiến dịch chở lên Lai Châu. Nhưng xe chỉ chạy được tới Nậm Mức cánh Lai Châu 45 kilômét thì phải dừng lại vì đường quá xấu. Bộ đội tiếp tục hành quân bộ. Tối ngày 10, tiểu đoàn 439 tới Pa Ham một đồn nhỏ cánh thị xã Lai Châu 32 kilômét, được tin quân địch ở những vị trí chung quanh mới dồn về đây chừng ba đại đội. Nửa đêm, tiểu đoàn bắt đầu tiến công. Quân địch cầm cự được nửa giờ rồi bỏ chạy. Hôm sau, tiểu đoàn tiến đến đèo Clavô cách thị xã Lai Châu 14 kilômét. Địa thế đèo này cực kỳ hiểm trở, chỉ cần một đại đội chiếm giữ có thể cầm cự được với cả một trung đoàn. Nhưng 439 dễ dàng vượt qua vì quân địch đang trên đường rút lui, thấy bộ đội ta xuất hiện là hoảng hốt tháo chạy.
Ngày 12 tháng 12 năm 1953, bộ đội ta tiến vào giải phóng thị xã Lai Châu sau gần một thế kỷ nằm dưới ách đô hộ của Pháp. Đèo Văn Long, "quốc vương" của xứ Thái tự trị, cùng với gia đình đã được máy bay Pháp đưa về Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tung bay trên thị xã đầy những xác xe vận tải và những kho tàng bị phá hủy.
Sau bốn ngày hành quân, lực lượng chủ yếu của 316 theo đường Tuần Giáo - Điện Biên Phủ đến Nà Tấu xuyên rừng đi về phía đèo Pa Thông, đã có mặt trên đường Pavi nối liền Lai Châu với Điện Biên Phủ. Trung đoàn 174 bố trí ở khu vực Mường Muộn, Mường Pồn đón đánh quân địch tử Lai Châu chạy về. Tiểu đoàn 215 của trung đoàn 98 đứng chân ở Pu San chặn đánh quân địch từ Điện Biên Phủ lên. Tiểu đoàn 888 của 176 đã chốt chặn ở Him Lam - Bản Tấu ngay cửa ngõ Mường Thanh.
Sáng ngày 12, đại đội 674 của tiểu đoàn 251 trung đoàn 174 tiến xuống Mường Pồn thì phát hiện trong bản có nhiều quân địch từ Lai Châu, rút về đang tập trung tại đây Đại đội lập tức tiến hành bao vây và nổ súng đánh địch. Quân địch có máy bay yểm trợ, thấy lực lượng ta ít, kiên quyết xung phong đánh bật ta để mở đường đi về Điện Biên Phủ. Cán bộ, chiến sĩ đại đội 674 chiến đấu rất dũng cảm kiên quyết không nới lỏng vòng vây. Chiến sĩ liên lạc Bế Văn Đàn mang lệnh đến cho tiểu đội Chu Văn Pù giữa lúc cả tiểu đội chỉ còn bốn người đang phải chặn đánh một cánh quân từ trên cao tràn xuống. Chu Văn Pù có khẩu trung liên trong tay nhưng không biết đặt vào đâu. Bế Văn Đàn lao tới nhấc hai chân súng đặt lên vai mình, và giục Pù siết cò trút đạn về phía quân địch. Bế Văn Đàn hy sinh, nhưng đợt tiến công của địch đã bị chặn đứng.
Để hỗ trợ cho cuộc hành binh Pônluýeh, Đờ Cát (vừa thay Gin) ra lệnh cho Lănggơle chỉ huy binh đoàn không vận số 2 (Groupement aéroporté No2, viết tắt là G.A.P.2) tăng cường, gồm tiểu đoàn dù lê dương số 1 (1er BEP), tiểu đoàn dù ngụy số 5 (5è BPVN), và tiểu đoàn dù 8 xung kích (sè BPC)L, hai cụm pháo 105, với bốn máy bay ném bom B-26 vế hai máy bay trinh sát yểm trợ, đi theo đường Pa vi lên Mường Pồn đón cát đơn vị còn lại từ Lai Châu rút về. Với số lượng những đơn vị và phương tiện được huy động, đây không còn là một cuộc hành binh nhỏ. Cônhi đã chỉ thị cho Đờ Cát cần thực hiện việc ngăn chặn bằng cách mở những cuộc tiến công vào sâu khu vực của đối phương.
* 7 giờ ngày 11 tháng 12, binh đoàn không vận số 2 lên đường. 11 giờ 30, quân địch đến Bản Tấu cách Mường Thanh 6 kilômét. Tiểu đoàn 888 chốt chặn tại đây lập tức nổ súng. Cả ba tiểu đoàn dù bị chôn chân tại chỗ suốt ngày 11. Ba đại đội biệt kích Thái ở Mường Pồn đang bị đại đội 674 chặn đánh, khẩn thiết kêu gọi cánh quân cứu viện cố mở đường tới giải vây. Suốt từ ngày 11 đến ngày 13, cánh quân cứu viện chỉ tới được đèo Pu San hiểm trở, cao 1.168 mét, nơi có tiểu đoàn 215 và đại đội phòng không 677 chốt giữ. Mặc dù có máy bay B-26 yểm trợ, thả cả bom napan, chúng đã không thể vượt qua quãng đường 4 kilômét từ Pu San đến Mường Pồn. Sáng ngày 13, đại đội 674 bao vây Mường Pồn được đại đội 317 đến tiếp sức, mở đợt tiến công cuối cùng tiêu diệt toàn bộ quân địch đóng ở Mường Pồn.
Buổi trưa ngày 13, binh đoàn không vận số 2 bỗng thấy tiếng súng phía Mường Pồn im bặt. Ngay sau đó, máy bay trinh sát báo tin những đơn vị ở đây đã bị tiêu diệt.
Chúng ta hãy nghe Bécna Phôn (Bernard Fall) kể tiếp về trận đánh này: "Mặc dù binh đoàn không vận số 2 đã không thực hiện được việc cứu nguy cho quân đồn trú ở Mường Pồn, nhưng trận đánh đối với họ còn xa mới kết thúc. Bộ phận đi đầu do thiếu tá Lơcléc và đại úy Tua rê (Tourret) chỉ huy vừa mới bắt đầu rút về hướng đông - nam lúc 16 giờ 50 thì bị một hỏa lực dữ dội của địch bắn xâu chuỗi. Theo tường trình trong báo cáo của G.A.P.2 thì Việt Minh không có máy bay quan sát cũng như những đơn vị tuần tiễu điều chỉnh đường bắn, vẫn thành công trong việc bố trí trọng pháo cách nơi những lính dù vừa hạ trại 500 mét, và giội đạn xuống họ một cách cực kỳ chính xác. Chỉ trong ít phút họ đã chịu đựng những tổn thất nghiêm trọng. Họ gọi máy bay ném bom B-26 đến cứu. Sự can thiệp tức thời của hai máy bay có lẽ đã cứu tiểu đoàn dù 5 khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn. Nhưng thiệt hại của tiểu đoàn này vẫn không kém nặng nề: 3 chết, 22 bị thương, và 13 mất tích.
Và chưa hết ! Bộ đội đối phương không còn bị cái nút Mường Pồn chặn lại đã bắt kịp cả G.A.P. 2. Trưa ngày 14 tháng 12, pháo 105 (tác giả lầm sơn pháo 75 của ta với pháo 105 - chú thích của người viết bắt đầu bắn vào đơn vị bảo vệ phía sau gồm những binh lính của tiểu đoàn dù lê dương 1. Giống như buổi sáng, Việt Minh tìm cách tiếp cận mục tiêu thật nhanh để tránh những trận oanh kích của không quân. 14 giờ 50, tiểu đoàn lê dương dù 1 báo cáo họ đang bị đối phương chiến đấu giáp lá cà dữ dội và yêu cầu máy bay tiêm kích yểm hộ. Không quân lại tiếp tục can thiệp, nhưng lần này đã có một báo hiệu không lành cho những gì sẽ diễn ra ở Điện Biên Phủ sau này; 15 giờ, một máy bay trinh sát báo cáo trúng đạn phòng không Việt Minh, và 16 giờ, một máy bay tiêm kích và một chiếc Moranc khác lần lượt báo cáo trúng đạn...".
Các đơn vị của Tơrăngca hầu hết là người địa phương, chạm trán quân ta lập tức tản vào rừng. Từ chiều ngày 13 tháng 12 năm 1953, cuộc truy lùng diễn ra trên tất cả các hướng. Rút kinh nghiệm từ trận truy kích Thượng Lào, 316 đã đuổi theo quân địch hàng trăm kilômét đường rừng, suốt ngày đêm. Bộ đội ta vừa kết hợp tiến công vừa kêu gọi đầu hàng. Số hàng binh Thái rất đông. Nhiều hàng binh có cả gia đình. Không thể đưa họ theo trên đường truy kích. Cán bộ 316 đã có sáng kiến tập hợp tù binh cùng với dân tuyên truyền giải thích, nói bộ đội sẽ trả tự do cho tù binh nếu được nhân dân bảo đảm là sẽ không để họ tiếp tục cầm súng giết hại đồng bào. Nhiều người vợ, người mẹ đã hăng hái hứa hẹn quyết không để chồng con theo giặt một lần nữa. Và họ đã làm được như vậy. Không một người Thái nào trong số này sau khi được tha quay trở lại với quân địch. 316 đã tiêu diệt và làm tan rã 25 đại đội địch, thu nhiều vũ khí, lừa ngựa, quân trang, quân dụng.
Phôn thấy cần có cả một cuốn sách để miêu tả lại số phận của người sĩ quan Pháp trong cuộc hành binh Pônluých, và ông ta kết luận: "Bây giờ chỉ còn công việc tính sổ những thiệt hại trong tuần lễ cuối cùng của cuộc đánh vận động. Khi lực lượng Pônluých rời Lai Châu ngày 9 tháng 12, họ gồm 2.101 người, trong đó có 8 trung úy, và 34 hạ sĩ quan Pháp. Khi những người sống sót của đại đội lừa ngựa Thái và đại đội nhẹ 428 tới Điện Biên Phủ, ngày 22 tháng 12, chỉ còn 10 người Pháp, trong đó có viên trung úy Ulpat và 175 binh lính Thái. Gần 2.000 lính biệt kích, hàng trăm người dân sự, cũng như 2 sĩ quan, 25 hạ sĩ quan Pháp không còn lên tiếng khi điểm danh. Hơn thế, Việt Minh đã thu được đủ vũ khí để trang bị cho một trung đoàn".
Trong bản báo cáo của mình về trận đánh này. Lănggơle chỉ huy G.A.P.2, đã nhấn mạnh "sự thuần thục lạ lùng của kẻ thù khi bố trí những vị trí pháo binh và vị trí trú quân ngoài tầm quan sát của không quân và lực lượng thám báo mặt đất..."Khúc dạo đầu diễn ra mau lẹ. Bộ đội ta vượt qua đợt dự kiến cho chiến dịch Tây Bắc.
Từ cuối tháng 11 năm 1953, cùng với cuộc tiến quân lên Tây Bậc, một cánh quân khác của ta cũng lên đường tiến xuống Trưng, Hạ Lào. Tham gia tiến công định ở hướng này có trung đoàn 66 của 304, các trung đoàn 101 và 18 của 325, cùng với các đơn vị tình nguyện của Liên khu 4, Liên khu 5 đã sang phối hợp với bạn hoạt động từ những năm trước, và một số đơn vị Pa thét Lào. Bộ chỉ huy chiến dịch Trung Lào, lấy mật danh là “Mặt trận D" được thành lập Các đồng chí Hoàng Sâm, tư lệnh đại đoàn 304, Trần Quý Hai, tư lệnh kiêm chính ủy đại đoàn 325 được cử tham gia Bộ chỉ huy liên quân. Lực lượng ta tiến vào Trung, Hạ Lào theo ba đường. Các trung đoàn 66, 101, tiểu đoàn 274 (thuộc trung đoàn 18),. và đại đoàn bộ 325 hành quân theo tỉnh lộ Nghệ An vào Chu Lễ, Hương Khê rồi vượt đèo Quân và dốc Trẫm - Trẹo sang bắc Trung Lào. Trung đoàn 18 (thiếu 1 tiểu đoàn) theo quốc lộ 1 tới Kỳ Anh, vượt đèo Móng Gà sang Cổ Áng theo đường Ba Rền, U BÒ tiến vào phía bắc đường số 9. Tiểu đoàn 436 thuộc trung đoàn 101 theo đường xuyên Trường Sơn tiến thẳng xuống Hạ Lào.
Trong kế hoạch chiến lược của mình, Nava đã xác định vĩ tuyến 18 là tuyến ngăn chặn hai miền Nam, Bắc Đông Dương. Các khu vực đường số 12, đường số 9, đường số 8 và cao nguyên Bôlôven ở Trung, Hạ Lào được coi là những địa bàn đặc biệt quan trọng về chiến lược Nếu để mất những địa bàn này Đông Dương có thể bị cắt làm đôi. Trước khi vào mùa khô, Nava đã tổ chức tại Trung Lào một bộ máy chỉ huy thống nhất, và tăng thêm lực lượng cho chiến trường này.
Ngay từ cuối tháng 11 năm 1953, địch đã phát hiện một lực lượng lớn bộ đội ta đang tiến về hướng Trung Lào. Ngày 1 tháng 12, Nava vội vã rút binh đoàn cơ động số 2 (GM 2) tử đồng bằng Bắc Bộ vào bịt các cửa ngõ hai tỉnh: Khăm Muộn và Xavanakhét, chủ yếu là ba con đường số 8, số 9, và số 12 nối liền Việt Nam với Trung Lào. Địch phân tán binh lực là điều đáng mừng cho ta. Tuy nhiên, định sớm đề phòng sẽ gây những khó khăn cho ta khi khởi đầu chiến dịch.
Quyết định mở một mặt trận ở Trung, Hạ Lào trong Đông Xuân này, chúng ta đã chọn đúng khu vực xung yếu mà địch không thể bỏ. Tôi theo dõi từng ngày bước đi của cánh quân theo những lộ trình khác nhau. Nếu bây giờ, phối hợp với Tây Bắc, một cuộc tiến công khác đồng thời nổ ra tại Trung Lào tạo được áp lực mạnh, chắc chắn Na va sẽ phải tiếp tục phân tán lực lượng cơ động về hướng này.
Trinh sát của ta ở Điện Biên Phủ hàng ngày báo cáo về: định tiếp tục thả thêm dù người, dù vũ khí, và rất nhiều dây thép gai. Chúng ráo riết sửa chữa sân bay. Các tướng lĩnh Pháp tuyên bố cuộc nhảy dù xuống Điện Biên Phủ "không phải là một cuộc nhảy dù biệt kích như ở Lạng Sơn, đây là khởi đầu một cuộc tiến công quy mô...". Đã có những dấu hiệu địch đang xây dựng ở Điện Biên Phủ một tập đoàn cứ điểm với quy mô lớn hơn nhiều so với Nà Sản.
Hạ tuần tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông Xuân 1953-1954. Đảng ủy chiến dịch được chỉ định gồm các anh: Hoàng Văn Thái, Tham mưu trưởng, Lê Liêm, Chủ nhiệm Chính trị, Đặng Kim Giang, Chủ nhiệm Cung cấp, tôi là Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch. Đại đoàn 312, trước đó vẫn giấu mình ở một khu rừng già tại Yên Bái quân địch không sao phát hiện, được lệnh tiến gấp lên Tây Bậc.
Ngày 20 tháng 12 năm 1953, bộ tư lệnh đại đoàn 351 và các trung đoàn trưởng lựu pháo 105, cao xạ pháo được triệu tập lên Bộ để nhận lệnh. Tôi trực tiếp trao nhiệm vụ cho đại đoàn: "Trọng pháo ra trận lần đầu sẽ gặp nhiễu khó khăn lớn. Trước mật, phải bảo đảm an toàn và tuyệt đối bí mật trong hành quân. Đưa được người và xe, pháo tới đích an toàn, coi như đạt 60% thắng lợi". Chỉ một ngày sau khi nhận lệnh, cả hai đơn vị lựu pháo và cao pháo đã lên đường.
Ngày 21 tháng 12 năm 1953, trung đoàn 36 của 308 đã có mặt ở Pom Lót, gấp rút tổ chức một cái chốt chặn con đường từ Điện Biên Phủ sang Thượng Lào. Sự có mặt một đơn vị đã tham gia tiêu diệt hai binh đoàn Lơpagiơ (Lepage) và Sác tông (Charton) trong chiến dịch Biên Giới, trên con đường hiểm yếu tử Mường Thanh đi Tây Trang, sẽ không cho phép quân địch dễ dàng vượt qua.
Tại Trung Lào, những cánh quân và hàng vạn dân công của ta đã không lọt qua mật quân địch. Tướng Buốcgun (Bourgound), tư lệnh mới ở miền Trung Đông Dương, bố trí ba cụm phòng thủ nhằm bịt các cửa ngõ phía đông. Một cụm ở khu vực Napé, Căm Cớt, Lạc Sao trên đường số 8, gồm tiểu đoàn Tao số 9 và một đại đội pháo 105. Một cụm ở Banaphào, Nhommarát trên đường số 12, gồm hai tiểu đoàn bộ binh Ma rốc, một tiểu đoàn bộ binh Angiêri và một tiểu đoàn pháo 105. Một cụm ở Nậm Thun, có tiểu đoàn bộ binh cơ giới Xpahi (Spahis) số 6 làm lực lượng dự bị.
Bộ chỉ huy liên quân Lào - Việt đề ra trong kế hoạch đợt 1, tiến công cụm cứ điểm phòng ngự then chốt trên đường số 12. Lực lượng sử dụng là hai trung đoàn. Ta sẽ dùng chiến thuật đánh điểm diệt viện. Trung đoàn 66 đánh cứ điểm Mụ Giạ, Banaphào. Trung đoàn 101 phục kích đánh viện trên đường số 12 quãng giữa Thà Khoc và Banaphào. Tiếp đó, hai đơn vị sẽ theo đường 12 đánh về Nhommarát giải phóng phía đông tỉnh Khăm Muộn.
Ở hướng thứ yếu của chiến dịch, một tiểu đoàn của trung đoàn 101 và bộ đội bạn đánh Napé, Lạc Sao, Căm Cớt Sau đó phát triển theo trục đường số 8, đánh xuống đường 12.
Cùng lúc, tiểu đoàn 436 của trung đoàn 101, mũi thọc sâu của chiến dịch, đánh xuống Hạ Lào, tạo bàn đạp cho lực lượng lớn của ta phát triển xuống phía nam.
Trung đoàn 18 (thiếu một tiểu đoàn) phối hợp với lực lượng vũ trang Bình Trị Thiên đánh địch ở đường số 9 - Quảng Trị, cát đứt tuyến giao thông chiến lược Đà Nàng - Huế - Đông Hà - Xavanakhét, tiếp đó, phát triển theo đường số 9 sang đánh địch ở Trung, Hạ Lào. Theo kế hoạch, ngày 23 nháng 12, trung đoàn 66 nổ súng tiến công cứ điểm Mụ Giạ, Banaphào mở màn chiến dịch. Nhưng một sự việc bất ngờ đã xảy ra.
Sáng ngày 20, đoàn cán bộ trưng đoàn 101 do trung đoàn trưởng Trần Văn Bành và chính ủy Hoàng Văn Thái dẫn đầu, đi trinh sát thực địa trên đường 12 tìm nơi bố trí trận địa phục kích đánh viện. Tới suối Nậm On, đoàn cán bộ chạm trán với một toán địch đang lùng sục trong vùng. Cuộc tao ngộ biến diễn ra rất chóng vánh. Ta bắt sống một viên đại úy cùng với bốn lính âu Phi. Bọn này khai phóng thuộc cụm phòng thủ trên đường số 12 Qua lời viên đại úy ta biết cách đây bốn hôm, tiểu đoàn cơ động Angiêri số 27 (27è BTA) và một đại đội pháo 105 từ Thà Khẹc, Nhommarát đã lên đây xây dựng thêm một cứ điểm ở khu vực cầu Khăm He, binh đoàn cơ động số 2 cũng mới thiết lập một sở chỉ huy ở gần cấu Kha Ma trên đường số 12.
Thời cơ đã xuất hiện. Quân địch mới tới còn đứng chân chưa vững. Trung đoàn trưởng 101 đánh điện báo cáo bộ chỉ huy . liên quân, và đề nghị cho khuyển từ nhiệm vụ phục kích sang khẩn trương tập kích tiêu diệt tiểu đoàn âu Phi ở cứ điểm Khăm He. Đề nghị của trung đoàn. được bộ chỉ huy chấp thuận.
Sự thay đổi nhiệm vụ làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ. Mọi .người được lệnh bỏ lại trang bị nặng và lập tức lên đường. Trung đội trinh sát và một đại đội bộ binh đi đầu mở đường. Cán bộ chỉ huy trung đoàn và các tiểu đoàn trưởng cùng đi với phân đội trinh sát để kịp thời hạ quyết tâm chiến đấu. Kế hoạch tiêu diệt Khăm Hc được hình thành ngay trên dọc đường. Các đơn vị do các cấp phó chỉ huy hành quân nối theo. Xuống tới phân đèo Phuâc, đại đội đi đầu gặp một toán âu Phi chốt chặn trên một quả đồi ven đường. Đơn vị lập tức hình thành thế bao vây, nổ súng tiến công. Quân địch hốt hoảng bỏ chạy. Trời vừa tối, trung đoàn ra tới đường 12. Cũng lúc đó những tên địch thoát chết ở suối Nậm On và đèo Phắc chạy về cứ điểm Khăm Hc mang theo tin dữ sự xuất hiện bất ngờ của Việt Minh. Bọn chỉ huy cứ điểm ra lệnh báo động và thúc quân hối hả tăng cường bố trí phòng thủ.
Không để cho quân địch có thời gian chuẩn bị đối phó, đêm ngày 21 tháng 12, trung đoàn 101 bí mật tiếp cận mục tiêu và nổ súng tiến công. Cứ điểm rộng, lực lượng địch đông dựa vào công sự ngoan cố chống cự.
Các phân đội hiệp đồng đúng theo kế hoạch, thọc sâu vào giữa đồn địch rồi tỏa rộng chia cắt địch, phối hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào: Gần sáng, trận đánh kết thúc. Hầu hết binh lính thuộc tiểu đoàn Angiêri số 27 và đại đội pháo 105 ly bị tiêu diệt. Ta thu ở Khăm Hc nhiều vũ khí, quân trung quân .dụng, trong đó có 4 khẩu 10 nguyện vẹn cùng với một ngàn viên đạn pháo.
Những người chiến tháng chưa ai ngờ tới là số đạn pháo chiến lợi phầm này một thời gian sau đó sẽ xuất hiện ở mặt trận điện Biên Phủ trong những ngày pháo ta đói đạn trầm trọng. Hai giờ sau, một đại đội lính Marốc từ Banaphào xuống cứu viện, lọt vào trận địa trung đoàn bị tiêu diệt gọn. Thừa thắng, trung đoàn tiến công tiếp vị trí Kha Ma, tiêu diệt tiểu đoàn Marốc vừa tới chiếm đóng.
Đêm ngày 23 tháng 12, theo kế hoạch, trung đoàn 66 mở cuộc tiến công vào khu 7ực then chốt ở Trung Lào: cụm cứ điểm Mụ Giạ, Banaphào. Nhưng chiến thắng của ta ở Khăm He, Kha Ma đã làm cho quân địch ở cả hai nơi này rút chạy. Cuộc công đồn biến thành truy kích.
Trung đoàn cắt đường rừng, vượt sông, bật kịp quân địch ở ngã ba Nacacham, tiêu diệt một số. Một tiểu đoàn Marốc từ Banaphào rút về, cùng một đại đội ngụy Lào chạy vào đồn Pa Cuội, dựa vào công sự đối phó. 66 tiến công đồn Pa Cuội, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn Marốc và đại đội ngụy Lào tại đây. Tướng Buốcgun với những lực lượng ở rải rác đã không thể ngăn chặn những đợt tiến công của ta.
Cũng trong hai ngày 23 và 24, một đơn vị bộ đội ta và bộ đội bạn tiến công Lại Sao, Căm Cớt, diệt một loạt vị trí dọn đường số 12, giải phóng thị xã Nhommarát, tiến vào Thà Khẹc. Toàn tỉnh Khăm Muộn với 40.000 kilômét vuông và hàng chục vạn dân được giải phóng. Cùng lúc trên mặt trận điện Biên Phủ ta chốt chặn được quân địch ở Pom Lót, tin vui từ mặt trận Trung Lào dồn dập bay về. Phòng tuyến Trung Lào tan vỡ. Trước tình thế đông Dương bị cắt làm đôi", Nava vội điều thêm một binh đoàn cơ động và một binh đoàn không vận từ đồng bằng Bâc Bộ vào, tổ chức Xên, nằm trên đường số 9 gần Xavanakhét, thành một tập đoàn cứ điểm với 10 tiểu đoàn.
Cuối tháng 12 năm 1953, quân địch ở Trung Lào đã lên tới 26 tiểu đoàn, trở thành nơi tập trung quân lớn thứ ba trên chiến trường Đông Dương. Chỉ trong đợt 1 chiến dịch, lực lượng của ta và bạn ở Trung Lào đã làm được những điều vượt dự kiến. 50.000 dân công các tỉnh từ Nghệ An trở vào đã cùng bộ đội lên đường qua nước bạn phục vụ chiến dịch. Ta sẽ còn những bất ngờ khác dành cho quân địch ở Trung và Hạ Lào. Nava đã buột phải phân tán khối cơ động ra ba nơi: đồng bằng Bắc Bộ, Tây Bắc, và Trung Lào.
Tại Điện Biên Phủ, một tập đoàn cứ điểm đã xuất hiện, chạy suốt chiều dài cánh đồng Mường Thanh, hai bên bờ sông Nậm Rộm. Về sau ta mới biết là ngày 3 tháng 12 năm 1953 Nava đã quyết định "chấp nhận chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Phương Tây coi đây là một sự chuyển hướng có tính chiến lược của Nava, vì Điện Biên Phủ không nằm trong kế hoạch mùa khô 1953 - 1954. Ta sẽ có dịp trở lại nhận xét này.
Cuộc chiến Đông Xuân 1953 - 1954 đã có bước khởi đầu thuận lợi. Một phần ba lực lượng cơ động của địch ở đồng bằng đã phân tán. Rồi đây khi mặt trận Tây Nguyên mở ra, địch sẽ . còn phải tiếp tục phân tán. Không còn phải băn khoăn nhiều về một cuộc tiến công lớn nhắm va o căn cứ địa kháng chiến của ta. Tôi lên Khui Tát chào Báo trước khi lên đường đi chiến dịch. Bác hỏi:
- Chú đi xa như vậy, chỉ đạo các chiến trường có gì trở ngại không?
- Các đồng chí Tổng tham mưu phó, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đều đã có mặt trên đó. Sẽ tổ chức cơ quan tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh để chỉ đạo chiến trường toàn quốc, kể cả bộ đội tình nguyện ở Lào và Campuchia. Anh Nguyễn Chí Thanh và anh Văn Tiến Dũng ở lại khu căn cứ, phụ trách mặt trận đồng bang Bắc Bộ. Chỉ trở ngại là ở xa, khi có vấn đề quan trọng và cấp thiết, khó xin ý kiến của Báu và Bộ Chính trị.
- Tổng tư lệnh ra mặt trận, "Tướng quân tại ngoại", Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định, rồi báo cáo sau.
Khi chia tay, Bác nhắc:
- Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh.
Tôi cảm thấy trách nhiệm lần này rất nặng. Ngày 5 tháng 1 năm 1954, tôi và một bộ phận cơ quan chỉ huy nhẹ lên đường đi Tây Bắc. Cùng đi, có đồng chí Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn quân sự Trung Quốc.