Từ rất xa xưa đã có tục lệ, mùa xuân tế mặt trời, mùa thu tế mặt trăng. Tế xong, mọi người cùng thưởng thức bánh dưới trăng. Phong tục này cứ kéo dài. Ngày 15 là ngày giữa tháng tám, cũng là giữa mùa thu. Đó là ngày trăng tròn nhất trong cả năm. Trăng tròn tượng trưng cho hạnh phúc tròn đầy, sự vuông tròn của ước mong. Là sự đoàn viên của các thành viên trong gia đình cũng như họ hàng và cộng đồng. Với trẻ em, được tung tăng chơi và ăn bánh, hoa quả dưới bầu trời có trăng sáng là một điều thú vị và say sưa lắm. Chúng thường nghêu ngao:
"Ánh trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có chú cuội già
Ôm một mối mơ…"
Với người lớn, người ta nhìn lên mặt trăng sang mát cảm thấy thanh thản như mình trẻ lại. Có khi họ nghĩ đến những kỷ niệm xưa, người xưa: trăng thề nhớ buổi hoa viên; vầng trăng ai xẻ làm đôi, ngẩng đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ quê hương, trông trăng lại nhớ đến người đêm trăng, nhìn trăng đang hát điệu vong tình; Thái Bạch ôm trăng lạnh; thuyền trăng Phạm Lãi luyến Tây Thi… Trăng là đề tài muôn thuở và chứa đựng biết bao nhiêu huyền thoại… Dần dà, người ta không tế trăng nữa mà bày cỗ và chơi dưới trăng. Xung quanh mâm cỗ, chủ yếu là trẻ con rồi đến các thành viên khác trong gia đình và khách. Các trẻ em đi rước đèn ngoài phố quê xóm ngõ, cánh đồng ven đô. Chúng tụ tập chừng 10 đến 20 cm, mỗi em mang một chiếc đèn thắp bằng nến. Đèn con thỏ, đèn ông sao, đèn xếp, đèn nổi, đèn lồng, đèn con cóc các em lớn hơn một chút đi đầu múa sư tử. Chúng vừa đi vừa hát, có khi đứng vòng lại với nhau rồi múa. Sau khi trước đèn, chúng về nhà phá cỗ. Chúng cùng ăn bánh dẻo, bánh nướng với mọi người và còn được chia thêm các hoa quả như hồng, na, chuối, bưởi, cam, ổi và các loại bánh bằng bột nướng hoặc rán mang hình các con vật thân thuộc như tôm, cá, thỏ, lợn, hươu… Mâm Cỗ được thắp sáng bằng nến, ở giữa có bày tượng một ông tiến sĩ giấy ngồi bảnh choẹ, có cờ có biển. Hình ảnh này tượng trưng cho sự hiếu học, lòng ham mê khoa cử. Bên cạnh còn được bày những con vật nhỏ xíu được nặn bằng bột và quét màu xanh, đỏ, vàng trông rất xinh và ngộ nghĩnh. Trong mỗi nhà, thường treo ở gian giữa một chiếc đèn kéo quân tạo nên những hình ảnh hoạt động của các nhân vật trong truyện như: ông già úp cá, Thị Mầu lên chùa, Thạch Sanh đốn củi, Lã Bố hí Điêu Thuyền… Những hình ảnh đó cứ diễu quanh nhiều vòng, in bóng vào mặt giấy của đèn, nhanh hay chậm là do ngọn nến ở giữa cháy to hay cháy nhỏ tạo nên gió chuyển nhiều hay ít. Bọn trẻ còn bận bịu và hồi hộp với những đồ chơi Trung thu như: quả đào úp mở theo bánh xe phía dưới chuyển động, tàu thuỷ chạy dưới nước, con thỏ đánh trống, con gà thổi kèn… bằng, sắt tây mấy hôm trước ngày rằm, một số em thiếu nhi hiếu động rủ nhau đi trồng đèn và kể vè. Chúng nắm tay nhau, xếp thành vòng tròn có tầng trên và tầng dưới. Những đứa ở tầng trên đứng lên vai những đứa ở tầng dưới. Một đứa tốt giọng kể vè, những đứa khác xen vào câu "Dô ta" để hưởng ứng. Ví dụ, chúng kể về việc làm ăn: “Tháng tám, bánh đúc ôm chua. Làng ta làm giấy, thua tài làng Đông". Hoặc để chế nhạo: “Con ngựa bạch đeo cái cương sừng Một cô con gái ôm lưng ông già…"
Mỗi năm, cứ đến Tết Trung thu, nơi nào cũng náo nhiệt. Nhưng đặc biệt náo nhiệt là ở mấy phố chính như Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường, Hàng Thiếc, Hàng Mã, chợ Đồng xuân và xung quanh hồ Hoàn Kiếm. Cũng có những đoàn múa sư tử, múa rồng của những người lớn thích chơi, những người mãi võ biểu diễn hoặc múa tranh giải do các nhà từ thiện hoặc các cửa hàng trao uý lạo cho đoàn nào múa đẹp và sôi nổi. Có năm lại xuất hiện một vài đoàn múa sư tử gồm toàn con gái mặc võ phục gọn gàng và dũng mãnh làm nức lòng mọi người. Ở vùng Bưởi, các em còn chơi trồng hoa trồng nụ, bịt mắt bắt dê, nhảy cừu, rồng rắn lên mây… trong những ngày trước và sau rằm tháng tám. Tết Trung thu là Tết truyền thống của nước ta, là Tết của các em thiếu nhi, nhưng người lớn cũng có phần. Nó làm sống lại quãng đời trẻ thơ không bao giờ trở lại của họ.
ĐÈN ĐÊM TRUNG THU
Nói đến rằm tháng tám, người ta nghĩ ngay đến múa sư tứ, phá cỗ, trông trăng. Người ta cũng nghĩ ngay đến những đêm rước đèn, đến những chiếc đèn Trung thu. Trước ngày rằm tháng tám, chuang nửa tháng, ở các chợ lớn, chợ nhỏ đã có bày bán đầu sư tử và những chiếc đèn Trung thu. Những cái đèn được treo từng dây dài, nhiều loại đèn, nhiều màu sắc cứ loá cả mắt. Nhưng tưng bừng nhất là những ngày 12, 13, 14 tháng 8, là những ngày họp mặt đông vui nhất của kẻ bán người mua.
Điểm đông vui nhất là ở phố Hàng Mã, cống chéo Hàng Lược và phố Hàng Thiếc. Có thể nói ở những nơi này, trên là trời dưới là đèn. Những dòng đèn thắp nến lấp lánh cứ chuyển động từ đầu phố đến cuối phố. Rồi ngược lại, dòng đèn cứ vòng vèo, nhấp nháy như những dòng sông trong biển người. Có đủ mọi loại đèn. Loại nào cũng đẹp, phải có những người khéo tay lắm mới làm nên được. Đèn con thuyền thừ (con cóc) thật cồng kềnh, có hai cánh tay dài và cái mồm ngoác ra, trông rất ngộ nghĩnh. Đèn cá chép đốt nến ở đàng đuôi, có bộ râu dài, mở mắt trừng trừng. Lại có đèn con cá đen, đàng sau của nó có thêm mấy con cá con cũng đen… Tại sao vậy? Người làm đèn muốn nhấn mạnh đó là cá chuối. Nó rất mực yêu các con, lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh vì đàn con, cá chuối đắm đuối vì con mà…Có em lại thích đèn quả đào đèn thỏ. Đèn thỏ đốt nến ở bụng, con thỏ được gắn liền với một cái khung có bánh xe. Đẩy thỏ đi, hai tay thỏ đập vào chiếc trống trên khung cứ kêu long bong. Nhiều nhất là đèn ông sao có cán dài, có sao 5 cánh và sao 6 cánh. Các em giơ cao đèn ông sao lên hát: "Cái đèn ông sao… 5 cánh tươi màu"? Đèn xếp có thể co giãn được do nhiều lớp giấy xếp lại. Còn có đèn quả dưa, đèn con cò…Đèn lồng trông chững chạc cứ đỏ rực lên cùng với những cánh bướm, cánh phượng bằng giấy trang kim dán xung quanh. Nhưng đẹp nhất, thú vị nhất là cái anh đèn kéo quân, còn gọi là đèn tướng hoặc đèn cù. Đèn có tám cạnh, có loại to, loại nhỏ, nhưng điều đặc biệt là bên trong đèn có đĩa đốt nến. Có một que dọc xuyên từ trên cao, đặt đầu nhọn lên đĩa. Dưới cái que dọc đó toả ra những nan nứa, tết lại thành một vòng tròn. Trên vòng tròn này dán những hình thù kỳ lạ. Ví dụ như hình một ông tướng đánh trận ngày xưa ngồi trên mình ngựa, cầm long đao, tiếp sau là những ông tướng khác và các quân lính, có khi lại là những hình ông sư gõ mõ, bà vãi tụng kinh, cũng có khi toàn là những con vật đuổi nhau, nào là sư tử, hổ, voi, ngựa… Do người ta đốt nến lên, làm nóng không khí, gây ra gió. Gió đẩy cái vòng có gắn những hình thù kể trên chuyển động vòng tròn. Những hình thù chuyển động trên vòng tròn được in bóng loang loáng lên trên nền giấy trắng mờ như là xem múa rối bóng. Người ta hát về cái đèn cù:
"Đèn ai sáng tỏ cái đêm hôm rằm voi giấy ôi a…
Ngựa giấy, tít mù ôi lại vòng quanh…
Khen ai khéo kết cái đèn cù…"
Đêm rằm tháng tám, các em ăn mặc sang trọng, rủ nhau đi rước đèn. Mỗi em giơ cao một chiếc đèn thắp sáng. Cái em đi thành hàng dài, vừa đi vừa hát theo tiếng trống… Hai bên hàng phố, có những nhà bày mâm cỗ ra ngoài hè, đón mời các em đến phá cỗ… Cái cảnh rước đèn đêm Trung Thu thật rực rỡ, náo nhiệt, hình ảnh mọi người vui vẻ, múa hát sẽ còn in mãi trong trí nhớ tuổi thơ…
ÔNG GIẲNG ÔNG GIĂNG
Không biết tự bao giờ, trăng đã đi vào thơ ca một cách rất tự nhiên, thân thiết và gần gũi với con người. Những cuốn sách, những truyện tình trên đời luôn đầy ánh trăng. Chàng trai Thăng Long xưa nuối tiếc mãi nhà em biết ở đâu đây, hỏi trăng Tô lịch, hỏi mây Tây hồ". Xa xưa nữa, ở nước ta có tục lệ "tế trăng” rồi đổi thành tục lệ thưởng trăng trong đêm rằm tháng tám. Trong cái đêm thiêng liêng ấy, người ta uống rượu ăn bánh dưới vầng trăng. Bọn trẻ thì hát "trống quân", "phường vải", thả diều sáo, múa sư tử. Các em được bày cỗ, phá cỗ, vui chơi thoả thích, nô đùa, nhảy ngựa, chơi bịt mắt bắt dê dưới ánh trăng sáng như gương. Người nông dân nhìn trăng mà biết thời gian và dự báo thời tiết. Họ tính thời gian bằng tuần trăng: “Xa nhau đã mấy tuần trăng lặn”! Nhìn trăng mà sinh tình: Nhìn trăng ta hát điệu vong tình" hoặc: "Nhìn trăng ta hát giọng suông hời…".
Trong thần thoại, đồng dao, ca dao của ta luôn nhắc đến chuyện trên ông trăng có chị Hằng Nga xinh đẹp, con thỏ ngọc và thằng Cuội ngồi gốc cây đa. Cô thôn nữ tinh nghịch nói nhỏ: “Sáng trăng em nghĩ tối trời, em ngồi em giở sự đời ra coi”: Chúng ta không thể quên được vầng trăng chinh phụ trong câu: “Trông Tràng thành long lay bóng nguyệt" của "Chinh Phụ Ngâm"? Trong Truyện Kiều, Thúy Kiều và Kim Trọng thề thốt dưới trăng: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai mặt một lời song song". Trăng của Hàn Mặc Tử dí dỏm và đa tình. Trăng thành Huế bi hùng, trăng sông Hương mơ mộng. Trăng xứ Lạng tắm nàng Tô Thị chờ chồng ngàn năm. Người xa nhà có vầng trăng đất khách, trăng viễn xứ. Đôi trai gái reo lên: "Sáng trăng sáng cả vườn đào sáng sang vườn mận, sáng vào duyên nhau"?… Người con trai khóc và trách người con gái: sao em lại thề với anh trong một đêm trăng khuyết để bây giờ…" Những gì về cái đẹp, về tình yêu, về người con gái thường được gắn với hình ảnh của trăng. Chuyện trăng hoa giăng gió là chuyện giữa nam nữ lúc tình yêu đang chín. Lời thề dưới trăng gọi là trăng thề. Lâu đài đón trăng ở đền Ngọc Sơn gọi là Đãi nguyệt lâu. Các cô gái hay lấy tên là Nguyệt, lông mày cong của cô gái được gọi là nguyệt mỹ. Ở các đình, miếu, chùa thường có những công trình điêu khắc hoặc chạm trổ gọi là lưỡng long chầu nguyệt. Cái tuổi dậy thì của người con gái được gọi là tuổi trăng tròn. Đường trăng là con đường xanh bóng trăng. Người có tấm lòng tốt gọi là người có lòng dạ sáng như trăng sao. Thế rồi, còn thuyền trăng, gạo ba giăng, bánh mặt trăng, đàn mặt trăng hay còn gọi là đàn nguyệt. Cô gái được coi như mặt trăng khi người tình của cô nói với cô: "Yêu trăng thương lấy ngày trăng rụng"? Mấy cô gái đến rủ bạn đi chơi, cô bạn không đi được và trả lời: "Hôm nay trăng ẩm… cho em ở nhà"? Có hàng triệu cách tả mặt trăng: trăng tròn, trăng non, trăng vuông (trăng nhòm cửa sổ mặt trăng vuông) trăng suông, trăng vằng vặc, trăng nằm soài sãi, trăng khuyết, trăng rụng, trăng lên, trăng đứng, trăng treo (đầu súng trăng treo), trăng già, trăng lưỡi liềm, trăng thanh, trăng ngà, trăng bạch, (trăng thu bạch), trăng dựng (thong thả trăng non dựng cuối làng), trăng lạnh (Thái Bạch ôm trăng lạnh), trăng lưỡi liềm, trăng trần truồng (Ơ kìa! bóng nguyệt trần truồng tắm), trăng lặn, trăng lu…vv. và.vv… Người ta nói chuyện với trăng, vui với trăng, buồn cùng trăng, than thở với trăng như với người tri kỷ: Đêm khuya, buồn lắm chị Hằng ơi!…
Trăng là bạn của tất cả mọi người. Trăng biểu hiện gợi ý và nhắn nhủ mọi người nhiều điều. Trăng là nguồn cảm hứng vô tận và chia sẻ nỗi lòng với con người. Trăng là thi, ca, nhạc, hoạ… là vẻ đẹp vĩnh hằng.
ĐÁM CƯỚI NGÀY XƯA
Ngày xưa, trừ những đám cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thì hầu hết là các chàng trai nhờ bạn thân hoặc ông chú, ông cậu mách mối rồi trình bày với cha mẹ. Cũng có những chàng trai giả vờ làm người đi mua lợn giống hoặc mua cau để có cớ đến nhà cô gái. Và cũng có những cô gái sắm vai người đi mua lá dâu hoặc mua chè để có cơ hội đến nhà chàng trai để tìm hiểu. Để xây dựng mối quan hệ giữa hai gia đình, nhà trai phải mượn người làm mối sang ướm lời bên nhà gái. Những ông hoặc bà mối này ăn nói rất khéo. Nhiều khi còn nói có vần có điệu rất dễ đi vào lòng người. Nếu nhà gái đồng ý thì bên nhà trai làm lễ chạm ngõ.
Lễ giản đơn nhất là vài chục quả cau, xếp lá trầu, mấy gói chè. Sau đó, nhà trai phải đi lại với bên nhà gái qua vài cái Tết rồi mới được làm lễ ăn hỏi và cưới. Trong giai đoạn này, nếu là tết Nguyên Đán, nhà trai phải mang sang biếu nhà gái mứt, chè, bánh chưng. Việc biếu này gọi là "đi xêu". Tết Đoan Ngọ thì "xiêu" bằng đôi ngỗng. Tết cơm mới thì "xêu" bằng gạo mới và gà.
Ở nông thôn xưa, nhà nghèo thì cô dâu sắm chiếc áo ngắn, thắt lưng hồng hoặc hoa lý và một chiếc nón che mặt để về nhà chồng, rồi sau đó che nắng, che mưa khi lao động. Nhà khá giả thì may cho con gái cánh sen, áo cánh trắng. Ngoài là áo (dài nõn chuối rồi áo màu mỡ gà. Hành trang còn có áo the hoặc áo sa đen, khăn nhiễu tím hoặc nhung đen, thắt lưng hồng đào hoa lý, nhiễu tím ba chiếc, ruột tượng sồi, khuyên vàng, xà tích, ống vôi bằng bạc. Váy trong màu hồng đào Váy ngoài là lĩnh tía. Chân đi dép cong. Lễ rước dâu thường đi bộ. Nàng thì vui, gặp mưa, quần áo, dò đường đi từng bước. Nhà trai khá giả thì có ngựa, có võng. Sáu, bảy con ngựa cho cụ cầm hương, cha cô dâu, cha chú rể và chú rể cùng đôi ba vị chức sắc cô dâu ngồi võng đào… Đám cưới thường chọn năm, tháng, ngày, giờ tốt lành nhất cưới vợ xem tuổi đàn bà. Làm nhà xem cách… Đón dâu về nhà trai, cô dâu và chú rể phải làm lễ tơ hồng. Trong lúc đó, có một ông chú hoặc ông bác nào đó tốt giọng nói lên: "Dù trai dù gái cũng xin báo điềm vui cho sớm. Dù giàu, dù nghèo, dù sang dù hèn cũng xin được ăn ở với nhau đến trọn đời, mãn chiều xế bóng…". Sau lễ tơ hồng, cô dâu phải vào lạy cha mẹ chồng, vừa ra mắt vừa nhận nhiệm vụ gia đình gọi là gánh vác giang sơn nhà chồng.