Mới hôm qua, bữa tiệc tiễn đưa tàn đi một cách dễ dãi như bữa ăn phiếm nào đó, ai cũng quên nghĩ rằng đấy là bữa tiệc cuối cùng để rồi trong tụi bạn lại vắng đi thêm một đứa. Nghĩ đến cái chết quá mới mẻ của Tuân, sự ra đi của Bách - mỗi người vắng mặt nột cách thế khác nhau cho những ước vọng tương lai.
Ra đến phi cảng đã chín giờ rưỡi tối, không khí ban đêm thoáng mát dễ chịu. Xe du lịch, xe hãng hàng không đậu thành từng dẫy trên một khoảng đất trống. Số hành khách không bao lăm mà số người tiễn đưa nhiều quá đến nỗi trong phòng đợi chật ních. Gia đình Bách có lẽ đông hơn cả. Mẹ Bách dẫn con tới trước mặt mọi người:
“Các bác và anh chị hôn em nó đi kẻo năm năm không gặp lại nhớ.”
Bách cao sẵn, tới trước mặt mọi người phải cúi xuống, những chiếc hôn nhẹ ngượng ngập nhưng đầy thương mến. Bách có vẻ cảm động thật sự, riêng mẹ Bách miệng vẫn tươi cười nhưng nước mắt chảy quanh. Mỗi người xiết tay cầu chúc điều mới tốt lành nhất.
Ông Huyên bố chồng chị Dung, chị thứ ba của Bách cười bảo đùa:
“Cậu có đi thì ít nhất phải cố cho được bằng anh là tốt lắm rồi.”
Anh đây là Lý chồng chị Dung. Nếp sống của Lý có lẽ là mẫu mực mà các cụ vẫn thích, nhưng Bách không có cảm tình với anh từ lâu. Bách trả lời có vẻ tự tin:
“Dạ nhưng nếu hơn nữa thì sao ạ?”
Ông Huyên chỉ cười xoà. Bản chất ông hay đùa và vốn dễ tính. Riêng bà Huyên vẻ mặt không được vừa ý, Bách cũng nhận thấy thế, lúc này điều đó không có gì là quan trọng. Bách nghĩ, phải Lý có học thức, còn trẻ lại đẹp trai, mẹ chàng cũng bảo thế, nhưng với Bách, Lý có vẻ xanh xao yếu đuối, dáng mặt xương xương, nụ cười dù tươi tắn, Bách nhận thấy cái vẻ rất đàn bà nơi anh. Bách vốn thiên về lý tưởng, hồi Lý mới dạm hỏi chị Dung, chàng đã có ý không thích. Cùng lúc đó, Khoa học năm thứ tư trường thuốc tới hỏi, Bách tán thành ngay, chàng thấy mến Khoa vì tìm thấy nơi đời sống anh một sắc thái riêng biệt với một cá tính đáng yêu. Nhưng mẹ chàng không nghĩ thế; hơn nữa việc hôn nhân của chị Dung phần lớn tuỳ chị và mẹ chàng, Bách đâu có được quyết định gì. Chị Dung cũng có vẻ mến Khoa hơn nhưng mẹ chàng thực tế lý luận:
“Thằng Khoa mẹ cũng mến lắm, nhưng nó mới năm thứ tư. Nếu nhận cho nó cưới thì con gái mẹ cũng khổ. Nó học quân y lúc ra nay đây mai đó, tiền lương chẳng bao nhiêu lại còn gia đình bà mẹ già và một lũ em nhỏ nữa, lấy nó con mẹ cũng vất vả. Đằng này thằng Lý con bác Huyên tốt nghiệp kỹ sư ở Pháp, đã có việc làm chắc chắn, nó lại được cấp nhà ở rộng rãi, bố mẹ nó không cần bắt nó giúp đỡ gì, mai kia nó còn đi dạy học thêm thiếu gì lương. Chả gì con gái mẹ cũng đỡ nhọc thân cái đã.”
Bách không phản đối mà cũng chẳng tán thành gì cuộc hôn nhân đầy tính toán này. Tình cảm Bách thật khó cứu vãn nhất là sau khi Lý hỏi Dung:
“Liệu mẹ có thể cho chúng mình sau khi cưới một chiếc xe và thứ gì khác nữa không?”
Điều Lý nói ra Bách cho đó là đào mỏ hèn hạ không xứng đáng; cho nên khi ông Huyên lấy con trai mình làm đối tượng khuyên răn khiến chàng thấy khó chịu. Hành lý sách vở mang theo quá mười cân, Lý tất tưởi chạy đi xoay sở, lúc trở ra Lý tươi cười vỗ vai Bách:
“Xong cả rồi, anh đã bảo mấy nhân viên họ thu xếp xong.”
“Thật may quá, không phải bỏ lại cuốn sách nào!”
Bách thốt ra như thế, chàng tự nghĩ giá mình bỏ được tất cả những thành kiến về Lý đi có hơn không, nhất là đã đến lúc này. Tuy nghĩ thế, Bách cũng chẳng quyết định thêm được gì hơn. Vũ theo chân Bách ra trạm soát vé, ngồi phía trong là mấy cô chiêu đãi hàng không trẻ đẹp và niềm nở tươi tắn. Vũ để ý tới Ngân, người con gái chợt ngẩng mặt nhìn lên, nàng linh tính là có người đăm đăm nhìn nàng. Hai ánh mắt gặp nhau, Vũ mỉm cười trước, Ngân cười theo vẻ mặt sáng rỡ hẳn lên. Ngân tuy hơn Vũ mấy tuổi nhưng trẻ đẹp và linh hoạt trong khung cảnh tấp nập bận rộn. Như chưa từng bao giờ, chàng thấy Ngân đẹp rực rỡ như đêm nay.
Bách theo Vũ ra sân, bên ngoài gió hơi mạnh và gây lạnh đến rùng mình. Hai người đi sát nhau yên lặng, xa dần tiếng ồn ào. Bóng tối lớn dần chùm lấy khuôn mặt Bách. Vũ nói:
“Dù xa cách khá lâu, tôi mong cậu vẫn xứng đáng cho đến lúc trở về.”
Bách nắm chặt tay Vũ nói giọng xa vời:
“Tôi cũng cố tin như thế, sang đó nếu có một vài thay đổi về thói quen và nếp sống, còn tâm hồn tôi vẫn cố định, điều ấy làm cho tôi vui mừng.”
“Điều quan trọng là phải giữ vững chỗ đứng trong mọi hoàn cảnh với quy ước tổng quát nhất của đời sống chúng mình đã có.”
“Trong một hoàn cảnh như hiện tại tôi không muốn ra đi, năm năm sẽ bao nhiêu biến đổi của đất nước mà tôi không được tham dự vào, nhưng cuối cùng tôi nghĩ sự nhiệt thành không chưa đủ, tôi cần ra đi để tìm kiếm một khả năng xứng đáng. Mong cậu viết thư cho tôi luôn, một phương tiện để giúp tôi được sống một phần nào cái đời sống của quê nhà, nơi mà tôi mong ngóng sớm được trở về dùng những gì tôi đã thâu lượm được ở nước ngoài.”
Về đêm trời có vẻ lạnh, mấy hạt mưa rơi lác đác, dần dần thay thế bởi một thứ sương nặng hạt như mưa phùn. Cả hai quay về phía phòng đợi:
“Giống mưa phùn ngoài Bắc quá.”
Vũ cười nói:
“Ở đây thì nghĩ quê hương là Hà Nội chứ sang bên đó ý nghĩa quê hương chỉ là nuớc Việt Nam duy nhất.”
“Đúng thế, lúc sắp ra đi tôi mới biết sự quyến luyến mảnh đất này là thế nào.”
Phía trong chị Dung chạy ra:
“Gớm các em đi đâu mà chị kiếm mãi không thấy. Mẹ đang sốt ruột tìm Bách, sắp đến giờ rồi đấy!”
Vũ cúi nhìn đồng hồ:
“Còn sớm chị ạ, mới mười một giờ.”
“Nhưng cứ sửa soạn dần đi là vừa, không có lúc ấy lại lúng túng quên hết.”
Chiếc Jet từ Úc đã đến phi cảng từ nãy. Cũng vào thứ Năm đêm nay, Bách sẽ đáp chuyến Constellation cất cánh vào nửa đêm. Mươi phút sau, chiếc Jet sưả soạn cất cánh, hiện ra như một bóng trắng vĩ đại từ từ chuyển bánh tới cuối sân bay. Tiếng động cơ rít lên như xé tai, chiếc Jet lao mình vào bóng đêm, lúc qua khán đài bánh sau đã rời khỏi mặt đất. Bách chạy xuống phòng đợi khi có tiếng phóng thanh vang vang mời khách vào sân bay. Người tiễn đưa, kẻ ra đi, bắt siết tay nhau, ôm nhau lần cuối.
Hành khách đi bộ ra sân bay, hành lý nhẹ nơi tay, nối đuôi nhau một hàng lầm lũi đi trong bóng tối mờ mờ sương trắng đục. Vũ liên tưởng tới những cuộc hành quân tiếp viện ban đêm, những chàng trai trẻ ra đi ném mình vào không gian đen tối hiểm nghèo: lúc đó chánh nghĩa, sự sống còn... dòng tư tưởng như bị dứt hẳn khi thấy Bách nơi dưới chân máy bay còn quay lại cố vẫy tay liên tiếp. Mỗi người trên khán đài đều tung khăn tay ra dấu vẫy laị.
Chiếc Constellation lướt trên sân bay ướt đen loáng để lại một khoảng sân bay trống trải lạnh lẽo. Vẻ nhộn nhịp và hoạt động của phi trường đã nhường chỗ cho sự uể oải vắng lặng của đêm khuya. Tiếng rồ máy của những chiếc xe đỗ bên ngoài cách quãng và xa dần. Vũ xuống tầng dưới thì gặp Ngân cũng sửa soạn ra về;
“Làm việc khuya thế mà Ngân không buồn ngủ và mệt?”
Ngân vẫn nụ cười tươi lúc nãy:
“Anh tính cũng quen đi chứ, cả ngày chỉ có một nửa buổi tối có gì đâu anh.”
Chàng im lặng nhìn Ngân với vẻ trìu mến khác thường, người con gái trong nghề nghiệp vốn rất tự nhiên nhưng trong một hoàn cảnh như lúc này cũng có vẻ ngượng ngập. Vũ buột miệng nói tự nhiên thay cho một câu khen:
“Phải thức đêm, thế mà Ngân vẫn đẹp ra nhiều lắm.”
Ngân nhìn Vũ rồi nhìn ra ngoài vui vẻ đáp:
“Làm việc khuya về ngủ ngon ăn nhiều, mập ra Ngân sợ lắm. À vừa rồi anh ra tiễn ai đấy?”
“Tiễn một anh bạn đi học Lyon không ngờ lại gặp Ngân. Thế chuyến bay có ghé nhiều nơi không?”
“Dạ có ghé mấy nơi như Bangkok, Karachi, Beyrouth nhưng chỉ có chuyến ghé Rome là lâu nhất, có hy vọng được viếng phong cảnh nơi đó. Còn anh bao giờ đi cho Ngân tiễn?”
Câu hỏi thăm dò được Vũ đáp lại với nhiều tình ý:
“Tôi thì còn lâu, khi Ngân không còn là cô Ngân nữa lúc đó may ra mới đi.”
Tiếng Ngân cười trong trẻo. Vũ bắt tay Ngân, họ quen nhau nên vốn tự nhiên nhưng lúc này cái cảm tưởng thật dịu dàng khi cầm bàn tay nhỏ tháp bút đẹp và ấm áp. Rời phi trường Vũ bảo Hiển cho xe chạy thật mau; tốc độ lúc này có công dụng giữ nguyên vẹn những cảm giác êm ả.
*
Số bệnh nhân mới qua một đêm, tăng lên gấp bội. Một số người phải nằm trên băng ca dưới đất chờ mổ. Vũ đến phòng thay áo và mang khẩu trang, trước khi vào phòng giải phẫu. Trên bàn mổ bệnh nhân đã được đánh thuốc mê, cô y tá lạnh lùng và thành thạo sắp các dụng cụ dao kéo trên khay. Hỏi y tá chàng được biết nạn nhân đang đứng thơ thẩn trước nhà không dưng quỵ xuống máu ra lênh láng, khiêng vào đây mới biết đạn trúng vào bắp chân. Ánh đèn phản chiếu trên gọng kính vàng lóng lánh, thầy học vũ đưa tay rạch những nét mạnh thành thạo, chính xác kẹp ngay những mạch máu bị đứt vỡ và gắp viên đạn ra một cách dễ dàng. Thầy để cho mấy sinh viên phụ mổ khâu lại vết thương rồi bước vội ra ngoài. Nội trú Khoa lúng búng qua mạng khẩu trang nói với cô y tá:
“Cô An giữ cho tôi viên đạn đó, gác mới một đêm qua đến giờ đã gắp được sáu viên.”
Thái bạn cùng lớp với Khoa xen vào:
“Không viên đạn này tôi giữ làm kỷ niệm, anh lấy gì mà lắm thế?”
Cả hai vừa làm việc vừa tranh giữ viên đạn, xen vào là tiếng cười trong thanh và ấm áp của Huyền cô y tá phòng mổ… Vũ hé cửa bước ra ngoài, trong biến động không khí nhà thương vẫn bình thản và bận rộn. Trong phòng trực, mấy cô y tá, y công, mọi người xúm quanh chiếc radio transitor nhỏ xíu, hồi hộp theo dõi tin tức đảo chánh. Tiếng nói như ngạt mũi lẫn với những nhiễu âm không nghe thấy gì. Vũ đứng yên giữa phòng quan sát, mọi người không ai để ý đến sự có mặt của chàng, như thế càng hay, Vũ nghĩ thế. Căn phòng y tá trực nhỏ nhắn sạch sẽ, cách trang trí ấm cúng với bàn tay người đàn bà khiến chàng có cảm giác thật yên tĩnh và dịu dàng. Vũ thấy như bao giờ, mỗi khi chàng phải sống với những ý nghĩ khắc khổ, trước những khó khăn và nghịch cảnh, sự hiện diện của người đàn bà dù chưa quen biết vẫn đem lại cho chàng những cảm xúc êm dịu và nhẹ nhàng.
Ngoài tiếng bàn tán và tiếng cười khúc khích của đám người xúm quanh chiếc radio, Vũ thấy tấy cả còn lại là sự yên tĩnh. Chiếc quạt trền cũ quay chầm chậm với những tiếng kẽo kẹt đều đặn như nhịp đưa võng. Chàng nghĩ tới nhà thương như một nơi bất khả xâm phạm của các tai hoạ chiến tranh. Nhưng trong đầu óc chàng lại tưởng tượng ra cảnh tàn phá của bom đạn, sự xụp đổ điêu tàn nơi đây. Chàng thấy các bệnh nhân mệt lả rên xiết trong bộ áo trắng, lồm cồm bò giữa đống gạch vữa như những con bọ trắng ngầy ngụa trong một đống rác. Vũ hơi rùng mình, đồng thời chàng thấy đời mình có thể hy sinh trọn vẹn cho những nơi như đây, cho những con người bất hạnh của chiến tranh và bệnh tật cần được chăm sóc. Một ý nghĩ tương phản hiện tới, Vũ tự hỏi không biết chính chàng đang mong muốn gì, chàng có đang thực sự theo đuổi cái mình tha thiết mong muốn hay không? Trước những biến chuyển như hôm nay, sự xáo trộn laị tới để xâu xé đời sống chàng.
Vũ rời nhà thương với bao ý nghĩ vô định. Ra đến Nhà hát lớn, cảnh phố xá vắng ngắt, nền gạch trắng rộng trống trải và thẳng tắp. Bất chợt, một tràng đạn xé tai không biết từ đâu tới, một thân xác người từ gác hai rơi xuống như một bị cát. Dưới gốc cây lớn, một người lính chết ngồi co ra cạnh khẩu súng, vũng máu đã đông và đen lại, mặt mũi xanh ngắt và xám xỉn. Phía xa một chiếc xe Jeep chạy ngược chiều phóng tớ như bay, một chiếc khác nữa ló ra: họ vừa quần đuổi nhau trước Nhà hát lớn vừa nhả đạn. Vũ lánh vội vào một quán hàng ngay đó. Chàng thấy rõ trên xe một người ngã gục về phía trước trong vòng tay một đồng đội. Trên tầng gác cao, mấy bóng người nhỏ nhắn di động, tuôn từng tràng đạn xuống đường xoẹt lửa, bẻ gẫy mấy cành cây, lá bay rụng loả toả. Khi hai chiếc xe Jeep biến mất dạng, Vũ đi nép theo các hàng hiên và tiến ra phía chợ. Bóng người lưa thưa còn đi lại khiến chàng hơi vững dạ. Trên một chiếc xe ba bánh chở hai thường dân máu me đầy mình và bả vai, máu vẫn ra xối xả trong lúc người phu xe gò mình cố đạp mà Vũ thấy hai bánh trước vẫn như quay rất chậm và bình thản.
Đến giữa trưa Vũ trở về Đại học xá. Dọc đường các cửa hiệu đóng cửa, trước nhà từng nhóm người đứng bàn tán, phỏng đoán. Đường phố có cái vắng vẻ là lạ như mấy ngày trước Tết, ai nấy đều ở lại nhà để sửa soạn trang hoàng nhà cửa bên trong. Cổng chính của cư xá khoá hẳn, cửa bên cũng đóng và có người canh gác. Bữa cơm thay đổi trông thấy, chỉ vỏn vẹn một bát canh tôm khô trong vắt, một đĩa tôm khô kho mặn và muối vừng. Hôm nay Vũ thấy lạ miệng và đói nên ăn rất nhiều cơm.
“Ấy cứ sắp loạn thì ăn khoẻ dữ dội hơn ngày thường.”
Ai cũng cười và có vẻ tán đồng ý kiến đó. Ăn xong Vũ trở về phòng, nằm chờ một giấc ngủ đến chậm rãi. Lúc tỉnh dậy, chiếc radio phòng bên vẫn lải nhải đọc lại bản thông cáo đã phát từ buổi sáng.
*
Vũ tỉnh dậy lúc trời đã sáng hẳn, mọi chuyện hôm qua bây giờ đối với chàng như một giấc mơ của ban đêm. Tiếng hót trong trẻo của mấy con chim chào mào trên cây trứng cá trước cửa phòng nghe vui vui. Chàng muốn nằm im như thế để thưởng thức cái tê mỏi dễ chịu sau giấc ngủ. Vũ khẽ cựa mình co chân lại nhức nhối lại tới. Vũ hoang mang và cũng biết chắc rằng sự hãi hùng là có thật và còn đang tiếp diễn. Vũ trở dậy vẻ băn khoăn hiện rõ trên nét mặt, cơn đau nhức nhối trở lại, miệng đắng và gây gây như lên cơn sốt.
Sáng nay như theo một tiếng gọi xa xôi, Vũ thấy mình lại phải ra đi. Sự yên tĩnh của đêm qua như báo trước cho những đụng độ lớn lao sắp tới. Các ngả đường phố chính đều có chiến xa canh gác, mũi súng chĩa vào trung tâm thành phố, kèm theo những băng đạn đồng sáng loáng thả dài lê thê. Dân chúng mon men lại gần các xe bọc sắt, trèo lên đứng nghe ngóng, chuyện trò với những người lính. Thái độ bình thản, tò mò đến liều lĩnh của đám người này khiến vũ có cảm tưởng đây là một cuộc duyệt binh thao diễn hơn là một chính biến với đụng độ đổ máu thực sự giữa hai lực lượng. Thỉnh thoảng không biết từ đâu, một tràng đạn nổ dài, đám đông lại xô đẩy nhau, vứt cả xe đạp nón mũ ù té chạy. Xem tình thế yên yên, họ lại mon men tụ lại và di chuyển tới gần.
Phía toà án tiếng súng bắn trả nhau dữ dội, những viên đạn bắn tới xoáy thành lỗ trên thành tường xám đen, phá tan những mảng kính cửa sổ. Số dân chúng hiếu kỳ ở đây có vẻ đông hơn. Họ nấp sau những bức tường dày kiên cố, lẫn trong đám đông đó là các phóng viên ngoại quốc lăm lăm máy ảnh nơi tay như đang chờ đợi một pha gây cấn bất ngờ.
Lại một tràng đạn nổ lớn. Khói và lửa từ chiếc xe tăng nốc lên ngùn ngụt. Vũ nghe thấy tiếng người la hét lớn quá át cả tiếng đạn. Một người từ trong tháp xe phóng mình ra vì sức nóng, có lẽ cả bị trúng đạn nên ngã gục ngay cạnh chiếc xe đang bốc cháy ngùn ngụt. Tiếng rên rỉ lồng lộn của người kẹt trong xe nghe thê thảm và yếu nhỏ dần. Vũ thấy rõ từng lưỡi lửa đỏ và khói đen liếm lấp cả mặt người đó. Chiếc xe tiếp tục cháy như một bó đuốc, thỉnh thoảng có vài tiếng đạn nổ bên trong vì quá nóng. Một phóng viên người Mỹ phóng tới quỳ gối bấm ảnh liên tiếp. Đạn từ bên trong Dinh vẫn bắn ra. Vũ thấy người phóng viên vẫn ôm chắc chiếc máy ảnh tập tễnh chạy, máu chảy đầm từ đầu gối. Nửa giờ sau ngọn lửa nhỏ dần để trơ lại chiếc xe còn nguyên hình và cháy xém, bên trong là một xác chế ngồi, hai tay cháy thành than, mặt nứt nẻ, mắt nổ tung lòi cả ra ngoài. Xác chết cạnh đấy cũng cháy hết cả quần áo. Còn lại sau đó là sự vắng lặng và chết chóc.
Vũ len lỏi tìm đường về, qua những con đường lạ xa xôi diệu vợi. Số người và xe cộ bị đổ dồn về một chiều nên tạo thành một luồng rối loạn và đông đảo. Chàng bị đám đông vô ý thức kéo theo đi. Tiếng còi, tiếng kèn, tiếng la hét, tiếng súng nhỏ và cả tiểu liên vẫn nổ lác đác ở phía sau.
Vũ trở về cư xá khoảng mười một giờ, tâm trạng bơ vơ. Chàng nghĩ sáng nay nếu một viên đạn vô tình ghim vào lưng chàng thì mọi sự vẫn y nguyên. Sự tới và ra đi của đời sống mỗi người như chàng không mang chút ý nghĩa nào với tình hình biến chuyển. Có chăng chỉ là lưu lại nơi vài người thân yêu chút niềm thương nhớ ban đầu rồi sau đó mờ nhạt dần với thời gian năm tháng - sự đương nhiên là thế, ai mà giữ mãi nỗi u buồn trong lòng.
Hình ảnh một tháp chuông cao vút với chiếc thánh giá nổi bật trên nền trời xanh đã in sâu vào tâm trí Vũ thời thơ ấu nay không còn nữa. Những toà nhà chọc trời kiêu hãnh vươn lên, đón hết mọi ánh sáng, biểu tượng cho sự tiến hoá quá nhanh của con người về vật chất; ngôi nhà thờ quét vôi màu xám cũ cố thoi thóp vươn lên để đón nhận chút ánh mặt trời thừa thãi. Vũ cho đó có ý nghĩa tượng trưng sự thất bại tiến hoá của tinh thần con người, kéo theo cả sự lung lay tới cỗi rễ đức tin. Những buổi chiều ở học xá, chàng nhớ lại lúc gặp Phong, khi nghe chuông nhà thờ vẫn chán nản và kiên nhẫn rung lên; Phong buồn rầu bảo chàng: “Từ ngày về đây, tất cả Âu châu còn lại với tôi là tiếng chuông nhà thờ này”. Câu nói đó Vũ cho bao hàm một ước vọng thiêng liêng, một khát khao hướng thượng của linh hồn mà ít ai đạt tới. Lúc chiều tà không khí giáo đường gieo vào tâm hồn chàng những ý nghĩ xa xôi – thời khắc ấy đối với Vũ như những cơ hội duy nhất để chàng cảm thông với những ý lực huyền bí. Nhưng ở những lúc khác, đời sống xã hội trả lại cho chàng những bộ mặt nguyên cũ của những mâu thuẫn vô lối và bất tận. Chàng đã có lần mỉm cười ngạo mạn và châm biếm khi thấy trên chiếc thánh giá của đỉnh nóc nhà thờ còn đính theo một cột thu lôi. Hình ảnh người lính lăn lộn trong vòng lửa hay ngã quỵ dưới làn đạn gợi trong óc Vũ bao câu hỏi: “Rồi sao nữa, hết cả rồi chăng”. Có lần chàng muốn trở thành vô tri giác, không còn biết rung động hay suy nghĩ gì nữa…
Quán cơm sinh viên còn yên lặng, chưa một bóng người. Ba dãy bàn chạy dài tới tận cuối phòng. Từng chồng bát đũa sắp liên tiếp. Mấy chiếc quạt trần ngả màu vàng khói đứng bất động. Tất cả như bình thản đến lãnh đạm để chờ sự náo nhiệt sắp tới. Từ nhà dưới, người bếp thong thả bước lên, gặp Vũ ông nhe hàm răng đen ra cười:
“Chào ông, hôm nay ông cần ăn cơm sớm?”
Chàng trả lời vui vẻ:
“Không, tại về sớm đi quanh quẩn nên tạt qua.”
Ngưng một lúc chàng quay lại hỏi:
“Sao ông không về nhà lúc này, đêm qua chỗ ông động tĩnh ra sao?”
Ông ta cười phơi hàm răng đen đã phai sang màu nâu nhạt, đáp:
“Dạ mà về sao được khi các ngài còn ở cả lại đây. Công việc anh em chúng tôi là sắp dọn ngày hai bữa trước đã, còn công việc gì có đến đâu cũng là sau. Vả lại mấy ông bếp kia đã kiếm cớ nghỉ cả rồi, tôi cũng xin nghỉ nữa thì làm sao… Nhà tôi cũng không muốn cho tôi đi làm trong lúc này nhưng công việc không đừng đuợc nên tôi cứ vác xe ra đi.”
Chàng nhìn người bếp rồi nở nụ cười tỏ cảm tình. Trong số những người giúp việc ở đây từ hồi di cư, ông ta là người khéo léo đức hạnh hơn cả. Ông có đaọ Thiên chúa và tin tưởng mạnh mẽ. Vẻ mặt ông điềm đạm và thoáng một chút khắt khe với chính mình bộc lộ qua cặp mắt hơi nheo lại, vầng trán cao hơi gợn nhăn. Có lần ông tâm sự là ở ngoài Bắc trước kia ông cũng thuộc hàng hương phẩm trong làng, cả ngày không phải mó tay vào việc gì, chỉ quanh quẩn giồng hoa trông vườn tược, đến dịp hội hè thì vác ô ra làng cùng ngồi vào hàng chiếu trên chiếu dưới. Nhắc lại cái quá vãng mà ông cho là oanh liệt, mắt ông mơ màng, vẻ mặt bâng khuâng nhớ tiếc. Có điều mà Vũ lấy làm lạ là một người nặng tình cảm như ông lại có thể bỏ phắt cả vợ con ở lại, một mình đi vào Nam. Ông than với Vũ:
“Nhà tôi hồi đó còn đần lắm ông ạ, nó chỉ tiếc ngôi nhà với mảnh vườn và dăm xào ruộng. Nó bắt giữ tôi lại, còn tôi thì tôi biết rõ muốn sống còn đức tin, muốn có ngày về thì phải dứt khoát ra đi. Nó không chịu, nó giữ hết con lại, sau hồi dằng co không xong, tôi vứt bỏ hết và đi vào đây. Chả giấu gì ông bấy giờ vào trong này đang bơ vơ, gặp được người cùng làng, chúng tôi lấy nhau và thấm thoát cháu đầu lòng cũng đã lên bốn.”
Vũ nhớ laị có lần bà vợ tới xin phép cho chồng nghỉ vì ốm, hình ảnh người đàn bà Bắc kỳ trẻ hơn ông đến một giáp, tươi cười với hàm răng đen láy, với những bước chân đi chắc chắn khoẻ mạnh, gợi lại hình ảnh của các cô gái quê miền Bắc. Chàng vui vui với ý nghĩ “Chiến tranh đã tạo nên nhiều cuộc gặp gỡ thú vị và tình cờ”.
Người đầu bếp đi khỏi, trả lại cho Vũ sự yên lặng ban nãy. Chàng bước ra ngoài, qua một sân sỏi, những viên sỏi nhỏ bị ngiến lạo rạo dưới chân. Mặt trời đã đứng bóng, không một chút gió, ngọn cờ vàng ba sọc thản nhiên rũ xuống buồn vời vợi.