Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Bài Viết >> Mây mù thế kỷ

  Cùng một tác giả


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 33209 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Mây mù thế kỷ
Bùi Tín

Phần 2
Theo ông, những người cộng sản Việt nam có tương lai hay không?
Câu hỏi này phải trả lời tùy theo từng đối tượng. Nếu là những người cộng sản bảo thủ thì chắc chắn họ không thể có tương lai. Còn nếu người cộng sản nào thực sự cố tư duy tiến bộ, linh hoạt và có tấm lòng yêu nước thương dân thật sự, tôi nghĩ họ sẽ có tương lai tốt đẹp. Nhìn ra thế giới, có nhiều đảng cộng sản đã cải tổ lại sau khi Liên xô sụp đổ. Họ đã rút ra được bài học là thứ chủ nghĩa cộng sản giáo điều gia trưởng kiểu Sta-lin không phải là một chủ nghĩa tốt đẹp có hứa hẹn. Đó là một kiểu chủ nghĩa phát-xít, sớm muộn sẽ làm mất lòng dán, kết cục sẽ bị tan vỡ, sụp đổ. Ngay từ những tội ác, sai lầm mà nó phạm phải từ bên trong đã làm cho chủ nghĩa cộng sản ở Liên xô, CHDC Đức, Rumani sụp đổ tan tành. Những người cộng sản mới đã cải tổ tổ chức của họ, có đảng cộng sản cũ đổi tên thành đảng Xã hội, đảng Dân chủ, đảng Dân tộc... Đặc biệt, có những đảng cộng sản vẫn giữ tên như đảng cộng sản Pháp, nhưng họ đã thực sự từ bỏ những gì lạc hậu, bảo thủ như quan điểm "chuyên chính vô sản", nguyên tắc "dân chủ tập trung", học thuyết "đấu tranh giai cấp"... vốn là những nền tảng của học thuyết Mác, do đó họ trở thành những đảng tân tiến. Chỉ sau một thời gian khó khăn, họ đã nhanh chóng khôi phục được uy tín của mình. Như đảng cộng sản Pháp trước kia ở thời Tô-rê, Đuy-clô (Duclos) nhất nhất theo gậy chỉ huy của Mát-xcơ-va, vừa rồi đã phải từ bỏ học thuyết chuyên chính vô sản, từ bỏ hình búa liềm, quan điểm "dân chủ tập trung và có quan điểm linh hoạt hơn trong đấu tranh xã hội. Đến nay đảng cộng sản Pháp đã khôi phục được tín nhiệm. Đảng cộng sản ý đến nay vẫn có vai trò trong quốc hội, thậm chí có lúc có vai trò quan trọng vì ở giữa hai chính đảng tư sản lớn thế và lực gần như ngang nhau, đảng cộng sản liên minh với phía nào thì phía ấy sẽ có sức nặng áp đảo Do đó, vị trí của đảng cộng sản ý cũng được tăng lên. Một số đảng cộng sản ở Đông Âu cũng vậy. Có một thời đảng cộng sản Bungari có thể quay lại chính trường, tuy lúc ở thế mạnh, lúc ở thế yếu, nhưng đều tham gia sinh hoạt chính trị trong xã hội một cách bình thường. Gần đây, đảng cộng sản U-krai-na sau khi cải tổ, lột xác đã lập chính phủ.
Tôi nghĩ, những người cộng sản Việt nam thấy được điều đó. Anh chỉ có thể có vị trí nếu anh thật sự đổi mới cả về kinh tế lẫn chính trị, từ bỏ những học thuyết giáo điều như "chuyên chính vô sản", "đấu tranh giai cấp", tiếp thu những trào lưu tư tưởng tiến bộ và quan trọng nhất là quay trở về với dân tộc. Anh có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội, hiện nay ở châu Âu đa số cánh tả thuộc về đảng xã hội, chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội, một kiểu chủ nghĩa xã hội hoàn toàn khác với chủ nghĩa xã hội mà đảng cộng sản Việt nam quan niệm. Những người lãnh đạo đảng cộng sản cần hiểu rằng, nếu cố giữ quan điểm độc đảng, thì họ sẽ không có tương lai. Phải thực hiện chế độ đa đảng, chấp nhận đa đảng, thi đua với nhau thì mới vươn lên được. Lúc này đảng cộng sản phải tự lựa chọn: theo dân tộc hay theo riêng mình. Theo dân tộc để đổi mới thật sự không vì đặc quyền đặc lợi riêng của đảng mình, phải đi vào con đường đa nguyên. Như vậy mới có thể tự đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân và nhân dân mới góp phần xây dựng cho đảng trong sạch, chống được tham nhũng. Đây là một lựa chọn hết sức khó khăn, phải từ bỏ những quyền lợi riêng tư, ích kỷ để gia nhập vào cộng đồng dân tộc, chấp nhận các tổ chức và đảng phái chính trị khác để hình thành thế lực đối lập xây dựng. Trong xã hội nếu không có đối lập xây dựng, kiểu một mình một cỗ, thì đảng cầm quyền rất dễ trở nên thoái hóa, phạm pháp do tham nhũng không ai có thể kiềm chế được. Đảng cộng sản chỉ có thể có tương lai, với điều kiện như thế. Nếu không chịu mở cửa về chính trị, không chấp nhận tự do báo chí, thì sẽ tự đặt mình vào thế bế tắc, từ chỗ bế tấc có thể bùng nổ những hỗn loạn xã hội không kiểm soát được. Lúc ấy sẽ là tai họa cho toàn thể xã hội.
Ông có thể dự đoán diễn biến ở Việt nam trong tương lai sẽ như thế nào? Chế độ hiện nay sẽ đi đến đâu?
Hiện nay, những người lãnh đạo bảo thủ mở cửa kha khá về kinh tế nhưng lại cố khép chặt về chính trị. Có khóa chặt về chính trị thì họ mới chịu hé mở về kinh tế, vì họ sợ bị mất quyền. Tình hình như thế này đã dẫn họ đến một số kết quả về kinh tế trong mười năm, đặc biệt là trong bốn, năm năm nay, tốc độ phát triển khá, nhưng tình hình chính trị lại bế tắc. Cũng có nhích lên đôi chút như có thảo luận dân chủ trong quốc hội, quốc hội có bác một đề nghị của chính phủ đề bạt bộ trưởng bộ Giao thông và bác một đề nghị của thủ tướng chính phủ về việc tái cử thống đốc Ngân hàng, buộc chính phủ phải đề cử người khác. Có phê phán sự bất lực của chính phủ trong việc chống tham nhũng trong các kì họp quốc hội. Nhung mặt khác, không khí xã hội vẫn còn nghẹt thở, tức là không cho người dân được tự do ăn nói, cấm kị người làm báo trong nước không được viết, trả lời phỏng vấn cho báo chí nước ngoài. Nếu gửi bài cho nước ngoài phải được kiểm duyệt trước. Cấm các báo chí nước ngoài ở trong nước được dùng những người Việt nam theo họ lựa chọn, buộc phải dùng những người phiên dịch, cộng tác do cơ quan an ninh, cơ quan ngoại giao cử đến cho họ.
Tất cả những dự trữ phát triển trong mấy năm qua đã đến lúc cạn kiệt. Đầu tư nước ngoài bắt đầu chững lại, không còn tăng nhiều như trước nữa. Các khách sạn trong nước đang lâm vào tình trạng khủng hoảng thừa, từ chỗ trước kia tính toán rằng sẽ đông người vào thăm, nhiều khách lo sẽ bị thiếu khách sạn. Hiện nay trung bình chỉ có ba, bốn chục phần trăm số phòng có khách thường xuyên. Nhất là tình trạng khủng hoảng về tài chính, đồng tiền bị giảm giá. Khủng hoảng tài chính ở Thái Lan, In-đô-nê-xi-a đã tác động đến nền tài chính vốn hết sức ọp ẹp của Việt nam. Hiện nay, Ngân hàng nhà nước Việt nam có nguy cơ phá sản, những người vay, phần lớn là cơ sở quốc doanh, đến hạn đòi lại, thì không có ai trả. Số tiền này lên tới cả tỉ đô-la.
Đáng nói nhất phải kể đến bất mãn của nông dân trước tình trạng bất công xã hội gia tăng trong mấy năm nay. Vi phạm quyền làm chủ đất đai, bắt dân đóng góp quá nhiều, từ 4 loại thuế lên đến 24 loại thuế đóng góp tiền bạc để xây dựng nhà trường, các trạm xá, đường giao thông liên xã liên huyện v.v.. những biểu hiện khuất tất, tham nhũng trong quản lý các khoản do dân đóng góp, chi tiêu ngân sách của xã lên tới tiền tỉ nhưng không có giấy tờ minh bạch, nên dân bất mãn. Chỉ cần làm cán bộ xã huyện hay tỉnh một, hai năm là nhà cao cửa rộng, khác hẳn với cuộc sống bình thường của nhân dân. Các cơ quan tài chính của cấp thành ủy, tỉnh ủy bây giờ tranh thủ làm ăn một cách kinh khủng, trên đà đó vơ vét tài sản của quốc gia vào túi riêng của các nhà lãnh đạo đảng ở địa phương. Chính những tham nhũng đó làm cho quần chúng bất mãn, bất công tạo nên nỗi uất ức và là thuốc nổ rất nguy hiểm trong xã hội. Đảng phải thực hiện đúng pháp luật, không bênh riêng ai, lúc ấy mới có thể trị được bọn quan lại tham ô, dù chúng ở bất cứ cấp nào, Trung ương hay Bộ Chính trị, thì lòng dân mới yên. Đảng cộng sản đang đứng trước một thử thách lớn là như thế. Hoặc nếu không, sẽ có nguy cơ bùng nổ xã hội và dẫn đến rối loạn. Như vừa rồi ở Thái Bình, báo Nhân dân phải công nhận là có những diễn biến phức tạp ở 128 xã. Chúng ta biết, sự việc xảy ra ở 5 hay 10 xã đã là lớn, mà đây lại cùng một lúc ở hơn 100 xã, gấp đôi địa bàn của một tỉnh trung bình. Bây giờ lại được biết ở cả Hưng Yên, Hải Dương, Sơn Tây, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bắc ninh và ở cả đồng bằng sông Cửu Long đều như thế cả. Nhận thấy sự bất mãn của nông dân lan ra rộng lớn ở nông thôn có thể mang lại sự bất ổn về chính trị, nên ông Nguyễn Văn Linh, ông Phạm Văn Đồng đều đề nghị trên báo chí là phải mở rộng dân chủ. Đó là một bài học cho đảng lãnh đạo. Nói là xây dựng pháp luật mà không có Nhà nước pháp luật thực sự, nói là dân chủ mà không thực hiện dân chủ thực sự, nói là có công bằng xã hội mà không có công bằng xã hội thực sự. Người dân nghe thấy đảng nói khắp nơi là xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, nhưng nhìn ra xung quanh thì nhà to, đất tốt là thuộc về cấp ủy, ô tô sang trọng cũng vậy. Thanh niên ăn chơi phè phỡn, con ông, cháu cha là con các ông ủy viên Trung ương, bộ trưởng, bí thư tỉnh ủy, huyện ủy ném tiền qua cửa sổ v.v... Cho nên, cái đó làm dân ngứa mắt, không thể nào chịu dược. Họ phản ứng gần như nổi loạn, đốt phá trụ sở xã, phá hủy giấy tờ, đốt nhà, đánh đập cán bộ, có những chủ tịch huyện bị thương nặng...
Đối với chủ trương xây dựng nền kinh tế thi trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay ở Việt nam, ông có ý kiến như thế nào?
Quan điểm của tôi là nên gác vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội sang một bên. Những người lãnh đạo trong nước không nên bảo thủ, vì bây giờ ở Việt nam còn có yếu tố nào là chủ nghĩa xã hội đâu Trước đây trong chiến tranh, đặc trưng nổi bật nhất của chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở miền Bắc là chế độ giáo dục miễn phí từ mẫu giáo đến đại học, tạo nên nền giáo dục phổ biến, rộng rãi và tương đối có chất lượng. Thứ hai là chế độ chữa bệnh không mất tiền từ nông thôn đến thành thị, vì lúc ấy khá nhiều thuốc men do quốc tế giúp đỡ, việc chữa bệnh và phòng ngừa các bệnh dịch tả, kiết lị, sốt rét... có hiệu quả và kịp thời. ốm đau, mổ xẻ, điều trị, chữa bệnh, nằm viện không phải trả tiền, tuy còn thiếu thốn nhưng nhìn chung là tốt. Hiện nay hai thành tựu đó không còn. Mọi vấn đề giáo dục, đào tạo đều phải trả tiền, hàng triệu trẻ không có điều kiện đến trường, chất lượng giáo dục giảm sút, thầy cô giáo bỏ nghề, hàng năm trong cả nước thiếu hàng chục ngàn giáo viên ở các cấp. Việc khám, chữa bệnh ngày một khó khăn vì phải trả tiền, rất nhiều tiền. Công việc xét nghiệm, mổ xẻ phải chi phí rất tốn kém là tai họa cho các gia đình nghèo khó. Mặc dù khu vực quốc doanh còn nhiều, ngay cả các nước tư bản cũng có khu vực quốc doanh như vận tải đường biển, hàng không, bưu điện, luyện kim..., chứ không riêng gì xã hội chủ nghĩa, nhưng chế độ vẫn mang danh "xã hội chủ nghĩa" là không đúng với thực tế, đôi khi mỉa mai, vì một đất nước tình trạng thất nghiệp lên đến bảy triệu người (thậm chí mười hai triệu kể cả nông thôn). Đã thế lại chưa có phụ cấp thất nghiệp. Những người về hưu được nhận một khoản phụ cấp ít ỏi, mang tính tượng trưng. Trợ cấp cho những đối tượng đặc biệt như thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ chỉ tương đương mấy chục cân gạo. Thật ra, ở các nước tư bản, thành tựu mang tính xã hội, phúc lợi xã hội của họ cao hơn ở những nước mang danh "xã hội chủ nghĩa" rất nhiều. Không nên giữ cái tên "xã hội chủ nghĩa" để giữ sĩ diện. Gần đây, giáo sư Tôn Thất Thiện ở Canada viết báo nói rằng muốn nhìn thấy chủ nghĩa xã hội thì hãy đến Canada mà xem, chứ không phải ở Cuba. Đó là một sự thật. ở Việt nam hiện tại cũng chẳng thấy chủ nghĩa xã hội ở đâu cả!
Cần phải xây dựng thực sự một nền kinh tế thị trường, tôn trọng sở hữu tư nhân. Chính do sự chắp vá tư bản không ra tư bản, xã hội chủ nghĩa không ra xã hội chủ nghĩa mà nhà sử học Ga-bri-en Côn-cô (Gabriel Kolko) đã nhận xét: "Nó là chế độ tư bản rừng rú (savage capitalism), không có sự tôn trọng luật lệ. Vì không tôn trọng luật, nên nó đẻ ra vô vàn mặt trái xấu xí". Ông ta vạch rõ: "Đó là sự cưỡng hôn giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Kết quả là đẻ ra một đứa con quái thai, nó không phát huy được những nét đẹp của cha hay của mẹ, mà chỉ giữ lại những gì khó coi nhất của người cha cộng với cái xấu xí nhất của người mẹ". Ông giải thích: chủ nghĩa tư bản xấu ở chỗ nó cạnh tranh không khoan nhượng, cá lớn nuốt cá bé, cơ sở yếu thế sẽ bị phá sản. Nhưng mặt tốt là có luật pháp công minh dựa trên ba quyền phân lập và cạnh tranh bằng tài năng, chứ không phái bằng quyền lực". Trong chế độ tư bản, hoạt động tổ chức bộ máy nhà nước được kiểm soát chặt chẽ, không phải người làm luật, người xét xử và người thi hành luật đều bị điều khiển, khống chế từ một nhóm lãnh đạo đảng và nhà nước. Nếu hoạt động của bộ máy quyền lực của nhà nước được kiểm soát chặt chẽ, thì sẽ hạn chế được tình trạng mất cân bằng, sai lầm, phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.
Hiện nay ở Việt nam hình thành một xã hội không tôn trọng luật pháp, cạnh tranh man dại dựa trên quyền lực không dựa theo tài năng và qui luật mà dựa vào thần thế. Điều xấu xa nhất của cái gọi là "chủ nghĩa xã hội hiện thực" tồn tại trong mấy chục năm qua là sự độc đoán, thiếu dân chủ lại đang gia tăng do đảng lộng hành, đứng trên nhà nước. Vì vậy, ông Côn-cô nói: "Chưa bao giờ tình hình Việt nam lại nguy hiểm như hiện nay. Tuy có một bước phát triển nào đó nhưng chứa đầy những mầm mống của sự hỗn loạn, mất ổn định!" Trong khi đó, những người lãnh đạo trong nước luôn khẳng định có sự ổn định, nhưng thực chất là mất ổn định tận gốc, do độc đoán mà sinh ra. Lòng dân không yên do những bất công ngày càng đè nặng, làm cho xã hội đảo điên, tạo nên một kỷ lục tệ nạn xã hội, tội ác, trộm cắp, cướp của, giết người, chiếm đoạt tiền của đất nước, sự phá sản của những cơ sở tư nhân, công ty, ngân hàng, quỹ tín dụng... Hiện tượng phổ biến là biển thủ, chia chác tài sản của quốc gia, hợp thức hóa thành tài sản riêng, chỉ cần có tiền hối lộ là có được các loại giấy tờ có dấu, chữ kí hợp lệ, từ giấy khai sinh, đăng ký kết hôn, giấy ly hôn cho đến hộ chiếu, bằng cấp... Có thể nói tình hình không phải chỉ ở mức rạn nứt, mà nó đang ở thời kì tan rã, nếu không kịp thời chấn chỉnh, xây dựng một xã hội lành mạnh và luật pháp hóa.
Ông thấy trong thời gian qua "đổi mới" đã đạt được kết quả như thế nào ở trong nước?
Từ năm 1986, tức là từ Đại hội đảng cộng sản Việt nam lần thứ 6 cho đến nay, qua hơn mười năm là thời kì thứ nhất của "đổi mới", "mở cửa", thành tựu đạt được trong thời kì này tương đối khá, vì những nguyên nhân khách quan, như xuất phát điểm của nền kinh tế Việt nam rất thấp, từ chế độ bao cấp trì trệ kéo dài nay trả lại cho nhân dán quyền tự do kinh doanh, tạo ra bước phát triển kinh tế năng động, thu nhập tăng lên. Phát triển về công nghiệp đáng kể, về nông nghiệp cũng vậy, xuất khẩu mỗi năm hơn 2 hay 3 triệu tấn gạo, phát triển về dịch vụ khá mạnh. Không khí sôi động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, xây dựng, đi lại... và nói chung là "dễ thở" hơn ở cả nông thôn lẫn thành thị. Mức độ lạm phát trước kia từ vài trăm phần trăm trong năm, hiện nay đã chững lại và tương đối ổn định (chỉ còn khoảng 10%). Lượng người du lịch, hoặc làm ăn buôn bán vào Việt nam trên một triệu lượt mỗi năm, kéo theo việc xây dựng khách sạn, phục vụ ăn uống, giải trí, đi lại... có hiệu quả hơn so với trước đây.
Nhưng sau hơn mười năm "đổi mới", vào đầu năm 1998, khi bàn giao giữa những người lãnh đạo nhà nước mới và cũ, đất nước ở vào thời kì hết sức hệ trọng, nguồn dự trữ đảm bảo cho sự tăng trưởng mạnh mẽ đã cạn. Đồng thời đã có dấu hiệu đáng lo ngại hơn trước, đó là nguồn đầu tư của nước ngoài vào Việt nam từ hai năm nay đã chững lại và đang có xu hướng giảm đi. Do đó, cán cân thanh toán xuất-nhập khẩu mất thăng bằng lớn. Trong năm 1996, số nhập cao hơn xuất lên tới bơn tỉ USD, đặt đất nước trước một khoản nợ rất lớn. Món nợ cũ lưu cữu như nợ mười tỉ USD đối với nước Nga, cộng thêm nợ mới hiện chưa thống kê ước khoảng hơn một chục tỷ USD nữa. Ngoài khoản vay mượn dài hạn hoặc lãi suất thấp, cái đáng lo là khoản vay mượn với lãi suất bình thường và đã đến hạn phải trả đang là một gánh nặng nan giải. Điều đáng lo ngại hơn nữa là thị trường chứng khoán chưa xây dựng xong và toàn bộ hệ thống ngân hàng, cả những ngân hàng lớn của nhà nước đang đến độ ngấp nghé phá sản, các cơ sở quốc doanh được "phóng tay" vay vô tội vạ đến nay không có khả năng chi trả do thua lỗ. Khoản nợ của các ngân hàng không có khả năng thu hồi là rất lớn, cần có sự chi viện của nước ngoài mới có thể phục hồi được. Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đang lan ra sâu rộng ở các nước Đông Nam á, bắt đầu từ Thái Lan qua In-dô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, dội đến Hồng Kông... là sự kiện đáng lo ngại cho Việt nam.
Nhìn lại có thể thấy "đổi mới" trong mười năm qua có những kết quả nhất định, nhưng mới chỉ đạt ở mức phát triển với tốc độ khiêm tốn, nghĩa là còn chậm so với yêu cầu thực tế đòi hỏi đối với Việt nam, là một nước vốn còn lạc hậu trong khu vực. Những nhà nghiên cứu xã hội châu á của Thụy Điển đã viết trong một cuốn sách tổng kết: "đổi mới" của Việt nam như "một con hổ cưỡi xe đạp", không có tốc độ nhanh mạnh mà hết sức ì ạch vì tính chất bảo thủ. Cuốn sách phê phán Việt nam đã để phí mất thời gian quý nhất là từ năm 1975 đến năm 1985, mười năm sau khi giành thắng lợi lớn đã đi vào một thời gian khủng hoảng nặng nề, buộc phải đổi mới nhưng lại thực hiện đổi mới nửa vời một cách chập chững. Đây là điều đáng ân hận vì những người lãnh đạo bảo thủ đã phạm sai lầm nghiêm trọng từ năm 1975 đến nay đối với dân tộc, làm cho đất nước mất những cơ hội quý báu, mất đi cái đà phát triển trong thời gian dài.
Trong bối cảnh như vậy, những người lãnh đạo nhà nước mới thay thế bắt buộc phải sớm có những quyết định, dứt khoát bước vào thời kì đổi mới thứ hai. Bà ngoại trưởng Hoa Kỳ On-brai cũng khuyến khích Việt nam nên "bước mạnh hơn nữa vào giai đoạn 2 của đổi mới". Lần đổi mới này, trước hết cần giải quyết gánh nặng của 6 ngàn cơ sở quốc doanh, trong đó chỉ có khoảng 17% cơ sở hoạt động còn có lãi, số còn lại bị lỗ phải cổ phần hóa, tư nhân hóa mới có thể cứu vãn được tình hình. Muốn vậy phải có những bước đi kiên quyết để cổ phần hóa các cơ sở quốc doanh ấy, nhưng việc này làm rất chậm chạp vì đụng phải ý định quyết giữ bằng được 60% giá trị sản lượng trong khu vực quốc doanh. Nếu vẫn muốn giữ những cơ sở quốc doanh làm thành phần kinh tế chủ đạo như nghị quyết Đại hội đảng 8 nêu ra một cách hình thức, thì đó sẽ là một gánh nặng ví như một khối u ác tính, nếu không cắt đi sẽ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế.
Thứ hai là cần phải sớm bắt tay cải tạo gấp hệ thống ngân hàng hiện nay theo hướng hoạt động lành mạnh, chính quy và thực hiện đúng luật. Muốn như vậy phải xây dựng một đội ngũ nhân viên, một lề lối làm việc và một nền tài chính minh bạch. Chỉ có thể giải quyết tốt hệ thống ngân hàng mới có thể tạo điều kiện huy động vốn của tư nhân mà có người đánh giá hiện nay số tiền đó vào khoảng sáu tỷ USD.
Số tiền này được cất giấu dưới dạng vàng, kim cương, ngoại tệ mạnh phân tán, chôn giấu trong nhà. Cần huy động được tất cả số vốn "nhàn rỗi" đó vào hoạt động sản xuất, kinh doanh vì ích lợi chung. Kinh nghiệm từ những nước phát triển trong khu vực cho thấy, kinh tế phát triển thuận lợi nếu tư nhân mạnh dạn hùn vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, buôn bán lành mạnh.
Thứ ba là phải xây dựng được một chế độ pháp luật. Hiện nay đã có "Nhà pháp luật" ở Hà Nội, nhưng vẫn chưa xây dựng pháp luật đầy đủ. Quan trọng hơn cả là thực hiện pháp luật không nghiêm. Hiện nay đã cồ hàng chục ngàn người phạm pháp, đã bị tòa án xét xử, nhưng vẫn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, do có thế lực, có tiền hối lộ. Còn những người có công, đáng được trọng dụng, nhưng vì có những ý kiến bất đồng với chủ trương đường lối hiện nay của giới lãnh đạo, thì bị đưa vào tù. Đảng cộng sản vẫn còn đứng trên luật pháp, đứng ngoài luật pháp. Từ đó bộ phận kinh doanh của đảng, gọi là "ban kinh tài" cũng đứng ngoài pháp luật, thả sức lũng đoạn nền kinh tế, là một chủ bất động sản, chủ các ngân khoản tín dụng ngoại tệ, đứng ngoài vòng pháp luật làm giàu bất hợp pháp cho đảng cộng sản.
Thứ tư là phải thực sự công nhận quyền sở hữu tư nhân, quyền tự do kinh doanh của tư nhân, bình đẳng với các loại hình kinh tế khác. Không được cói thành phần kinh tế tư nhân là "con ghẻ" mà hắt hủi, vùi dập nó, trong khi coi thành phần kinh tế quốc doanh là "con đẻ", được nâng đỡ, ưu tiên. Giải quyết mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế trong xã hội không được dựa trên tính toán chủ quan, cảm tính, mà phải dựa trên cơ sở luật pháp nghiêm minh. Muốn vậy điều cực kì quan trọng là phải đẩy lùi tệ nạn tham nhũng. Trong mấy chục năm qua, nhà nước càng hô hào chống tham nhũng bao nhiêu thì tham nhũng càng nảy nở bấy nhiêu. Đỉnh cao là vụ buôn ma túy xuyên quốc gia mà kẻ tham nhũng lại chính là những người phụ trách việc chống buôn lậu ma túy trong ngành công an. Bài toán chống tham nhũng có điểm mấu chốt cần giải quyết là nó ở ngay chính nơi quyền lực cao nhất của nhà nước. Muốn giải được bài toán ấy phải khui từ đầu não cao nhất. Chống tham nhũng hiện nay mới chỉ đánh từ vai trở xuống, còn từ vai trở lên thì tránh né. Chẳng hạn như đụng đến Nguyễn Hà Phan[29] là thôi, không dám xử tiếp trong vụ Tamexco-Phạm Huy Phước[30], trong vụ buôn lậu ma túy xuyên quốc gia "Xiêng Phênh-Vũ Xuân Trường"[31] chỉ mới đụng đến cấp thượng tá[32] công an thì dừng lại.
Một điều hỗ trợ đắc lực cho việc chống tham nhũng là tự do báo chí. Hệ thống báo chí của nhà nước, bị nhà nước kiểm duyệt thì không thể đảm nhiệm được vai trò này. Cho nên cần có luật báo chí rõ ràng và tôn trọng tự do báo chí cũng như chấp nhận báo chí tư nhân. Báo chí được tự do hoạt động trong khuôn khổ luật báo chí và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chỉ có như vậy mới làm cho tình hình ổn định, chống được tham nhũng, nền kinh tế đất nước mới phát triển được.
Người ta thường nói báo chí cùng với các cơ quan hành pháp, tư pháp và lập pháp, tạo thành "tứ quyền" trong xã hội dân chủ, có khả năng chống tham nhũng và xây dựng công bằng trong xã hội. "Tứ quyền" ấy hiện nay ở Việt nam còn thiếu và chưa thực hiện quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận để tạo nên sức mạnh dư luận xã hội. Trong một nước dân chủ, dư luận xã hội rất quan trọng. ở Việt nam cần sớm thực hiện việc điều tra dư luận, theo dõi dư luận một cách công khai, minh bạch.
Thiếu công khai, minh bạch phải chăng theo ông là lỗ hổng, là thiếu sót lớn của chế độ hiện nay?
Đó là một lỗ hổng, lỗ hổng ấy là những gì những người cộng sản đã nói, nhưng họ không làm, theo tôi được gói gọn ở một chữ là "trong sáng", cố nghĩa là "minh bạch", tiếng Nga là "glasnost", tiếng Pháp là "transparence", trong sáng, ngay thật, thẳng thắn, không mờ ám, không quanh co dối trá, sự việc như thế nào nói đúng như thế, không che giấu, không bịa đặt. Trong thời kỳ ông Nguyễn Văn Linh[33] làm Tổng bí thư đảng cộng sản Việt nam, một số nghị quyết của đảng đã nói đến khẩu hiệu "nói thẳng, nói thật, nói hết" theo ý nghĩa của "transparence", "glasnost". Bây giờ ở Việt nam người ta không dám nói đến những chữ đó nữa, họ sợ bởi vì họ vẫn còn muốn che giấu những sự thật, không dám nói thẳng, không dám nhìn thẳng vào sự thật. Ví dụ như trong vụ "Nhân văn-giai phẩm", giới lãnh đạo cộng sản sai đến như thế mà vẫn không chịu xin lỗi các nạn nhân. Họ không nhận sai cả trong vụ "Xét lại chống đảng", mà ông Nguyễn Trung Thành[34] là người trực tiếp tham gia xử lý vụ này cách đây hơn 30 năm vừa qua đã lên tiếng là "sai hết cả rồi, phải sửa lại đi!" ông Thành thấy rằng không hề có một chứng cớ nào có thể buộc tội những người này là chống đảng, phản đảng, phạm pháp mà lại tùy tiện bỏ tù họ, có người đến chín năm không có án. Những người có trách nhiệm trong đảng và chính phủ không chịu sửa còn quay sang trị ông ta, đuổi ông ta ra khỏi đảng. Chính cái đó là thiếu sòng phẳng, minh bạch, sợ sự thật. Những người lãnh đạo luôn mồm nói là "có sai thì sửa", nhưng thật ra họ có sai nhưng không dám nói là sai và để những cái sai ấy tích tụ, chồng chất thành muôn vàn sai trái. Cho đến nay, chưa một cơ quan có thẩm quyền nào của nhà nước kết luận công khai về vụ "Nhân văn-giai phẩm" và vụ "Xét lại chống đảng". Hiện nay, những người lãnh đạo cộng sản vẫn ngoan cố giải thích là "Đảng từ xưa tới nay vẫn hoàn toàn đúng, tất cả những người trong các vụ đó là sai, đểu đã cúi đầu nhận tội. Bây giờ những người này lợi dụng đổi mới để lật án, đảng không cần phải xin lỗi, không cần kết luận lại gì hết". Đấy là một kiểu nói lấy được. Việc nhà nước coi thường luật pháp là điều không thể chấp nhận được.
Những người lãnh đạo đảng cộng sản, một mặt cấm dân thảo luận những điều mà họ không muốn nghe, một mặt lại đề ra khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đó chỉ là một kiểu mị dân, lừa dối. Bây giờ chúng ta thách họ hãy thực hiện những điều họ đã nói thông qua tự do ngôn luận và tự do báo chí. Không có gì mà pháp luật đã cho phép lại có thể bị ai đó cấm đoán. Tất cả phải minh bạch, chứ không phải như hiện nay, có những vùng cấm, không ai được động chạm tới. Ví như nhà nước cấm không được đưa tin trên báo chí về tình trạng khủng hoảng của hệ thống ngân hàng Việt nam thời gian vừa qua, mọi tin tức có liên quan phải được thống đốc ngân hàng Trung ương thông qua thì mới được đăng. Hay mới đây, việc ông Nguyễn Hoàng Linh[35], vì viết báo về vụ tham nhũng hàng triệu đô-la trong vụ mua bốn chiếc tàu tuần duyên cho ngành Hải quan, nên bị bắt. Điều phi lý ở chỗ, ông Linh bị bắt không phải vì tội "vu khống, đưa tin trên báo chí", mà là vì tội "tiết lộ bí mật quốc gia", chứng tỏ nhà nước muốn che đậy những vụ tham nhũng tài sản quốc gia ở mức độ rất nghiêm trọng. Những nhà báo có tinh thần trách nhiệm như ông Linh, lẽ ra phải được khen thường do gan dạ, công tâm phanh phui vụ bê bối làm tổn hại cho quốc gia đó, thì ngược lại, ông bị trừng phạt. Chế độ hiện nay còn đầy những chuyện mờ ám như vậy.
Ngoài ra, hiện nay, chế độ trong nước còn có gì khiếm khuyết.
Đất nước ta còn lạc hậu nhiều, trong đó nổi bật là chính trị. Cái lạc hậu lớn nhất là chưa có dân chủ, biểu hiện ở chỗ chưa công nhận những thế lực đối lập Hầu hết tất cả các nước trên thế giới như Pháp, Hoa Kỳ, Anh... cho đến Thái Lan, Căm-pu-chia hiện nay đều có những lực lượng chính trị đối lập với đảng cầm quyền. Đối lập không phải là dối lập để gây chiến tranh, để phá hoại đất nước, mà là để giám sát, kiểm tra, góp ý phê bình... Người ta thấy, một đất nước không có đối lập thì đất nước ấy khó có thể phát triển bình thường. Nền chính trị sẽ bị trì trệ, lạc hậu và không tạo nên công luận trong xã hội để răn đe những người cầm quyến. Cho nên, tôi nghĩ cần phải tạo nên một lực lượng đối lập Người ta gọi lực lượng như vậy là lực lượng xây dựng. Chẳng hạn như ở Pháp, sau một thời gian dài cầm quyền của cánh tả, cánh hữu lên cầm quyền một thời gian ngắn, tổng thống Si-rắc (J. Chirac) quyết định giải thể và bầu cử lại quốc hội. Qua bầu cử bất ngờ cánh tả thắng cử và lại được thành lập chính phủ. Bây giờ cánh hữu trở lại vị trí đối lập để quan sát, phê bình, nhận xét, hoặc tán thành những chính sách đúng đắn, có lợi cho đất nước: gần đây cả cánh tả và cánh hữu, phái cầm quyền và phái đối lập đều nhất trí chủ trương kiếm 350 ngàn công ăn việc làm trong năm tới. Phải có đối lập chính trị trong quốc hội, trong xã hội để phái cầm quyền luôn cảm thấy có những đối tượng giám xét mình, kiểm tra mình, do đó phải giữ cho đảng mình trong sạch, trung thành với những lời cam kết, tăng cường mọi biện pháp có hiệu quả, thúc đẩy cho mình trở thành một lực lượng chính trị lành mạnh và hữu ích. ở nước ta cần xây dựng sớm mô hình như vậy. Những người lãnh đạo bảo thủ luôn luôn lo sợ có kẻ thù xung quanh mình, bất cứ ai có suy nghĩ hơi khác lập tức bị quy là kẻ thù. Họ không biết chính những người chỉ ra thiếu sót của họ, dù có quan điểm khác thì mới là "thầy" của họ, mới là người bạn tốt của họ. Bởi vì có người sớm chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, những điều không thực tế thì mới hạn chế được những tác hại nguy hiểm do chính sách chủ quan, phiến diện. Hiện nay, tất cả những người có ý kiến đối lập đều bị chính quyền bắt vào tù hoặc bị quản chế như các ông Nguyễn Hộ[36], Hoàng Minh Chính Hà Sĩ Phu[37] cổ những ý kiến xây dựng, đáng lẽ phải nghiên cứu và tiếp thu những gì đúng, cảm ơn người ta, ngược lại bác bỏ hoàn toàn và chụp mũ cho họ là phản bội, theo quan điểm đế quốc... Rồi như các ông Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan Quế[38] không chủ trương bạo lực lật đổ chính quyền hiện tại, chỉ có những ý kiến thẳng thắn, mà bị bỏ tù mười lăm, hai chục năm. Họ có những lý lẽ mà chính quyền không bác bỏ được, lại đi che giấu, không công bố, chụp mũ cho họ là làm loạn, gây rối trật tự trị an, để giam giữ họ như những tù nhân hình sự. Tất cả những hành động đó của giới lãnh đạo hiện nay không thể tồn tại trong thời kì mở cửa, thời kì mà tất cả các quốc gia đang tìm mọi cách hòa nhập vào cộng đồng quốc tế. Giới lãnh đạo trong nước cũng nói tới "hòa nhập", nhưng thực ra họ vẫn suy nghĩ theo kiểu cũ, hành xử chẳng giống ai, chẳng phù hợp với nếp nghĩ của thế giới văn minh.
Đã đến lúc những người lãnh đạo đảng cộng sản phải nhận ra và chấm dứt chế độ hà khấc phi lý hiện nay. Trong Hội nghị thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp vừa qua ở Hà Nội, giới lãnh đạo Việt nam đã bị mất mặt nặng nề, vì họ chỉ muốn bàn đến vấn đề kinh tế. Trong bài phát biểu của mình tại Hội nghị, tổng thống Pháp Si-rắc đã nhấn mạnh: "Hội nghị các nước nói tiếng pháp mang ý nghĩa nói tiếng Pháp phải tôn trọng nhân quyền". Ông nói thẳng với chính quyến Hà Nội rằng cần phải xây dựng một chế độ dân chủ, vì đấy là xu thế của thời đại. Nhân dịp đó, phóng viên người Pháp nổi tiếng Pa-tơ-rích Poa-vrơ Đác-vo (Patrick Poivre d Arvor) của đài vô tuyến truyền hình pháp TFL đã đến Hà Nội và cùng với nhóm quay phim lẻn đến trại giam Thanh Cẩm (huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa), nơi giáo sư Đoàn Viết Hoạt đang bị giam giữ, để đòi được gặp ông Hoạt và chất vấn viên trại trưởng. Trong cuộc họp những người làm báo tiếng Pháp toàn thế giới, ông Pa-tơ-rích nói rõ: "Cần phái trả tự do cho giáo sư Đoàn Viết Hoạt. Đây là vấn đề danh dự của chế độ. Ông Hoạt bị tù hoàn toàn vì quan điểm chính trị của ông, chứ không phải vì chủ trương lật đổ. Ông ta là một người dân chủ?" Toàn bộ tư liệu ông Pa-tư-rích quay được ở trại giam Thanh Cẩm đã được đưa về Pháp mặc dù chính quyền Hà Nội tìm cách tịch thu. Trước đó một số nhà lãnh đạo Pháp đã gặp bà Trần Thị Thức, vợ ông Đoàn Viết Hoạt, tại Paris. Bà Thức đã được đón tiếp trong phủ tổng thống và phía Pháp cũng hứa hẹn sẽ yêu cầu Hà Nội trả tự do cho ông Hoạt. Phía Pháp đã trao cho bộ Ngoại giao Việt nam danh sách 40 tù nhân chính trị đang bị giam giữ và yêu cầu phía Việt nam trả lại tự do cho họ.
Giới lãnh đạo Việt nam ở thế kẹt, tiến thoái lưỡng nan, lo sợ vấn đề tù chính trị vỡ lở, mà không thả thì mất mặt với dư luận thế giới. Những người lãnh đạo đã phải lùi bước, đành phải thả ông Đoàn Viết Hoạt, ông Nguyễn Đan Quế, các vị Thích Quảng Độ, Thích Trí Siêu, ông Lý Tống và một vài tù chính trị khác, nhưng vẫn gọi họ là tù thường phạm, còn ra điều kiện cho ông Hoạt, ông Quế phải ra nước ngoài, tự thú nhận thế bị động của mình đồng thời tự phơi bày bộ mặt độc đoán lỳ lợm chà đạp nhân quyền, kích thích cuộc đấu tranh của nhân dân Việt nam và cộng đồng quốc tế.
Đây là một bước lùi ngoạn mục của Hà Nội đang cần xum xoe xin cái "lộc" Tối huệ quốc của Mỹ, khi chuyến đi của ông Phan Văn Khải cầu viện ở châu Âu và Nga đều vô hiệu!
Ông có đồng ý với nhận định cho rằng, nếu trước đây ở trong nước có lực lượng đối lập, thì tình hình hiện nay đã khác?
Nếu trước đây đảng cộng sản chấp nhận cho đối lập xây dựng tồn tại, không nhìn họ bằng con mắt sợ hãi hay thù địch, mà coi lực lượng đối lập là cần thiết, là hữu ích thì tôi cho rằng tình hình Việt nam đã khác nhiều. Mỗi bước đi, mỗi hoạch định của đất nước sẽ được cân nhắc kĩ. Sau khi chiến tranh kết thúc sẽ không thể có tình trạng hàng trăm ngàn người ở miền Nam phải đi "cải tạo" với kiểu lập luận là "không bắn chết đã là nhân đạo lắm rồi", sẽ không có tình trạng phân biệt đối xử dẫn đến bị kịch làn sóng ty nạn chạy ra nước ngoài, thảm họa "thuyền nhân" với hàng trăm ngàn người thiệt mạng trên biển. Nếu có đối lập xây dựng ở trong quốc hội, thì mọi vấn đề quan trọng của quốc gia đã được cân nhắc kĩ, mọi ý kiến trái ngược nhau đều được phân tích tường tận và sẽ không có tình trạng giữ quân đội với lực lượng lớn quá mức, tình hình y tế, xã hội, giáo dục sẽ không đến mức sa sút như hiện nay, việc chống tham nhũng cũng không bế tắc. Do vậy, ở Việt nam cần sớm phấn đấu để có lực lượng đối lập mang tính xây dựng. Nếu có đối lập xây dựng, tôi cho rằng đảng cộng sản sẽ không đến nỗi thoái hóa, bê tha, bệ rạc, "dột từ nóc dột xuống" như hiện nay, gây ra bất mãn rộng lớn trong nhân dân như đã xảy ra ở 128 xã thuộc tỉnh Thái Bình từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1997.
Theo ý ông, bước phát triển hiện nay của đất nước nên như thế nào?
Theo tôi, tình hình cứ như hiện nay là rơi vào tình trạng bế tắc. Thị trường tự do theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một món tạp-pí-lù rất khó tiêu hóa! Đó là chủ nghĩa tư bản không có xương sống (vì luật pháp là xương sống của chủ nghĩa tư bản) trộn lẫn với chủ nghĩa xã hội không có linh hồn (vì linh hồn của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ bất công). Nó đẻ ra vô vàn tật bệnh xã hội không có thuốc chữa. Tiến trình tối ưu mà chúng ta cũng như bản thân tôi mong muốn là ở trong đảng xuất hiện những nhân vật có tư duy mới như đã từng xuất hiện một Goóc-ba-chốp ở Liên xô. Hiện nay trong Bộ Chính trị mới cũng như cũ của đảng cộng sản, tôi chưa thấy một ai có thể là một Goóc-ba-chốp. Có thể có một Goóc-ba-chốp nào đó, nhưng lại ở ngoài Bộ Chính trị. Tôi nghĩ, tốt nhất có một nhóm những người lãnh đạo có trình độ, có uy tín, có tư duy trẻ đề ra chủ trương, đường lối khác với đường lối hiện nay. Đó là:
- Chống tham nhũng thật sự, chứ không phải chứng từ đầu gối trở xuống.
- Xây dựng một nhà nước pháp quyền thật sự, pháp luật không phải để làm cảnh, chỉ áp dụng với dân mà không áp dụng với đảng.
- Xử lý những tài sản của đảng một cách minh bạch, chứ không phải mờ ám như hiện nay. Đảng có các cơ quan kinh tài - một bộ máy khổng lồ có trụ sở trung ương, mang tên Ban Tài Chính Quản Trị Trung Ương Đảng, đặt ở trường An-be Sa-rô cũ tại Hà Nội, chiếm nhiều tài sản, ngân sách, ngoại tệ công ty kinh doanh, đất đai, nhà cửa, biệt thự ở Hà Nội, Hải Phòng, Đồ Sơn, Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn, Cần Thư, Vũng Tàu... và họ đang tự ý cho những công ty nước ngoài thuê để lấy tiền bỏ vào quỹ đảng, biến tài sản của nhà nước thành ra tài sản của riêng của đảng cộng sản.
Ban hành quyền tự do báo chí, để huy động công luận công khai lên án tất cả những gì xấu xa, giải quyết tận nơi, tận chốn những oan ức và bất công. Nhân dân tin tưởng ở hệ thống ngân hàng và bỏ tiền đầu tư vào sản xuất, kinh doanh v.v..., yên tâm làm ăn, tạo nên sự ổn định vững chắc về chính trị, phát triển kinh tế.
Sớm muộn ở trong đảng sẽ xuất hiện những con người như đã nói ở trên. ở ngoài đảng khó có những người như vậy. Bởi vì, như tôi đã nói, ở miền Bắc từ trước đến nay, hầu hết những người ưu tú, hiểu biết hoặc là ít nhiều tự nguyện, hoặc là bị thúc ép vào đảng. Tôi nghĩ, sẽ có người có tri thức, am hiểu thời đại đua ra những kiến nghị thích hợp, khi tình hình chín muồi. Khi một nhóm người như thế xuất hiện, họ sẽ tranh thủ được dư luận xã hội, nhân dân sẽ tín nhiệm họ. Họ sẽ có đủ sức chống lại thế lực bảo thủ, giáo điều. Đấy là một khả năng mà ta cố phấn đấu để đạt được. Trong thời kỳ mở cửa mười năm qua, tư duy mới về dân chủ của thế giới tràn vào không ít. Tất nhiên, mức độ tiếp thu tư duy ấy của người trong nước với bốn, năm tốc độ khác nhau: người dân bình thường, trí thức, tuổi trẻ, có lòng yêu nước, ham tiến bộ thì tiếp thu nhanh và sâu sắc còn giới lãnh đạo thì tiếp thu một cách hạn hẹp hơn, dễ bị dị ứng hơn và tiếp nhận cái mới khó khăn, miễn cưỡng hơn. Nhân đây tôi cũng nói thêm, có người cho rằng trong Bộ Chính trị có phe cấp tiến, phe bảo thủ, phe trung dung, phe đảng quyền, phe chính quyền v.v... Đấy là cách chia theo cảm tính, thiếu thực tế. Tôi không tin có sự chia rẽ như thế, vì riêng trong Bộ Chính trị, họ đã lựa chọn nhau rất kỹ. Họ là những người hệt như nhau về bản chất, là những người chủ trương độc đảng, chuyên chính, quay lưng lại với nền dân chủ của nhân dân. Tôi nghĩ, các phe phái khác nhau, nếu có chăng, sẽ hình thành ngoài Bộ Chính trị, như ở trong Trung ương chẳng hạn, hay các trong cấp ủy như ở thành phố Hồ Chí Minh hoặc ở Hà Nội, ở các ngành, các địa phương...
Nếu không xuất hiện những người lãnh đạo tiến bộ, thì tình hình ở Việt nam sẽ diễn biến ra sao?
Nếu vậy, tình hình sẽ rất nguy hiểm. Những bất công xã hội sẽ bị dồn nén lại rồi bùng nổ và hỗn loạn xảy ra. Những kẻ xấu sẽ "đục nước, béo cò". Có thể có những cuộc trả thù, thanh toán lẫn nhau giữa các nhóm, phe đảng... Bọn gây tội ác, lưu manh, kẻ cướp sẽ hoành hành. Chúng ta phải cùng nhau cảnh tỉnh đề phòng khả năng đó. Nếu khả năng xấu đó xảy ra, cần hạn chế sự hỗn loạn đến mức tối thiểu. Và nhân đó cũng có thể sẽ xuất hiện những điều kiện thuận lợi, những cơ hội nào đó làm cơ sở cho việc xây dựng một chế độ mới tốt đẹp. Sớm muộn, với xu thế phát triển của thế giới, nhân dân ta sẽ chuyển sang một nền dân chủ thích hợp và hòa nhập vào thế giới hiện đại.
Giới lãnh đạo ở trong nước vẫn vin vào cái cớ giữa châu Âu và châu á có những khác biệt lớn, cho nên nền dân chủ phương Tây không thích hợp với giá tri truyền thống của Việt nam. Bên cạnh đó, họ còn viện lý do Việt nam còn chống nghèo đói trước đã rồi mới nói đến chuyện dân chủ. Xin ông cho biết ý kiến?
Khi mở cửa ra thế giới, những người lãnh đạo Việt nam buộc phải tìm cách chống chế. Họ bám lấy cái lý của một vài nước châu á cho rằng, nền dân chủ phương Tây không thích hợp với giá trị của châu á. Họ đưa ra một vài điểm gọi là "giá trị châu á", như: người châu á ưa kỷ luật, có tính cộng đồng cao, thường đề cao nền độc lập của đất nước hơn là tự do cá nhân... Tôi cho đó là một kiểu ngụy biện. Bởi đã là con người, bất kì ở châu á hay ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi... ai cũng muốn được tự do trong cuộc sống của mình: tự do suy nghĩ, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do giao lưu, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập đảng phái... Tự do là tính phổ biến, có giá trị phổ cập. Nó là nỗi khát vọng khiến con người tranh đấu để có nó. Tự do là động lực giải phóng trí tuệ và năng lực của con người. Muốn xã hội phát triển, xóa đói nghèo, phải kích thích, tạo điều kiện giải phóng động lực ấy Những người lãnh đạo vin vào cớ giải quyết đói nghèo mà kìm hãm tự do trong xã hội, thì quả là ngược đời. Tự do, dân chủ là cần thiết. Đã nghèo đói, lạc hậu, kém phát triển thì lại càng phải khẩn trương xây dựng dân chủ trong hòa bình, duy trì pháp luật, kỷ cương, thì mới có khả năng tiến lên với tốc độ cao. Những người lãnh đạo đang mâu thuẫn với chính họ, vì họ đã đưa chủ nghĩa Mác-Lênin sinh ra từ Châu Âu, từ phương Tây vào Việt nam, mà ở những nước có trình độ công nghiệp phát triển cao như Đức, Anh, Pháp, Mỹ... người ta cũng không áp dụng được chủ nghĩa ấy. Trong khi đó, Việt nam là một trong những nước nông nghiệp, lạc hậu ở châu á, chủ nghĩa Mác-Lê-nin đã được "cấy trồng", bắt chấp việc nó có hợp với thủy thổ ở Việt nam hay không và không ai được phép cưỡng lại, phải coi đấy là một quy luật tất yếu (!?) Chỉ có chế độ dân chủ mới có khả năng tạo ra một xã hội có kỷ cương, ổn định và loại trừ ách độc đoán, gia trưởng, quan liêu, báo thủ, tạo nên lòng tin và ủng hộ của toàn dân. Trong nội dung của dân chủ không có yếu tố tạo nên hỗn loạn. Hỗn loạn chỉ xảy ra ở những nước thiếu dân chủ, dân chủ nửa vời, không triệt để dân chủ giả hiệu. Đánh đồng dân chủ với hỗn loạn là sai lầm. Chỉ cố dân chủ thực sự mới có hệ thống luật pháp hoàn chỉnh và do đó mới có trật tự và ổn định, phù hợp và hỗ trợ cho những mối quan hệ xã hội tốt đẹp nảy nở và phát triển. Cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế hiện nay ở các nước Châu á: Thái Lan, Nam Dương, Hàn Quốc, Mã Lai... đều cố chung một lý do là thiếu luật pháp nghiêm, thiếu dân chủ rộng, lề lối quân phiệt, gia trưởng, phe nhóm, móc ngoặc, tư túi, nhũng lạm còn quá nặng. Cuộc sống tự nó đã bác bỏ quan niệm Châu á chưa cần đến chế độ dân chủ.
Cũng cần chỉ rõ lời ngụy biện của họ bác bỏ nền dân chủ phương Tây là ngược lại với tư tưởng ông Hồ Chí Minh. Chính ông Hồ chứ không phải ai khác đã mở đầu Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945 bằng những lời trích từ văn kiện của cách mạng tư sản Pháp và cách mạng tư sản Hoa Kỳ, hai cuộc cách mạng tư sản rất xa lạ với Châu á, khẳng định quyền sống trong tự do của mọi dân tộc, mọi con người.
Trước tình hình hiện nay, liệu ông có điều gì để cảnh tỉnh những người lãnh đạo ở trong nước?
Cho đến nay tôi vẫn giữ quan hệ với một số người lãnh đạo ở trong nước, mặc dù tôi không tin họ có thể phục thiện. Họ chỉ đổi mới miễn cưỡng, bởi sức ép từ bên ngoài. Mặc dù họ kết án tôi, chụp mũ cho tôi, bác bỏ tôi, nhưng có những bức thư từ trong nước gửi ra cho tôi biết rằng có nhiều điều họ lặng lẽ chấp nhận những ý kiến của tôi và các chiến sĩ khác, mà không dám nói thẳng ra điều chấp nhận ấy. Những điều họ chấp nhận là do buộc phải chấp nhận, nhưng mặt khác họ vẫn chụp cho tôi bằng những lời thô bạo. Tôi không lấy đó làm phiền lòng. Tôi đang bận bịu với những công việc mà tôi cảm thấy đúng đắn và cuốn hút. Nếu có điều gì cần nhắn với những người lãnh đạo trong nước tôi chỉ có một điều duy nhất rằng: Đất nước đang ở vào thời kì hết sức nghiêm trọng, thời kì thứ nhất của đổi mới từ hơn mười năm nay đã tạo nên tiền đề cho một bước đổi mới mạnh mẽ hơn. Nếu không mạnh dạn thực hiện những bước đổi mới tiếp theo, thì tất cả thành tựu đạt được rất có thể tiêu tan và đất nước sẽ chìm đắm trong sự hỗn loạn và bế tắc! Tôi cảnh báo những người lãnh đạo trong nước rõ điều đó. Ví như một chiếc xe đang có đà leo dốc, vượt qua trở ngại khó khăn, bây giờ không dấn ga tăng tốc mà để mất đà dừng lại, thì xe có thể bị tụt dốc một cách tệ hại. Do đó, những người lãnh đạo hiện nay cần cố thái độ quyết đoán, tỉnh táo, để đẩy đất nước tiến lên phía trước. Tôi hy vọng những người lãnh đạo mới gồm thủ tướng Phan Văn Khải và năm phó thủ tướng, trong đó ông phó thủ tướng thứ nhất Nguyễn Tấn Dũng còn trẻ, có thể có tư duy mới mẻ và quả đoán đưa đất nước bước những bước mới, mở rộng thắng lợi. Nguy cơ tụt hậu hiện nay đang rõ ràng, nếu không giải thể bớt các cơ sở quốc doanh thua lỗ, nếu không cải cách gấp hệ thống ngân hàng, nếu không huy động nhanh vốn nhàn rỗi của tư nhân vào những hoạt động sản xuất kinh doanh hữu ích, nếu không xây dựng nhà nước có kỷ cương pháp luật nghiêm minh, nếu không có biện đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả từ trên xuống, không trừ một ai, thì đất nước sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng lớn. Những người lãnh đạo cần phải dứt khoát lựa chọn: hoặc là quyền lợi của cả dân tộc, tương lai của đất nước, lợi ích của nhân dân là trên hết, hoặc là đặt lợi ích cá nhân của một nhóm người trong đảng cộng sản với những đặc quyền đặc lợi của họ lên trên. Đây là một thử thách lớn đối với những người lãnh đạo. Những người lãnh đạo mới phải là những người thật sự trong sạch, công tâm, mới có đủ bản lĩnh để có những quyết định đúng đắn. Có tờ báo ở trong nước đã kêu lên rằng: "ông Trong Sạch, ông đang ở đâu?" Chúng ta phải tìm những chính khách, những nhân vật chính trị trong sạch, sáng suốt. Hiện nay có thể nói, tình hình đã rất cấp bách, không còn nhiều thời gian để thảo luận kéo dài. Chúng ta đã mất quá nhiều thời gian đình trệ qua mỗi lần đại hội đảng. Trước đại hội hàng tháng trời, người ta đình chỉ việc cho người Việt nam ở nước ngoài về nước, không cho Việt kiều về thăm quê, đình chỉ các chuyến đi du lịch.
Về đối ngoại, cần cải thiện nhanh chóng quan hệ toàn diện với Hoa Kỳ, giải quyết nhanh chóng vấn đề những quân nhân Mỹ bị mất tích trong chiến tranh. Ngay như Trung Quốc hiện nay còn phải sang Hoa Kỳ chạy vạy để xin giữ tối huệ quốc, để vay tiền, để mong được hợp tác, được Hoa Kỳ nâng đỡ. Thế, tại sao Việt nam không mau chóng giữ mối quan hệ gần gũi với Hoa Kỳ, sâu sắc hơn nữa mà lại còn dở dở, ương ương, coi Hoa Kỳ vừa là bạn, vừa là thù, với lập luận thiếu thiện chí, coi Hoa Kỳ là kẻ tạo ra nguy cơ lật đổ chế độ ở Việt nam bằng "âm mưu diễn biến hòa bình". Đồng thời chúng ta phải giải quyết sớm vấn đề nhân quyền, trả lại tự do lập tức cho tất cả những tù nhân chính trị còn lại. Nếu những người lãnh đạo coi những người có ý kiến xây dựng như các ông Trấn Độ, Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Hộ, Hà Sỹ Phu, Hoàng Hữu Nhân, Phan Đình Diệu... là lực lượng đối lập xây dựng, thì đối thoại, tranh luận sẽ rất có lợi Sẽ có nhiều ý kiến quý báu, bổ ích, thức thời.
Ngược lại, chính quyền quy chụp cho họ là phản động, bao vây, quản thúc họ, vậy là sai lầm gấp hai lần. Sai phạm thứ nhất là tự bộc lộ sự vi phạm nhân quyền, thứ hai là không chịu tiếp thu, tận dụng những ý kiến hay của những người có tâm huyết, am hiểu thời cuộc. Quan điểm bảo thủ cực đoan coi đối lập là thù, là lật đổ dẫn đến hậu quả vô cùng tệ hại và làm thiệt hại cho đất nước và những người có tấm lòng với đất nước. Những người lãnh đạo mới cần chấm dứt những cách nhìn cũ cực đoan như vậy có quan điểm hợp với sự thật, hợp với lẽ phải để vừa có ích cho đất nước, vừa giữ sự trong sạch cho đảng cộng sản qua những lực lượng đối lập xây dựng.
Đối với những người ở trong nước ra nước ngoài, ông có tiếp xúc với họ không. Những cuộc tiếp xúc ấy diễn ra như thế nào?
Theo kinh nghiệm của tôi, nếu biết ai đó ở trong nước ra nước ngoài thì người Việt hải ngoại nên gặp thậm chí tìm gặp họ. Hoặc ngược lại, nếu họ muốn gặp ta, ta sẵn sàng gặp. Bởi vì, những cuộc gặp như vậy chỉ có lợi, làm cho chúng ta am hiểu thêm một chút tình hình trong nước. Trong khi tiếp xúc với họ, ta có thể nói cho họ biết thêm tình hình người Việt ở hải ngoại, đặc biệt là những mặt tốt, ngoài ra còn cho họ biết thêm tình hình thế giới mà trong nước họ chưa có điều kiện biết, trong đó có cả những kinh nghiệm tổ chức xã hội, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh v.v... Thậm chí, nếu họ cần người Việt hải ngoại giúp đỡ, tùy theo khả năng, chúng ta sẵn sàng giúp họ một cách vô tư. Những anh em từ trong nước ra nước ngoài, dù họ là học sinh, sinh viên, cán bộ, bác sĩ, kể cả đảng viên cộng sản nữa... ra nước ngoài để học tập, công tác v.v... mà muốn tiếp xúc với tôi, muốn đọc sách của tôi, tôi luôn sẵn sàng tặng họ sách, gặp gỡ, hỏi chuyện họ. Điều đó rất bổ ích. Có người trong bộ máy cầm quyền, một vài đại biểu quốc hội ra nước ngoài, cán bộ ngoại giao, cán bộ thông tin, báo chí, nhà văn... một khi có dịp, tôi vẫn gặp họ và nói chuyện tự nhiên, bình đẳng và ngay thật. Có người là sĩ quan cao cấp, hiện vẫn tại chức trong quân đội, là bạn cũ của tôi, khi ra nước ngoài đã viết thư, gọi điện cho tôi, hoặc muốn gặp tôi, tôi vẫn gặp họ, không có gì ngại. Tôi nghĩ, những người đấu tranh cho dần chủ là làm một việc thiện, một việc chân, đúng đắn, hữu ích, nên chẳng phải sợ ai và cũng không nên có thái độ mặc cảm với ai. Như thế, mới có thể đáp ứng được những yêu cầu thời đại hiện đang đặt ra đối với những người làm dân chủ.
Ông đã từng ra nước ngoài và hiện đang sống ở Pháp. Trong thời gian này ông đã thu hoạch được gì mà ông cho là sâu sắc nhất và ông có luyến tiếc thời gian ông sống ở hải ngoại không?
Tôi đã từng nhiều lần ra nước ngoài và từ lần ra nước ngoài rồi sống ở Pháp đến nay đã được tám năm. Tất nhiên, tôi không ngờ tôi phải ở lại nước ngoài lâu đến như thế. Trước kia, tôi dự kiến thời gian khoảng bốn, năm năm thôi. Nhưng tôi không sốt ruột, vì tôi biết cái gì phải đến sẽ đến và việc khó đòi hỏi thời gian, nhất lại là việc thay đổi một chế độ chính trị.
Trong tám năm qua, điều tôi cảm nhận được sâu sắc nhất là tôi đọc được khá nhiều sách, mở rộng được kiến thức, vì ở các nước phương Tây trong những thư viện lớn sách quý không hiếm và dễ dàng được đọc. Tôi được mở rộng kiến thức qua truyền hình, sách báo, đặc biệt là qua gặp gỡ, trao đổi với những bạn bè mới. Những kiến thức về thời đại, kĩ thuật, tổ chức, chính trị thế giới, so với trước đây khi tôi còn ở trong nước, tôi thấy hiểu biết của tôi thay đổi nhiều. Tôi có thời gian để nhìn lại và ngẫm nghĩ cả thời kì lịch sử mấy chục năm qua. Tôi quan tâm theo dõi về các nước "xã hội chủ nghĩa" trước kia như thế nào và chuyển biến hiện nay của những đất nước ấy ra sao?
Tôi không để phí thời gian. Ngoài thời gian đọc sách, tôi đi tham khảo tài liệu, gặp gỡ bạn bè để trao đổi về các vấn đề kinh tế, kĩ thuật, quân sự, chính trị v.v... Đặc biệt quý đối với tôi trong những năm qua là tôi làm quen được khá nhiều người mà ở trong nước thì không thể quen được họ. Tôi đã kết bạn khá thân với một số người. Điều đó đối với tôi thực sự quý hơn vàng bạc, châu báu. Tôi nghĩ sống ở trên đời mà có tình bạn tốt là quý nhất Những người bạn hiểu mình, mình hiểu họ và nhất là họ làm cho hiểu biết của mình phong phú hơn Bạn bè của tôi có cả người lớn tuổi cũng như thanh niên, ở Mỹ có, Pháp có, Ba Lan có, Anh có... Riêng ở Đức tôi có khá nhiều bạn, phần lớn là còn trẻ. Họ là người nước ngoài và là người Việt nam. Trong những người bạn thân thiết, ở đây thân thiết có nghĩa là hiểu tôi và cùng chung một chí hướng đấu tranh cho dân chủ bằng phương pháp hòa bình, có những người tôi từng quen biết chút ít từ khi ở Việt nam, có những bạn trẻ trong số người Việt Đông Âu đã từng học ở các trường Đại học Bách khoa, Đại học Tổng hợp ở Hà nội, cũng có những người trước kia là sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt nam và cả trong Quân lực Việt nam Cộng hòa và bây giờ họ có những quan điểm tiến bộ gần gũi với tôi; còn có nhiều giáo sư ở các trường đại học ở bên Mỹ và đặc biệt là những người làm báo. Họ viết báo, làm báo nói, báo hàng ngày, hàng tuần... Chúng tôi liên lạc với nhau ở trên internet. Có thể nói, đây là vốn quý đối với tôi. Những người bạn mới của tôi có những tư duy rộng mở, sáng tạo, có tình yêu thương đất nước, quan tâm đến quê hương thực sự. Họ là những người bạn chí tình của tôi, mà khi về nước, tôi sẽ mang theo những tình bạn ấy, vì đó là món quà giá trị nhất mà cuộc đời đem đến cho tôi, khó có gì sánh được. Bù lại tình cảm gia đình mà tôi đã bị thiệt thòi phần nào do khoảng cách, xa vợ, xa con cháu, tôi có sự ấm áp của tình cảm từ những người bạn thân thiết mới.
Từ khi sống lưu vong ở nước ngoài, điều gì đối với ông là buồn nhất và vui nhất?
Tôi nhớ vợ tôi, con gái yêu của tôi còn ở Hà Nội. Tôi nhớ hai đứa cháu ngoại của tôi mà tôi yêu thương vô cùng? Tôi thường xuyên nhận được thư từ của gia đình gửi sang. Điều đó động viên tôi rất nhiều, làm cho tôi yên tâm. Tất nhiên vợ và con gái tôi quan tâm theo dõi tình hình cuộc sống và hoạt động của tôi, lo lắng cho sức khỏe của tôi. Lúc đầu con gái tôi rất lo cho tôi và viết thư kể rằng: "Mỗi lần bố nói trên đài (đài BBC) là con cảm động lắm, phát run lên vì xúc động, vì sợ nữa. Sợ vìi e ngại bố làm như thế có thể ảnh hưởng đến gia đình nhà mình chăng Nhưng sau đấy nhiều anh chị, các bác, lúc gặp con nói là rất mừng khi nghe thấy lời bố, rằng những điều bố nói hợp lẽ phải cho nên con thấy yên lòng". Nhà tôi cũng lo và nhắn khéo với tôi rằng: "... có khi không nên nói nhiều, nhớ rằng ông mà bị cảm thì con cháu ở nhà nó hắt xì hơi đấy!", tức là người ở nhà có thể bị liên lụy. Tôi chỉ nghĩ, việc gì đúng thì mình làm, làm theo lương tâm và có lợi cho đất nước, cho tất cả mọi người.
Đấy là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn của đời tôi.
Nếu ai cũng ngại làm việc phải thì đất nước sẽ mãi mãi trì trệ.
Tôi buồn nhất là đất nước còn chậm tiến về chính trị, nhân dân vẫn chưa có tự do sau những năm chiến tranh đằng đẵng, đầy hy sinh, thiếu thốn. Tốc độ Việt nam hòa nhập với thế giới vẫn ì ạch, quan hệ Việt-Mỹ tiến quá chậm? Như đã nói ở trên, tôi có những niềm vui. Niềm vui lớn nhất là tôi tận dụng thời gian ở nước ngoài để tìm hiểu về thế giới. Các thư viện lớn, các màn vô tuyến truyền hình Hoa Kỳ, Âu Châu, các cuộc hội nghị quốc tế tôi dự, các nước tôi đến thăm đã mở rộng hiểu biết của tôi chưa bao giờ nhiều và sâu sắc đến vậy.
Tôi vô cùng vui mừng khi bạn bè thân trong nước nhắn sang, tuy chính quyền trong nước ngăn cấm, triệt tiêu các lực lượng đối lập xây dựng, thì lực lượng ấy đang nảy nở. Chính chúng tôi, một số người ít ỏi ở ngoài nước cùng với số anh em dân chủ trong nước đang ngày một đông đảo, sẽ tạo nên một lực lượng đối lập xây dựng, không phải đối lập kiểu phá phách, gây hỗn loạn. Do đó, mặc dù những người cầm quyền rất khó chịu, bực tức, nhưng họ phải chú ý đến các ý kiến đối lập, buộc phải thực hiện một số ý kiến của lực lượng đối lập xây dựng, lực lượng dân chủ. Mặt khác, mặc cho một số người cầm quyền thóa mạ, chụp mũ những người dân chủ, tôi nghĩ lực lượng dân chủ đang giữ một vị trí cần thiết, có lợi cho đất nước khi chưa có lực lượng đối lập xây dựng chính thức.
Mặc dù bị chính quyền chụp mũ, vu cáo, tính ra tôi vẫn "lãi". Tôi có thêm bạn ở trong bộ máy chính quyền đảng, trong giới trí thức, văn nghệ sĩ, cán bộ các ngành... Họ nhắn tin, gửi thư, tìm gặp tôi khi họ qua Pháp. Tôi có thêm nhiều bạn quý trong cộng đồng người Việt, không phân biệt quá khứ, "sắc áo", "màu cờ". Cũng có những người thật lòng thương dân, ưa chuộng dân chủ, sống có lý tưởng, đạo lý bên cạnh những người vị kỷ, hám lợi riêng, độc đoán, xảo trá. Tôi kết bạn với những người tôi thấy là tốt, tử tế và tôi xa lánh, dị ứng với loại sau.
Rút cuộc, tôi vẫn lợi. Cho nên tôi luôn lạc quan. Thời gian đang ủng hộ sự nghiệp dân chủ hóa. Và xu thế thời đại nghiêng về phía những chiến sĩ dân chủ. Khó khăn chỉ làm cho mỗi thắng lợi nhỏ thêm có ý nghĩa.
Ông Lê Khả Phiêu được bầu làm Tổng bí thư đảng cộng sản, thành nhân vật số một của chế độ, ông có nhận định ra sao?
Ông Lê Khả phiêu được dự định đưa lên làm Tổng bí thư từ Đại hôi đảng lần thứ 8 giữa năm 1996 nhưng bị để chậm lại một năm rưỡi do tín nhiệm lúc đó còn thấp qua cuộc thăm dò Trung ương đảng.
Ông Phiêu có những mặt trội hơn so với những người tiền nhiệm: trẻ hơn ông Đỗ Mười chừng 17 tuổi do đó tư duy có thể ít xơ cứng hơn, ít bảo thủ hơn. Do uy tín còn thấp, thành tích chưa có gì đáng kể, nên có thể buộc ông phải cố gắng để tạo uy tín trong đảng, trong xã hội. Chỗ yếu rõ rệt của ông Phiêu là còn ít kinh nghiệm về chính trị, ngoại giao, kinh tế. Việc cử một viên thượng tướng, chính ủy chuyên nghiệp trong quân dội, làm tổng bí thư là không bình thường trong thời bình, xây dựng đất nước, hòa nhập với thế giới, khi chế độ quân phiệt đã kết thúc ở Đài Loan, Hàn quốc, Thái Lan... Có một điểm đáng được chú ý là năm 1997, ông Phiêu đã gặp ông Hoàng Minh Chính hai lần và mồng 2 Tết Mậu Dần vừa qua đã đến thăm ông Trần Độ, hai nhân vật đòi dân chủ mạnh mẽ ở trong nước. Nhưng không nên có ảo tưởng về người lãnh đạo số một mới này, vì thái dộ rõ ràng của ông với những kiến nghị đòi dân chủ vẫn còn là một ẩn số, trong khi bộ máy thông tin, báo chí ở trong nước gần đây phê phán rất dữ dội các kiến nghị ấy.
ở vị trí số một của chế độ, nếu ông Phiêu có tư duy cởi mở, thức thời thì ông có thể có tác động quyết định đến sự lãnh đạo của đảng nhằm thúc đẩy đổi mới một cách mạnh mẽ, thậm chí có thể xoay chuyển mau lẹ tình hình như Khơ-rút-xốp và Goóc-ba-chốp ở Liên xô đã từng làm sau khi nắm chức tổng bí thư. Nhưng căn cứ vào những điều ông Phiêu đã nói, đã viết và đã làm cho đến nay, khả năng ấy khó có thể thành hiện thực. Tầm vóc và bản lĩnh chính trị của ông vẫn còn tỏ ra là ở mức "khiêm tốn", nếu không nói là xoàng, thấp.
Tháng 4-1997, tôi có gửi cho ông Phiêu một lá thư được đưa đến tận tay ông. Tôi tận dụng mối quan hệ bè bạn cũ để cố tác động đến ông, tuy không thật tin ở kết quả. Dù sao cũng yên lòng là đã làm một việc cần thiết, ít ra là để cảnh báo trước một nguy cơ cho đất nước nếu lãnh đạo không được cải tiến kịp thời. (Xin xem ở phần phụ lục lá thư ấy).
Vậy thì với ông thượng tướng Lê Khả Phiêu làm tổng bí thư, ông có bị quan hơn không?
Không, vì tôi nghĩ rằng ông Phiêu nhậm chức trong điều kiện đất nước đầy khó khăn, quá nhiều nguy cơ dồn dập. Ông ta không thể tự mãn, kiêu ngạo. Ông đang trở thành "tù binh" của tình thế, bị vây bủa tứ phía. Đổi mới có nguy cơ đứt gánh, nợ chồng chất, phát triển chững lại, đầu tư từ bên ngoài giảm đáng kể, tham nhũng tràn lan hơn bão táp. Khủng hoảng tài chính, kinh tế ở châu á tác động rất nguy hiểm đến nước ta. Bất công xã hội tăng. Lòng dân không yên. Nhà nước buộc phải phá giá đồng bạc Việt nam hai lần rồi...
Cái ghế ngồi của ông tổng bí thư mới rất chật, không còn chỗ để xoay xở, không có nhiều lựa chọn. Dừng lại thì nguy, quay lại phía sau thì khốn. Đi lên phía trước thì hoa mắt. Có vẻ như giới lãnh đạo hiện nay chỉ cần thời gian để thu vén riêng, họ suy tính theo ngắn hạn. Sau nữa là sống chết mặc bay..
Nhìn lâu dài một chút, thế nào dân chủ cũng thắng.
Niềm lạc quan của ông có cơ sở không?
Có chứ. Tôi rất lạc quan. Vì dân chủ là giá trị lớn nhất của thời đại. Vì trong thế kỷ qua, đại đa số các nước đều đi vào con đường ấy, từ ít đến nhiều, rất nhiều. Đó là thành quả của quá trình lịch sử toàn cầu. châu á có phần chậm hơn châu Âu, nhưng nhanh hơn châu Phi. Quanh nước ta, Nhật Bản - nước quân phiệt phát xít, đã bước vào thời kỳ dân chủ rất rộng, tuy hình thức là dân chủ lập hiến, các đảng lớn thay nhau cầm quyền. Thái Lan, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, Hàn quốc... đã trở thành dân chủ. ở Hàn quốc, nhà đối lập Kim Đại Trọng (Kim Dee Jung) từng ở tù do chống đối chính trị, từng bị kết án tử hình với tội "âm mưu lật đổ chính quyền", nay đã thành tổng thống qua bầu cử dân chủ. Không ai có thể ngăn chặn bước tiến ấy của thời đại. Hơn nữa, cách mạng tin học, với hệ thống truyền tin cực nhanh, nhạy, với vô vàn máy tính điện tử... làm cho đời sống chính trị các dân tộc gần nhau, hiểu nhau, truyền bá nhanh như chớp đến mọi nơi những giá trị dân chủ, nếp sống dân chủ.
Một số người về thăm Việt nam trở ra kể rằng dân ta chỉ lo làm ăn, không quan tâm gì đến chính trị ông có đồng ý không?
Đây là một cách nhìn hời hợt, hợp với mong muốn và thủ đoạn tuyên truyền của chính quyền độc đoán. Tôi không tin điều ấy.
Nhân dân ta lo làm ăn là một chuyện. Hơn 40 năm bị cấm đoán đi lại, kinh doanh, cuộc sống tù túng, ngạt thở. Mười năm nay họ buộc trả lại xã hội cái quyền tự do làm ăn theo kinh tế thị trường vốn có từ xưa, người dân được hít không khí tự do làm ăn, tất nhiên mọi người tận dụng cái quyền tự do ấy để sinh sống, bù lại mấy chục năm tù túng. Điều này rất dễ hiểu.
Nhưng cuộc sống không chỉ có làm ăn. Con người còn có nhu cầu quan hệ xã hội, thường thức văn hóa? thể thao, du lịch, giáo dục con em, chăm sóc y tế, tình cảm bạn bè... trăm nghìn quan hệ hàng ngày ấy đụng đến chính trị, đụng đến tự do của công dân trong cái gọi là xã hội dân sự. Quan hệ công dân với nhà nước hiện ra hàng ngày, từ giấy tờ chứng nhận sở hữu, mua bán, hợp đồng, thuế khóa, xin việc, tiền lương, bảo hiểm, xin học, chữa bệnh, thi cử, đi lại, xuất cảnh, đóng góp, kiện tụng... trong cuộc sống xã hội đều dính đến chính trị. Một xã hội độc đoán khác hẳn với một xã hội dân chủ, một chế độ độc đảng khác hẳn với một chế độ pháp quyền, đa nguyên, đa đảng. Qua mười năm mở cửa, tiếp nhận vô vàn thông tin mới mẻ với những xã hội dân chủ qua vô vàn quan hệ trong ngoài nước, bà con ta ở trong nước bắt đầu nhận ra rằng:
Trong nhà ta chỉ khen ta,
Ra ngõ mới thấy người ta hơn mình.
Tôi nghĩ những điều này không sờ thấy, nhưng đã làm cho hơn 70 triệu cái đầu, hơn 70 triệu bộ óc thay đổi khá sâu rộng sau hơn 40 năm tù túng, ru rú trong nhà.
Tôi vừa gặp một số sinh viên tuổi từ 21 đến 26 sang Pháp học thêm về y khoa và pháp luật, hỏi chuyện, các em biết rất rõ nếp sống chính trị ở nhà lạc hậu ra sao, kiểu "đảng chọn dân bầu" là trò hề như thế nào, vì sao mà "quốc nạn" tham nhũng trở nên bất trị. Các em còn tranh luận với nhau về nhân quyền, về vai trò luật sư mờ nhạt, khốn khổ ở trong nước, về quan hệ Việt-Trung, Việt-Mỹ, Việt-Pháp... Rõ ràng nhận thức của người trong nước đã thay đổi khá nhiều, trong 4, 5 năm gần đây. Trình độ tìm hiểu, so sánh, phân tích, nhận định, phê phán của đồng bào trong nước mới chỉ 4, 5 năm đã khác trước khá nhiều. Phố xá thay đổi, hàng hóa thay đổi, làm ăn, phong tục thay đổi, kiểu quần áo thay đổi.. và cái thay đổi ít thấy lại quan trọng nhất là sự thay đổi trong cái đầu, trong suy nghĩ về cuộc sống, về nếp sống, về tự do, chính trị, về chế độ.
Ông có tin là người ở trong nước sẽ tự mình xoay chuyển được tình thế, kết thúc chế độ độc đoán hiện tại không?
Cho tôi được kể hết chuyện trên đây đã. Một em nói với tôi rằng: ông Phiêu, ông Phiệu hay ông Phèo gì không cần biết, ông nào cũng phải chịu sức ép của xã hội và của chủ nợ. Họ trót hứa hão với dân về công bằng xã hội, xây dựng xã hội văn minh, bình đẳng, họ leo lẻo cam kết bài trừ tham nhũng, món nợ đời này cứ chồng chất, treo lơ lửng trên đầu họ. Chẳng lẽ chỉ là hứa phiệu! Họ nợ WB (Ngân hàng thế giới), nợ FMI (Quỹ tiền tệ quốc tế), nợ các nước châu Âu, nợ nước Nga... tất cả gần 20 tỷ USD. Còn nợ mồm về tôn trọng nhân quyền, không thể ì ra, vỗ nợ kiểu Chí Phèo được! Họ buộc phải hứa cải tổ hành chính, đổi mới kinh tế, tư nhân hóa 200 cơ sở quốc doanh, đơn giản hóa luật lệ đầu tư nhưng độc đáng là căn bệnh gốc không chịu từ bỏ thì chỉ là hứa hão? Họ kẹt cứng. Mà độc đảng với họ là tự sát vì quen ngồi một mình một chiếu thành cố tật rồi! Thế là phiêu, nghĩa là đi đứt, đàng nào cũng phiêu?
Đó người trong nước mà nói vậy đó. Cho nên người trong nước trực tiếp bị kìm kẹp, trực tiếp thấy trò hề của họ, chứng kiến lời hứa của họ, trực tiếp chịu đựng những bất công, áp bức, lừa lọc sẽ lả lực lượng trực tiếp quyết định kết thúc chế độ độc đoán phi lý này. Nông dân Thái Bình, nông dân Đồng Nai, nông dân Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thanh Hóa, Bắc Ninh... vừa nói lên những điều cần phải nói. Đó mới chỉ là những màn dạo đầu. Họ đàn áp thì chỉ là đổ thêm dầu vào lửa. Mà nhượng bộ, lùi một bước thì sẽ bị đẩy lùi thêm 2 bước, 3 bước nữa. Sức dân chở thuyền, sức dân cũng làm úp thuyền như vậy đó.
Vậy theo ông ở trong nước đã có phong trào đòi dân chủ chưa?
Theo tôi, đã có phong trào. Đã có cuộc vận động cho dân chủ, cuộc đấu tranh đòi dân chủ, tất nhiên ở mức thấp, ngày càng phát triển. Cần thấy chế độ độc đáng hiện nay có thể coi là một chế độ đàn áp, chế độ có tính chất cảnh sát, chế độ độc đoán. Các cơ quan nhân quyền quốc tế xếp nó cùng loại với chế độ ở Trung Quốc, ở Bắc Triều Tiên, ở Cu-ba, ở Li-bi, I-rắc, ở Sô-ma-li, U-gan-đa, ở My-an-ma, với cái nghĩa là tồn tại do đàn áp! Đây là một mối nhục dân tộc. Đất nước nghìn năm văn hiến mà lạc hậu, "đèn đỏ" về nhân quyền, mà nhân dân bị kìm kẹp bởi cường quyền? Đến nỗi cả thế giới tiến bộ phải lên tiếng đòi quyền tự do cho nhân dân Việt nam!
Phong trào "Nhân văn-giai phẩm" cuối những năm 1950 có thể coi như mở đầu của phong trào dân chủ. "Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ" những năm 1980 cũng là một cuộc vận động dân chủ. Những chiến sĩ dân chủ từ mươi năm nay xuất hiện thêm nhiều, với những con người tiêu biểu ở mọi lĩnh vực: chính trị, khoa học, văn hóa, Văn nghệ, truyền thông... Đó là Phan Đình Diệu, Dương Thu Hương, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Hộ, Đoàn Viết Hoạt, Lữ Giang, Nguyễn Đan Quế, Tạ Bá Tòng, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Thích Tuệ Sĩ, Thích Quảng Độ. Đó là các cụ các ông Lê Giản, Ngô Thức, Nguyễn Văn Trấn, Hoàng Hữu Nhân, đó là nhóm dân chủ Đà Lạt gồm Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, đó là tướng Trần Độ, cựu chiến binh Trần Bá, đó là nhà văn Hoàng Tiến, nhà địa vật lý Nguyễn Thanh Giang bền bỉ đòi bằng được tự do báo chí, đó là tiến sĩ vật lý Nguyễn Hoàng Phương vừa đàng hoàng trả lại thẻ đảng.
Những người trên đây chỉ là phần nổi của núi băng mà phần chìm lớn gấp trăm ngàn lần phần nổi, với bạn bè, người thân, đồng chí hướng, chưa cần xuất đầu lộ diện, ở vùng nào, đô thị nào, nông thôn nào cũng có. Đó còn là hàng chục vạn dân ở 128 xã tỉnh Thái Bình, của hàng trăm xã khác ở đồng bằng sông Hồng, ở Đồng Nai, Biên Hòa, ở đồng bằng sông Cửu Long... hào khí cao, mưu mẹo sâu phối hợp nhịp nhàng, chống bọn cường hào địa phương được bọn tham quan Ô lại ở Trung ương che chở, vơ vét tài sản dân đen. Đó là đồng bào theo các tôn giáo (đạo Phật, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài Hòa Hảo...) đòi tôn giáo phải được tự do. Phong trào dân chủ đang có điều kiện phát triển ngày càng sâu rộng, cho đến ngày chế độ độc đoán bị loại bỏ bằng một thể chế dân chủ.
Tốt nhất là nhóm lãnh đạo nên thức thời, chủ động thay đổi tận gốc chế độ độc đoán, từng bước thực hiện tự do tư tưởng và ngôn luận, tự do báo chí, trả tự do cho người tù chính trị, chấp nhận một thế lực đối lập xây dựng, thực hiện hòa giải hòa hợp với người Việt ở nước ngoài, hòa nhập với thế giới hiện tại. Đại thể như Goóc-ba-chốp, như Bô-rítx Yen-sin đã làm ở Liên xô, ở nước Nga, nhưng thuận lợi hơn nhiều vì đổi mới kinh tế ở Việt nam đã đạt một số thành tựu khả quan.
Nếu không, tức nước vỡ bờ, xu hướng dân chủ, đòi công bằng xã hội sẽ bùng nổ với hậu quả tệ hại cho đảng cầm quyền, cho đất nước, mà trách nhiệm hoàn toàn thuộc về đảng độc đoán, trách nhiệm nặng nề này sẽ do lịch sử và dân tộc phán xét uy tín còn lại của đảng cộng sản sẽ tiêu tan sạch sành sanh!

<< Phần 2 | Phần 2 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 730

Return to top