Bãi kim cương là dấu vết của một sao chổi lang thang trong khoảng không gian vũ trụ vừa đi qua. Một lúc khá lâu, con tàu bị nó hút nên phải len lỏi giữa các thiên thạch. Tốc độ con tàu không ngừng tăng lên, nó chịu tác động bởi những định luật tuyệt đối của toán học - hướng bay của con tàu và của các thiên thạch dần dần thay đổi. Đầu sao chổi và dòng thiên thạch bay theo đường hipecbôn để vòng qua mặt trời rồi biến mất trong khoảng không gian bao la. Con đường bay của con tàu ngày càng gần như hình elip.
Hầu như không có hi vọng gì trở về được Trái Đất nên Los và Guxev tích cực hẳn lên. Bây giờ họ như dán mắt vào các lỗ quan sát để theo dõi bầu trời. Một phía con tàu bị mặt trời chiếu vào nên nóng bỏng. Họ phải cởi quần áo ra.
Bãi kim cương đã lùi ra rất xa ở phía dưới, rồi biến mất. Đột nhiên họ phát hiện ra Sao Thổ có nhiều vệ tinh bao quanh, óng ánh những màu sắc của cầu vồng.
Con tàu bị sao chổi kéo đi, dần dần trở về Thái Dương hệ.
Có một lúc, bóng tối bị một đường sáng lóe cắt ngang. Nhưng rồi cả đường này cũng nhạt dần và tắt hẳn. Đó là những tiểu hành tinh, có vô vàn ở xung quanh mặt trời. Sức hút của chúng làm cho đường bay của con tàu càng bị cong thêm. Cuối cùng, ở một lỗ quan sát phía trên, Los trông thấy một lưỡi liềm hẹp, sáng chói, rất kì lạ, - đó là Sao Kim. Hầu như cũng lúc ấy, nhìn qua một lỗ quan sát khác, Guxev thở hổn hển và ngoảnh lại, mặt anh đỏ gay và đầy mồ hôi.
Kia rồi, kia rồi!
Trong bóng tối mịt mùng, lấp lánh ấm áp một quả cầu bàng bạc xanh nhạt. Cách nó một quãng và sáng hơn nó, có một quả cầu khác, chỉ nhỏ bằng quả phúc bồn tử. Con tàu đang lao chệch sang bên một chút, Los bèn quyết định tiến hành một thao tác nguy hiểm là quay phần ống của con tàu để đổi hướng bay. Anh đã thực hiện được tốt đẹp việc này. Con tàu đã chuyển được hướng.
Thời gian cứ trôi đi. Los và Guxev khi thì dán vào lỗ quan sát, khi thì nằm lăn ra giữa đống chăn đệm. Nhưng sức lực cuối cùng của họ đã sắp cạn. Họ khát cháy cổ. Nước uống đã hết. Và rồi trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh, Los trông thấy những tấm chăn, những cái túi cứ “bò” trên thành tàu. Guxev đang cởi trần cũng lơ lửng giữa tàu.
Tất cả giống như trong một cơn mê sảng. Guxev nằm sấp bên một lỗ quan sát. Và kìa, anh ta hơi nhổm dậy, miệng lắp bắp, hai tay đưa lên ngực, lắc lắc cái đầu có bộ tóc bờm xờm, mặt mũi giàn giụa nước mắt, bộ ria quặp xuống.
Em quý anh, em quý anh!...
Tuy không tỉnh táo lắm, nhưng Los vẫn hiểu được rằng con tàu đã lật ngược, phần ống ở phía trước và đang bị Trái Đất hút. Anh bò tới máy biến trở và xoay mạnh. Con tàu rung lên và phát ra những tiếng ầm ầm. Anh cúi xuống một lỗ quan sát.
Trong bóng tối, lơ lửng một quả cầu lớn chan hòa ánh nắng. Các đại dương màu xanh lam, đường viền các hòn đảo màu xanh lá cây, các đám mây che khuất một lục địa nào đó. Quả cầu chầm chậm quay.
Mắt anh tràn lệ nên anh nhìn không rõ nữa. Tâm hồn anh như khóc lên vì yêu thương, đang bay về đó. Quê hương của loài người! Máu thịt của cuộc sống! Trái tim của thế giới!
Trái Đất che mất nửa bầu trời. Los xoay máy biến trở đến mức tận cùng. Dù vậy, con tàu vẫn bay rất nhanh, - vỏ tàu nóng rực, lớp cao su sôi lên, lớp da bốc khói. Bằng một cố gắng cuối cùng, Guxev xoay cửa nắp. Gió lạnh thổi hun hút vào khe hở. Trái Đất mở rộng vòng tay đón lấy hai đứa con lưu lạc.
Con tàu chạm đất thật là mạnh. Lớp vỏ vỡ ra. Quả trứng thép chọc sâu phần ống của một mô cỏ.
Bấy giờ là buổi trưa ngày chủ nhật, mồng ba tháng sáu. Ở cách nơi xa con tàu rơi xuống, - trên bờ hồ Misigân, những người đi chơi thuyền, những người ngồi ở ngoài hiên các quán ăn và quán cà phê, những người đang chơi quần vợt, chơi gôn, chơi bóng đá, những người thả diều lên bầu trời trong xanh, - tất cả những người đi nghỉ ngày chủ nhật để tận hưởng vẻ đẹp của bờ hồ đầy cây xanh và tiếng lá rì rào ấy đều nghe thấy một tiếng rít kì lạ, kéo dài trong năm phút.
Những người còn nhớ thời kì đại chiến thế giới thì nhìn lên bầu trời và nói rằng đạn pháo hạng nặng thường rít lên như thế. Sau đó, nhiều người trông thấy một cái bóng hình quả trứng lao nhanh xuống đất.
Chưa đầy một giờ sau, một đám người rất đông đã tụ tập ở nơi con tàu rơi. Những người tò mò từ khắp các phía chạy đến, kẻ đi ô tô, người đi thuyền trên hồ nước xanh. Con tàu hình quả trứng bị cháy xém, nhăn nhúm và vỡ tung, đổ nghiêng trên mô đất. Người ta nói lên nhiều giả định, giả định nọ ngốc nghếch hơn giả định kia. Đặc biệt là đám đông bắt đầu náo động khi họ đọc được dòng chữ khắc sâu trên cửa nắp: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA XÔ VIẾT LIÊN BANG NGA. Chúng tôi bay từ PET ROGRAD ngày 18 tháng tám năm 192...” Lại càng kì lạ vì hôm này là ngày 3 tháng sáu năm 19... Tóm lại, dòng chữ trên được khắc cách đây đã ba năm rưỡi.
Sau đó, khi từ trong con tàu bí hiểm phát ra những tiếng rên yếu ớt, đám đông hoảng sợ, lùi lại và lặng đi. Một đội cảnh sát, một bác sĩ và mười hai phóng viên đeo máy ảnh đã tới. Họ mở cửa nắp, và cực kì thận trọng, họ khiêng từ trong con tàu ra hai người cởi trần; một người gầy gò như bộ xương, đã già, tóc màu sáng đang bất tỉnh, người kia thì mặt bị thương, tay bị gãy, đang rên não nuột. Trong đám đông kêu lên những tiếng kêu tỏ ý thương xót, tiếng khóc của phụ nữ. Hai nhà du hành vũ trụ được cho vào ôtô và được đưa tới bệnh viện.
* Con chim ở ngoài cửa sổ hót lên những tiếng trong như pha lê đầy hạnh phúc. Nó hót về tia sáng mặt trời, về bầu trời xanh, Los nằm yên trên gối lắng nghe. Nước mắt chảy ròng ròng trên gương mặt nhăn nheo của anh. Cái âm thanh trong như pha lê này, anh đã nghe thấy ở đâu rồi. Nhưng ở đâu nhỉ? Bao giờ nhỉ? Bên ngoài ô cửa sổ có che tấm rèm được làn gió ban mai thổi phồng và lật lên một nửa, lấp lánh những giọt sương trên ngọn cỏ. Những chiếc lá ẩm ướt lay động, in bóng trên tấm rèm. Chim hót líu lo. Xa xa, từ phía sau rừng, một đám mây trắng đang bốc lên.
Trái tim ai đó vẫn nhớ nhung mặt đất này, những đám mây này, những trận mưa rào ồn ĩ và những giọt sương long lanh, những người khổng lồ đi lang thang giữa các quả đồi xanh tươi cây cối... À, anh nhớ ra rồi... AÊLITA... Nhưng có cô gái ấy không nhỉ? Hay đó chỉ là một giấc mơ của anh? Không. Con chim có tiếng hót trong vắt đang kể chuyện rằng xưa kia, một người phụ nữ có nước da mai mái như buổi hoàng hôn, có gương mặt gầy gầy u buồn, ngồi bên đống lửa đêm hôm nào đã hát một bài hát cổ xưa về tình yêu.
Đó là lý do vì sao nước mắt lại giàn giụa trên đôi má nhăn nheo của Los. Con chim hót về nàng thiếu nữ ở tận đằng sau các ngôi sao và về con người mơ mộng đã bay khắp cả bầu trời.
Gió thổi mạnh hơn làm cho tấm rèm phồng lên thêm, mép dưới của tấm rèm nhẹ nhàng bay tung lên, và thế là trong phòng ngào ngạt mùi mật, mùi đất, mùi hơi ấm * Vào một buổi sáng như thế, Xcail đến bệnh viện. Ông ta xiết chặt tay Los, - “Xin chúc mừng, ông bạn thân mến”, - rồi ngồi xuống chiếc ghế đẩu bên cạnh giường, hất mũ ra sau gáy. Ông ta nói:
- Tôi vừa ở chỗ ông Guxev, ông ta cừ lắm: tay phải bó bột, hàm bị vỡ, mà lúc nào cũng cười, ông ta rất hài lòng là đã về được Trái Đất.
Tôi đã gửi một bức điện đi Pet rograd cho vợ ông ta và năm nghìn đô la. Về phần ông, tôi đã điện về cho tòa báo của tôi. Ông sẽ nhận được một món tiền lớn về tập Ghi chép trong cuộc hành trình. Nhưng ông phải hoàn thiện con tàu hơn nữa mới được, vì ông hạ cánh xoàng quá.
Kể từ buổi tối điên rồ ấy ở Pet rograd, thoáng một cái mà đã gần bốn năm rồi. Ông bạn ạ, tôi khuyên ông nên uống một ly cônhắc ngon, ông sẽ thấy sảng khoái hơn. Xcail vừa nói vừa vui vẻ và ân cần nhìn Los, - mặt Xcail rám nắng, vô tư lự, mắt ông ta háo hức, tò mò. Los chìa tay cho ông ta:
- Xcail, tôi rất mừng là ông đã tới.